27
Tháng Mười 20152:11CH
Trang
bìa tạp chí TIME số ra ngày 4 tháng 4 năm 1955 đề tựa “The hour is late, the
odds are long” (Thời cơ đã muộn, tình thế lại bấp bênh), dưới bức hình ông Ngô
Đình Diệm (bấy giờ là Thủ tướng Quốc gia Việt Nam) và lá quốc kỳ bị rách. Đây
là thời điểm thi hành Hiệp định Genève, chính thể Quốc gia Việt Nam đứng trước
nguy cơ tan rã vì nội chiến.
Bài
viết theo kịch bản Phan Nhật Nam. Ngọc Đan Thanh diễn đọc. Đạo diễn Vũ Trần.
SBTN/Trúc Hồ sản xuất.
“Nếu bọn Việt Cộng thắng, thì quốc-gia Việt-Nam
cũng sẽ bị tiêu-diệt và sẽ biến thành một tỉnh nhỏ của Trung-hoa Cộng-sản. Hơn
nữa toàn-dân sẽ phải sống mãi mãi dưới ách độc tài của một bọn vong bản vô gia
đình, vô tổ quốc, vô tôn giáo."
Ngô
Đình Diệm
(Đồng Cam,
Tuy-Hòa 17-9-1955)
Dẫn
Nhập
Ngày 1
Tháng 11 năm 1963 tại Sài Gòn nổ ra cuộc binh biến do giới tướng lãnh và chỉ
huy trưởng các đơn vị tác chiến chiến thuật QLVNCH tổ chức và thực hiện. Biến cố
có kết thúc là Tổng Thống Ngô Đình Diệm cùng bào đệ, Cố Vấn Ngô Đình Nhu bị thảm
sát và nền Đệ Nhất Cộng Hòa cáo chung (1955- 1963). Và phải đến bốn năm sau,
1967 Đệ Nhị Cộng Hòa mới được thành hình với Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu mà lần
tưởng niệm Tháng 9 vừa qua đã nhắc nhở.
Biến cố
năm 1963 xa xôi kia tính đến hôm nay đã là 52 năm, thời gian đủ dài để tất cả
tranh chấp, dị biệt, đối kháng nẩy sinh từ trước, và sau lần kết thúc nền Đệ Nhất
Cộng Hòa với lần bức tử của vị nguyên thủ.. Tất cả những mâu thuẩn đối nghịch từ
những cá nhân, nhóm cá nhân của nhiều phía hôm nay cần phải được phân giải
khách quan, trung thực để thấy ra một điều chung nhất là: Cùng lần với
thảm kịch của cá nhân, gia đình Tổng Thống Ngô Đình Diệm là hậu quả, hệ quả uất
hận vô bờ của toàn dân tộc Việt Nam.
Phải! Hết
thảy dân tộc Việt Nam, toàn thể người Miền Nam bao gồm tập thể
người Lính QLVNCH là đối tượng chủ thể trực tiếp hoặc gián tiếp thụ nạn từ chế
độ cộng sản Hà Nội. Tình thế xã hội Việt Nam hiện nay thực chứng cho
nhận định nầy. Lẽ tất nhiên, người và tổ chức đảng cộng sản lại là một vấn đề
khác.
I-
Con Người - Giòng Dõi - Dân Tộc:
1.1- Từ
tinh thần vừa nêu ra, buổi tưởng niệm lần thảm sát Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm
và Cố Vấn Ngô Đình Nhu cũng là buổi Đồng Tế cho Anh Linh Chiến Sĩ-Đồng Bào đã
ngã xuống trên quê hương vì mục tiêu Dân Chủ-Tự Do mà chế độ Cộng Hòa hằng biểu
hiện. Ngày 1 Tháng 11 cũng là Lễ Chư Thánh của Đạo Công Giáo – Là ngày vinh
danh Chư Thánh nơi Thiên Đàng. Với ý nghĩa vinh hiển nầy, Dân Tộc Việt Nam quả
rất xứng đáng với danh vị cao quý: Việt Nam là một trong những
Dân Tộc gánh chịu Khổ Nạn của toàn thể loài người..
Chúng ta cần được chứng minh: Từ đầu Thế Kỷ thứ 1 sau Công Nguyên với cuộc khỏi nghĩa của Hai Bà Trưng, Bà Triệu; tiếp theo các đời Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần cho đến đời Hậu Lê do Lê Lợi dựng nghiệp vào năm 1427.. Khoảng thời gian 1500 năm dựng nước và giữ nước với bốn kỳ Bắc Thuộc nầy, lịch sử quả đã phủ đầy máu xương của giòng giống Việt. Đấy là tộc người đã sống, chiến đấu và chết trên đất An Nam vùng Đông Nam Á.
Có thể
nhắc lại cụ thể là cuộc chiến Bắc-Nam Triều giữa hai họ Lê và họ Mạc từ 1592 đến
1677; tiếp lần phân tranh Trịnh-Nguyễn của Đàng Trong và Đàng Ngoài kéo dài hơn
trăm năm từ 1627 đến 1775. Cảnh điêu linh càng thêm cường độ với Nhà Nguyễn Tây
Sơn trong những năm từ 1778 đến 1802. Cuộc binh đao chỉ tạm ngưng sau lần Vua
Gia Long thống nhất đất nước vào năm 1802. Và máu người Việt lại thêm lần tuôn
đổ trên quê hương từ ngày 1/9/1858 khi quân Pháp lần đầu tiên đánh Đà Nẵng. Lần
xâm lăng của Đế Quốc Pháp là nguyên nhân của biến cố bi thảm thất thủ Kinh Đô
Huế vào ngày 5/7/1885 hay ngày 23 tháng 5 năm Âm Lịch Ất Dậu.
1.2-
Qua thế kỷ 20, hằng năm người Huế vẫn làm lễ cúng cô hồn cho oan linh uổng thác
từ năm 1885 xa xưa kia. Lễ cúng càng thêm ai oán thương tâm với ngàn người bị
giết sống trong dịp lực lượng cộng sản tấn công Tết Mậu Thân, 1968.
Cũng cần
phải nhắc lại một thời điểm quan trọng là năm 1930. Đây là năm Khởi Nghĩa Yên
Báy và Sô Viết Nghệ Tĩnh, cũng là thời điểm đảng cộng sản Đông Dương thành hình
để máu xương nên thành một chủ nghĩa như lời bài hát Đường vinh quang
xây xác quân thù.. Trận Điện Biên Phủ kéo dài từ 13 tháng 3 đến 7
tháng 5, năm 1954. Suốt 1 tháng, 3 tuần và 3 ngày kia, đã có 8,000 bộ đội cộng
sản tử trận và 15,000 người bị thương. Như vậy, một ngày chết hơn 100 và bị
thương 300 người để xây dựng nên vinh quang đảng cộng sản và sự nghiệp của nhân
sự gọi là “bác Hồ”!
Sau 30
tháng 4, 1975, trong tổng số người vượt biên bằng đường bộ và đường biển đã có
số lượng 600 ngàn người chết với cách kinh hoàng thảm khốc nhất mà không ai có
thể tưởng ra qua thống kê của Liên Hiệp Quốc. Tuy nhiên nhà cầm quyền Hà Nội hằng
năm vẫn làm lễ “đại thắng mùa xuân”…
Trong
toàn cảnh máu xương ngập tràn quê hương suốt thế kỷ 20, Cố Tổng Thống Ngô Đình
Diệm đã chứng kiến và dự phần từ vị trí người lãnh tụ. Ông sinh Ngày 3 Tháng 1
Năm 1901. Ngày tháng năm mở đầu Thế Kỷ 20.
1.3-
Ông Ngô Đình Diệm sinh Ngày 3 Tháng 1 năm 1901 tại làng Đại Phong, huyện Lệ Thủy,
Quảng Bình trong một gia đình quan lại có truyền thống Công Giáo lâu đời, ông
có tên Thánh là Gioan Baotixita. Thân phụ là cụ Ngô Đình Khả và thân mẫu là cụ
bà Phạm Thị Thân.
Cụ Ngô
Đình Khả là Thượng Thư Bộ Lễ, cơ quan phụ trách Lễ Pháp của triều đình nhà Nguyễn,
kiêm chức Phụ Đạo Đại Thần, cố vấn Vua Thành Thái. Ông Ngô Đình Diệm là người
con thứ ba trong gia đình với hai người anh đầu là Ngô Đình Khôi và Ngô Đình Thục.
Người anh trưởng Ngô Đình Khôi làm Tổng Đốc Quảng Nam cùng con là Ngô Đình Huân
bị cộng sản Việt Minh sát hại chung lần với Học Giả Phạm Quỳnh vào ngày 6 tháng
9 sau khi Vua Bảo Đại tuyên bố thoái vị trong ngày 25 tháng 8, 1945 tại Huế.
Người anh thứ là Tổng Giám Mục Ngô Đình Thục phụ trách tổng giáo phận Huế trước
biến cố 1963. Ông Diệm còn có ba em trai là Ngô Đình Nhu, Ngô Đình Cẩn, Ngô
Đình Luyện, và hai người em gái là Ngô Thị Giáo và Ngô Thị Hiệp. Bà Ngô Thị Hiệp
là mẹ của Cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận.
Dòng
họ Ngô Đình: (hình năm 1963, từ trái sang) Cố vấn Ngô Đình Nhu, Tổng thống Ngô
Đình Diệm, Tổng Giám mục Ngô Đình Thục, em gái tổng thống Diệm, bà mẹ (ngồi),
bà Trần Lệ Xuân, ông Ngô Đình Cẩn. Hàng con cháu: Trác, Quỳnh, Lệ Quyên, Lệ Thủy.
1.4-
Dòng họ Ngô Đình là thành phần xã hội theo Đạo Công Giáo từ Thế Kỷ 17 khi tôn
giáo nầy được truyền bá đầu tiên vào Việt Nam. Năm 1870 hàng trăm người
thuộc họ Ngô Đình đã bị thiêu sống trong một nhà thờ. Đấy là thời gian giáo dân
cả nước chịu cuộc bách hại quy mô theo lệnh các vua Minh Mạng, Tự Đức.
Cụ Ngô
Đình Khả ngoài những chức vụ cao trong triều đình còn có công sáng lập và điều
hành Trường Quốc Học Huế, một cơ sở giáo dục lớn của Miền Nam hoạt động
cho đến ngày quân cộng sản miền Bắc chiếm Huế, tháng 3, 1975. Cụ Ngô Đình Khả
được tiếng là bậc trung quân theo truyền thống Nho Giáo, bởi khi nhà cầm quyền
Pháp ép các quan trong triều ký giấy yêu cầu lưu đày vị vua yêu nước Thành Thái
ra đảo Réunion cùng với con trai là vua Duy Tân thì cụ là người duy nhất không
chịu ký thuận. Vì thế triều đình do chịu sức ép của Khâm Sứ Pháp tại Huế đã lột
bỏ hết chức tước, quyền lợi buộc cụ về hưu năm 1907. Lúc ấy, ông Ngô Đình Diệm
mới được 6 tuổi, nhưng cũng hiểu thế nào là tình cảnh nghèo khó của một gia
đình quan nhất phẩm triều đình bị bãi chức. Hình ảnh ông Diệm và các anh em đi
chân đất là một xác nhận về cuộc sống thanh bần lúc thiếu thời của gia tộc họ
Ngô sau khi cụ Thượng Khả bị bãi bò hết chức tước, phẩm lộc.
1.5- Cụ
Ngô Đình Khả đã truyền lại cho các con, đặc biệt với hai ông Ngô Đình Khôi và
Ngô Đình Diệm lòng yêu nước, sự sùng đạo, nhất là tinh thần chống Pháp. Cụ Khả
đã giao ông Diệm cho một người bạn là Thượng Thư Nguyễn Hữu Bài, cũng là nhạc
phụ ông Ngô Đình Khôi chăm sóc dạy dỗ. Chính Thượng Thư Nguyễn Hữu Bài đã dọn
đường cho Ngô Đình Diệm bước vào quan trường trong chế độ bảo hộ.
Sau khi
học xong chương trình trung học ở Trường Quốc Học Huế, Ngô Đình Diệm ra Hà Nội
vào học tại trường Hậu Bổ với môn học chính là Luật và Quản Trị. Năm 20 tuổi
ông tốt nghiệp thủ khoa Trường Hậu Bổ, được cử làm tri phủ Huyện Hương Trà, một
đơn vị hành chánh quan trọng Thành Phố Huế. Năm 1929, ở tuổi 28 ông Diệm được bổ
nhậm chức vụ tuần vũ đứng đầu Tỉnh Phan Thiết. Trong 4 năm làm việc tại đây,
ông Diệm đã chứng tỏ là một ông quan thanh liêm để hết tâm trí lo cho dân.
Nhưng ông cũng quyết liệt cải hóa, hoặc vô hiệu hóa những phần tử cộng sản đã bắt
đầu xuất hiện với chiêu bài cách mạng chống Pháp.
Hơn nữa,
những hành động bạo ngược của phong trào cộng sản Xô Viết Nghệ Tĩnh với chủ
trương “Trí, phú, địa, hào, đào tận gốc trốc tận rễ” thực
hiện trong năm 1930 càng khiến ông quyết liệt ra tay triệt hạ các thành phần cộng
sản. Ý thức Quốc Gia-Dân Tộc là nền tảng tinh thần suốt một đời hoạt động của
cá nhân người mang danh tính Ngô Đình Diệm.
1.6- Với
những thành tích xuất sắc, đầu năm 1933, ở số tuổi 32, Ông Diệm được Vua Bảo Đại
cử làm Thượng Thư Bộ Lại tương đương chức vụ thủ tướng thời nay với những bộ
trưởng dưới quyền hầu hết đều hơn ông hàng chục tuổi. Ngoài chức thượng thư bộ
Lại, nhà vua còn đặt ông đứng đầu Ủy Ban Cải Cách là một cơ quan tối cao hỗn hợp
Việt-Pháp, nhằm đem lại nhiều quyền hành hơn cho Triều Đình Huế và chủ quyền
cho Dân Việt.
Tiếc rằng
những cố gắng của ông đụng phải sự ngoan cố của giới cầm quyền thực dân Pháp,
khiến ông cuối cùng dứt khoát rời bỏ chức quyền cao trọng khi mới qua tuổi 30.
Trong hồi ký Le Dragon D’Annam (Con Rồng Việt Nam), Vua Bảo Đại đã ghi lại
lời ông nói với ông Diệm lúc ấy: “Mong rằng sự ra đi của quan thượng thư sẽ
mở mắt cho người Pháp.”
Nội
các Ngô Đình Diệm trong những ngày đầu.
II-
Từ quan trường đến chính trường
2.1-
Sau khi từ bỏ mọi chức tước và bổng lộc của triều đình Huế, ông Ngô Đình Diệm
dùng hết thời gian cho việc đọc sách, nghiên cứu chính trị, thường xuyên liên lạc
với các nhà ái quốc như Phan Bội Châu đang bị Pháp an trí ở Huế và Kỳ Ngoại Hầu
Cường Để đang lưu vong ở Nhật.
Liên
quan đến nhà cách mạng Phan Bội Châu, ông Võ Như Nguyện một nhân sĩ miền Trung
là con của cụ Võ Bá Hạp, một đồng chí, đồng song với cụ Phan Bội Châu, nên có
thời gian được gần gủi cụ Phan như con cháu trong nhà. Vì thế có lúc cụ Phan
sai chàng trai Võ Như Nguyện đi theo phò ông Ngô Đình Diệm vì cảm mến đức độ
cũng như quan điểm chính trị (Thân Nhật-Chống Pháp) của ông Diệm. Nhưng người cộng
sản như Võ Nguyên Giáp thì nhắc đến sự việc (không được kiểm chứng) là trong
ngôi nhà của Cụ Phan Bội Châu ở Bến Ngự (Huế) có treo bức ảnh của những danh
nhân gồm Phật Thích Ca, Tôn Trung Sơn (Trung Hoa) và Lê Nin (Liên Xô)... Ý muốn
nói rằng cụ Phan có khuynh hướng ủng hộ cộng sản.
Điều nầy
không thể có vì Giáo Sư sử học Nguyễn Thế Anh, hiện sống tại Pháp nêu rõ: Cụ
Phan Bội Châu đã từng lên án trên Báo Tiếng Dân của cụ Huỳnh Thúc Kháng cách thức
tàn bạo tiêu diệt trí thức của phong trào Xô Viết mà cụ đã chứng kiến nơi quê
hương Nghệ Tỉnh trong năm 1930. Nếu có chưng ảnh Lê Nin chăng cũng chỉ là một
biểu hiện về khuynh hướng bình đẳng xã hội như phong trào cộng sản hằng tuyên
truyền mà thôi.
2.2-
Sau khi cụ Phan Bội Châu qua đời (1940), ông Diệm lập một hội kín lấy tên là Đại
Việt Phục Hưng. Hội gồm đại đa số là người Công Giáo miền Trung. Mùa hè năm
1944 cảnh sát Pháp lùng bắt các thành viên của tổ chức này, ông Diệm thoát được,
nhờ người Nhật giúp che giấu rồi cải trang thành một sỹ quan của Quân Đội Hoàng
Gia vào Sài Gòn lẩn tránh.
Năm 1943 ông Diệm phái người sang Nhật tiếp xúc với hoàng thân Cường Để với dự định đưa vị hoàng thân nầy về thay vua Bảo Đại. Nếu kế hoạch này thành tựu thì ông sẽ là thủ tướng trong một chính thể Quân Chủ Lập Hiến. Tuy nhiên chính phủ Nhật lúc ấy theo hai xu hướng khác nhau. Phe cấp tiến có lý tưởng muốn giúp các nước vùng Đông Nam Á hoàn toàn độc lập tự do, thoát khỏi ách thống trị của các nước thực dân Tây Âu. Phe bảo thủ thì muốn chi phối giới lãnh đạo người Châu Á bản xứ.
Năm 1943 ông Diệm phái người sang Nhật tiếp xúc với hoàng thân Cường Để với dự định đưa vị hoàng thân nầy về thay vua Bảo Đại. Nếu kế hoạch này thành tựu thì ông sẽ là thủ tướng trong một chính thể Quân Chủ Lập Hiến. Tuy nhiên chính phủ Nhật lúc ấy theo hai xu hướng khác nhau. Phe cấp tiến có lý tưởng muốn giúp các nước vùng Đông Nam Á hoàn toàn độc lập tự do, thoát khỏi ách thống trị của các nước thực dân Tây Âu. Phe bảo thủ thì muốn chi phối giới lãnh đạo người Châu Á bản xứ.
Sự chọn
lựa nầy được hiện thực sau ngày Nhật đảo chánh Pháp tại Đông Dương, toàn quyền,
tư lệnh quân đội Nhật tại Đông Dương đã chọn Vua Bảo Đại và Thủ Tướng Trần Trọng
Kim để giao nhiệm vụ thay vì Kỳ Ngoại Hầu Cường Để với Thủ Tướng Ngô Đình Diệm.
2.3- Trở
lại vụ việc sau lần đảo chính người Pháp trong ngày 9 tháng 3, 1945, giới chức
Nhật ở Đông Dương đã không để Vua Bảo Đại biết ông Diệm ở đâu để mời lên làm thủ
tướng. Chờ đợi từ 19 Tháng 3 đến 17 tháng 4, vẫn không có hồi âm của ông Diệm,
nên nhà vua đã chọn Sử Gia Trần Trọng Kim để trao chức quyền trị nước.
Sự
thành công của cuộc trưng cầu dân ý ngày 23 tháng 10 năm 1955, đã cho phép TT.
Ngô Đình Diệm ký quyết định ban hành bản Lâm thời Hiến pháp số 1, vào ngày 26
tháng 10. Sự kiện này được coi là quốc khánh của Việt Nam Cộng Hòa.
Theo nhận định của học giả Bernard Fall, thì như thế
lại hay cho ông Diệm, vì khỏi mang tiếng là làm thủ tướng bù nhìn do người Nhật
dựng lên. Cũng có ý kiến rằng, nếu ông Diệm ở vào vị thế của ông Trần Trọng
Kim, thì nhóm cộng sản của Hồ Chí Minh đã không có thể cướp được chính quyền một
cách quá dễ dàng như đã xẩy ra với Vua Bảo Đại trong ngày 25 tháng 8, 1945 như
lịch sử đã diễn ra.
Sự kiện nầy có thể đã thực hiện vì Tổng Đốc Ngô
Đình Khôi, anh ông Diệm là người đã cực lực phản đối lần trao quyền từ Vua Bảo
Đại cho đại diện Việt Minh. Cái chết của Tổng Đốc Ngô Đình Khôi do tay người cộng
sản là thực chứng cho sự kiện giả định nầy: Lịch sử Tháng 8 năm 1945 hẳn đã
hoàn toàn đổi khác nếu thủ Tướng Ngô Đình Diệm, Kỳ Ngoại Hầu Cường Để nắm giữ
quyền lãnh đạo Việt Nam!
2.4- Sau lần Việt Minh cướp chính quyền trên toàn
quốc, tháng 8, 1945, ông Ngô Đình Diệm đã bị bắt ở Tuy Hòa, giải ra Tuyên Quang
giam giữ. Sau đó đích thân Hồ Chí Minh ra lệnh đưa ông về Hà Nội, đề nghị ông
tham gia Chính Phủ Liên Hiệp gồm nhiều thành phần Việt Minh và quốc gia. Nhưng
do sẵn có ý thức rõ về Việt Minh cộng sản nên ông sáng suốt, thẳng thắng từ chối.
Ông bị giam một thời gian tại Phủ Chủ Tịch, song được phóng thích theo lệnh Hồ
Chí Minh.
Về sau nhiều cán bộ cộng sản đã hối tiếc về sự
phóng thích này, và có ý trách cứ “Hồ Chí Minh đã rộng lượng mà thả hổ
về rừng”. Nhưng lúc ấy thực sự ông Hồ cố ý lấy lòng giáo dân đang cần
tập trung lực lượng chống Pháp, vì ông Diệm là một lãnh tụ Công Giáo có nhiều ảnh
hưởng. Cũng bởi Hồ Chí Minh có “trí sáng”, biết giết bỏ những
ai cần phải triệt hạ như đã giết nhà văn Khái Hưng mà cộng tác với Nhất Linh của
tổ chức Quốc Dân Đảng; cũng như sát hại người anh Ngô Đình Khôi mà khoan tay với
người em Ngô Đình Diệm.
Lịch sử từ năm 1945 đến hiện tại đã thực chứng: Người
cộng sản đã không hề khoan hồng một ai, họ sẵn sàng xuống tay giết lầm không bỏ
sót. Cộng sản không giết người không phải vì nhân đạo nhưng bởi mưu định thủ đoạn
chính trị tính toán thiệt hơn.
2.5- Năm 1947 ông Ngô Đình Diệm cùng với Bác Sĩ
Nguyễn Tôn Hoàn, một lãnh tụ Đại Việt Quốc Dân Đảng lập một liên minh mới lấy
tên là Việt Nam Quốc Gia Liên Hiệp. Hai ông cùng với một số lãnh tụ các đảng
phái quốc gia cố vấn cho Bảo Đại, yêu cầu cựu hoàng đứng ra lãnh đạo phe Quốc
Gia chống Cộng, đồng thời tranh đấu với chính quyền Pháp để thu hồi độc lập
hoàn toàn cho Việt Nam.
Ban đầu mọi người chung quanh Bảo Đại đều tán thành
“giải pháp Ngô Đình Diệm”. Nhưng vì tính cương nghị và lập trường quá cứng
rắn của ông Diệm trong vấn đề độc lập nên về sau một số người tỏ ý không đồng
thuận cùng ông. Nhưng cựu hoàng Bảo Đại vẫn quý trọng và ủy thác cho ông làm đại
diện để thương thuyết với Cao Ủy Pháp Émile Bollaert về tương lai Việt Nam.
Không đạt được mục đích là cố đòi cho Việt Nam một
nền độc lập rộng rãi, giống như chế độ tự trị mà chính phủ Anh đã dành cho Ấn Độ, Pakistan trong
khối Liên Hiệp Anh. Cuối cùng ông Diệm rút ra khỏi đám cận thần của Vua Bảo Đại.
Tướng Nguyễn Văn Xuân được cử làm thủ tướng để ký với Cao Ủy Bollaert bản thông
cáo chung tại Vịnh Hạ Long ngày 5-6-1948. Theo thông cáo này, Pháp “long
trọng nhìn nhận nền độc lập của Việt Nam trong khối Liên Hiệp Pháp.”
Tổng
Thống Ngô Đình Diệm đọc bản tuyên bố thành lập nước Việt Nam Cộng Hòa, ngày 26
tháng 10 năm 1955 tại Dinh Độc Lập.
2.6- Tờ L’Écho du Vietnam - Tiếng Vọng Việt
Nam số ra ngày 16 Tháng 6, 1949 đã ghi lại lời tuyên bố cô đọng lập trường của
Ngô Đình Diệm về một nền độc lập thực sự, và quan điểm đúng đắn của ông đối với
thành phần kháng chiến chống Pháp trong tổ chức cộng sản Việt Minh: "Nguyện
vọng của người Việt yêu nước chỉ được thỏa mãn khi nào Dân Tộc Việt Nam đạt được
một quy chế chính trị y hệt như quy chế mà Ấn Độ và Pakistan đã đạt được trong
Liên Hiệp Anh…"
Ông cũng tin rằng muốn công bình thì phải dành những
địa vị tốt nhất của xứ sở cho những người xứng đáng nhất: Đấy là những thành phần
người Việt không cộng sản kháng chiến chống Pháp trong hàng ngũ Việt Minh. Và
ông nhận định một cách chính xác rằng chỉ có dành được độc lập hoàn toàn và giữ
đúng cương vị của một quốc gia có chủ quyền mới có thể thi đua với cộng sản, và
đánh thắng Cộng Sản. Đấy là đấu tranh giành Độc Lập Chính Trị và thực hiện Cách
Mạng Xã Hội để đem lại những quyền lợi thiết thực về kinh tế, xã hội cho nông
dân và công nhân, những thành phần nghèo khổ, tạo điều kiện cho họ được sống
trong tự do và nhân phẩm. Chính sách Cộng Đồng Đồng Tiến của Đệ
Nhất Cộng Hòa với Tổng Thống Ngô Đình Diệm sau nầy quả thật có một nội dung cụ
thể và đích thực.
III - Ra Đi và Trở Về
3.1- Mùa xuân năm 1950, khi biết Việt
Minh kết án tử hình khiếm diện, ông Diệm yêu cầu nhà cầm quyền Pháp bảo vệ an
ninh, nhưng giới chức Pháp trả lời là không đủ cảnh sát để thực hiện công tác nầy.
Đến tháng 8, nhân xin được phép đi dự Năm Thánh ở La Mã, ông đã cùng với bào
huynh là Giám Mục Ngô Đình Thục lên đường sang Ý xong qua Nhật, và Mỹ. Lợi dụng
dịp qua Nhật ông đến thăm Kỳ Ngoại Hầu Cường Để.
Theo những gì ông Diệm về sau cho Giáo Sư Wesley
Fishel biết thì cuộc tiếp kiến giữa hai người đồng chí cũ đã diễn ra thân mật,
nhiều hứa hẹn. Trước khi rời Sài Gòn sang Nhật, ông Diệm đã dự tính có thể đưa
Hoàng Tử Bảo Long lên thay vua cha đang là Quốc Trưởng Bảo Đại để trở lại chế độ
quân chủ. Sau đó ông sẽ đưa hoàng thân Cường Để trở về giữ nhiệm vụ nhiếp
chính, vì lúc ấy Bảo Long hãy còn nhỏ, và ông Diệm sẽ giữ chức vụ thủ tướng của
một chế độ quân chủ lập hiến như kế hoạch của năm 1945.
Hoàng Thân Cường Để cũng tán đồng với kế hoạch này,
nên sau đó ông đã tìm cách trở về Việt Nam bằng đường biển. Nhưng khi
đến Sài gòn thì nhà cầm quyền Pháp không cho nhập cảnh. Đây là lần cuối cùng
Hoàng Thân cố tìm về quê hương mà không được, ông trở lại Nhật, sau đó qua đời
tại Đông Kinh ngày 6 tháng 4, 1951.
Sau 1954 khi lên cầm quyền, ông Diệm đã thu xếp đem
hài cốt hoàng thân Cường Để về an táng tại cố đô Huế. Một lễ truy điệu đã được
tổ chức trọng thể tại Tòa Đô Chánh Sài Gòn trong ngày 10 tháng 1, năm 1957 để
tưởng niệm một danh nhân suốt đời tranh đấu cho độc lập quốc gia, dân tộc. Danh
tính Cường Để được đặt cho một con đường đẹp nhất tại Sài gòn.
3.2- Wesley Fishel là người mà ông Diệm gặp tại
Đông Kinh do tình cờ, là giáo sư dạy tại Đại Học Michigan. Wesley Fishel
có nhiệm vụ đi tìm người có khả năng lãnh đạo để giúp trở thành những nhà cầm
quyền ở Á Châu theo mẫu mực của Mỹ. Thế nên, Giáo sư Fishel đã khuyên ông Diệm
nên sang Hoa Kỳ mưu tìm sự ủng hộ của chính quyền và quốc hội Hoa Kỳ.
Không cần đến lời Fishel khuyên bảo, vì trước khi rời
Sài Gòn ông Diệm đã có ý định đến Mỹ tìm hậu thuẫn. Ý định cầu Mỹ giúp đã manh
nha từ những năm 1945 khi nhận ra không thực tâm của phía người Nhật. Đầu tháng
9, 1950 ông Diệm và Giám Mục Ngô Đình Thục đến Mỹ, ngụ tại Học Viện Văn Hóa
Trung Hoa, sau đó được Hồng Y Francis J. Spellman, Tổng Giám Mục New York là bạn
học cũ của Giám Mục Ngô Đình Thục tiếp kiến. Hai ông cũng có tiếp xúc với nhân
viên ngoại giao William S. B. Lacy, là giám đốc phụ trách Văn Phòng Phi Luật
Tân và Nam Á Châu.
Ông Lacy có nhận xét, ông Diệm không có chương
trình cụ thể hữu hiệu nào để giải quyết những vấn đề trọng yếu của Việt Nam, vì
vậy bộ ngoại giao Mỹ tỏ ra lạnh nhạt đối với hai ông. Cũng vì lúc ấy chính quyền
Tổng Thống Truman đánh giá giải pháp Bảo Đại là một giải pháp tốt, và dầu sao
Pháp vẫn đang là một đồng minh trong thế trận chống lại cộng sản tại Việt Nam.
Người Mỹ cũng nhận thấy lập trường của ông Diệm đối với Pháp quá cứng rắn,
không thực tế, khó có thể thực hiện.
Tổng
Thống Ngô Đình Diệm nghỉ trưa trong chuyến kinh lý đồng bằng sông Cửu Long năm
1956.
3.3- Nhận thấy ở lại Mỹ cũng chẳng ích lợi gì,
tháng sau ông Diệm bay sang Âu Châu. Ông đã cùng Giám Mục Ngô Đình Thục đến Vatican yết
kiến Giáo Hoàng Pio XII. Tại Pháp, ông cũng có tiếp xúc với nhiều giới chức
trong chính quyền Pháp và Bảo Đại, ngỏ ý sẵn sàng đứng ra điều khiển chính phủ
nếu cựu hoàng yêu cầu. Nhưng Quốc Trưởng Bảo Đại chưa muốn thay đổi người vào
lúc này, mặc dù ông Diệm đã tỏ ra mềm dẻo hơn.
Có thể nói cho đến cuối năm 1950 thời vận của ông
Diệm chẳng có gì khả quan. Về nước thì không được do có thể bị cộng sản ám sát.
Ở lại Âu Châu cũng không xong, vì chính quyền Pháp không mấy thiện cảm vì tinh
thần bài Pháp sẵn có của ông, thế nên ông bèn quay trở lại Mỹ và tìm đến những
người có cảm tình như thẩm phán Tối Cao Pháp Viện William O. Douglas. Quan trọng
nhất là ông tiếp xúc với William J. Donovan, sau nầy là người sáng lập cơ quan
OSS, tiền thân của CIA, cùng nhiều nhà báo, chính khách thuộc lưỡng viện quốc hội
Mỹ như các Thượng Nghị Sĩ John Fitzgerald Kennedy, Mike Mansfield, dân biểu
Walter Judd…
3.4- Phần nhiều những nhân vật trên đều chú ý đến
tinh thần và lập trường chống cộng và chống thực dân của ông Diệm. Tuy nhiên những
nhân vật này, cũng như Hồng Y Spellman không phải là những người có quyền quyết
định đối với chính sách ngoại giao của Mỹ. Dưới cái nhìn của các nhà lãnh đạo Mỹ,
Việt Nam trong bối cảnh chiến tranh lạnh rất cần được sự viện trợ kỹ thuật của
Mỹ theo Kế Hoạch Điểm 4. Ông Diệm đã nêu lên yêu cầu của xứ sở và của tình
hình. Vì vậy khi ông lên làm tổng thống, ông đã nhận được viện trợ kỹ thuật phi
quân sự của Mỹ một cách rất dồi dào.
Ông Diệm cũng tiếp xúc với những người Việt Nam đang
sinh sống ở Mỹ và những du học sinh. Trong số này có linh mục Trần Văn Kiệm và
gia đình ông Bùi Công Văn là những người giúp ông nhiều nhất. Theo Linh Mục Kiệm
thì ông Diệm luôn ôm ấp hoài bão đem lại độc lập cho nước và đời sống no ấm, tự
do cho dân. Tuy ông phê bình ông Bảo Đại hơi mềm yếu, nhưng lúc nào cũng tỏ ra
tôn kính và hình như muốn ủng hộ ông ấy trở lại ngôi vua trong một chính thể
quân chủ lập hiến trong đó ông Diệm sẽ là thủ tướng.
Sau khi ông Diệm lên cầm quyền tháng 7, 1954, Linh
Mục Kiệm đã có nhiều dịp tiếp xúc với ông Diệm, ông Nhu, và Đức Cha Thục. Linh
Mục Kiệm nhận xét ông Diệm vẫn luôn là người bình dị, cởi mở không như ông Nhu
hay ông Thục.
IV- Con Người và Vận Nước
4.1- Khi liên hệ giữa Quốc Trưởng Bảo Đại và Cựu
Thượng Thư Ngô Đình Diệm trở nên chặt chẽ thì chiến cuộc trong nước càng ngày
càng sôi động nơi chiến trường Điện Biên Phủ, vùng núi Tây-Bắc Việt Nam. Và vận
mệnh Việt Nam cùng lần được quyết định từ phòng hội của Hội Nghị
Genève về Đông Dương.
Hội Nghị Genève nguyên ủy khai mạc Ngày 26 Tháng 4
năm 1954 để bàn về việc khôi phục hòa bình tại bán đảo Triều Tiên sau khi cuộc
chiến (1950-1953) giữa Nam-Bắc Hàn tạm chấm dứt. Nhưng do vấn đề Triều Tiên
không đạt được kết quả, nên từ Ngày 8 Tháng 5 vấn đề Đông Dương được đưa ra thảo
luận. Cũng bởi mặt trận Điện Biên Phủ kết thúc trong ngày 7 tháng 5 với phần thắng
lợi của Việt Minh cộng sản và người Pháp phải nhận ra lần chấm dứt sự can dự
vào Đông Dương với diễn trường Việt Nam từ cuối thế kỷ 19.
4.2- Trong lúc thế nước lâm vào tình trạng vô cùng
khó khăn với diễn biến phức tạp, ngày 16 tháng 6 năm 1954 Quốc Trưởng Bảo Đại đề
cử ông Ngô Đình Diệm giữ chức Thủ Tướng Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam được toàn
quyền hành động.
Ngày 7 tháng 7 1954, Thủ Tướng Ngô chính thức nhậm
chức, ra mắt nội các tại Sàigòn. Trong nội các nầy Bác Sĩ Trần Văn Đỗ được Thủ
Tướng Diệm cử sang Genève cầm đầu phái đoàn Quốc Gia Việt Nam thay thế Ngoại
Trưởng Nguyễn Quốc Định. Nhưng khi Ngoại Trưởng Đỗ đến Genève thì sự đã rồi với
đồng thuận của hai phái đoàn Pháp và Việt Minh do xếp đặt có tính quyết định của
Liên Xô, Anh Quốc và nhất là Trung Cộng.
4.3- Cũng cần nhắc lại rằng vào Ngày 4 Tháng 6,
1954, Thủ Tướng Pháp đã ký Hiệp Ước tại Điện Matignon với Thủ Tướng Bảo Lộc của
Quốc Gia Việt Nam công nhận Quốc Gia Việt Nam hoàn toàn độc lập trong khối Liên
Hiệp Pháp. Theo tinh thần và nội dung của hiệp ước nầy, chính phủ Quốc
gia Việt Nam sẽ tự chịu trách nhiệm đối với những hiệp định quốc tế
được Chính Phủ Pháp thay mặt Việt Nam ký kết. Việt Nam cũng không bị
ràng buộc bởi bất cứ hiệp ước nào do chính phủ Pháp ký sau này - Tức là Việt
Nam hoàn toàn không bị ràng buộc bởi Hiệp Định Genève được ký vào ngày 20 Tháng
7 liền sau đó.
Từ căn bản của Hịệp Ước Matignon, Ngoại Trưởng
Trần Văn Đỗ, trưởng đoàn đại diện Quốc gia Việt Nam tuyên bố sẽ không ký vào Hiệp
định Genève với lý do hiệp định gây chia cắt Việt Nam và đẩy Quốc Gia Việt Nam
vào tình thế nguy hiểm bất lợi.
4.4- Theo lệnh của Thủ Tướng Ngô Đình Diệm, Ngoại
Trưởng Trần Văn Đỗ xác định chính sách không chấp thuận đối với bất cứ hình thức
phân chia nào, và quyết tâm giữ gìn toàn vẹn lãnh thổ của Tổ Quốc Việt Nam qua
thông cáo: "Việc ký hiệp định giữa Pháp và Việt Minh có những
điều khoản gây nguy hại nặng nề cho tương lai chính trị của Quốc gia Việt Nam.
Hiệp định đã nhường cho Việt Minh những vùng mà quân đội quốc gia còn đóng quân
và tước mất của (Quốc Gia) Việt Nam quyền tổ chức phòng thủ. Bộ Tư Lệnh
Pháp tại Đông Dương đã tự ấn định ngày tổ chức tuyển cử mà không có sự
thỏa thuận với phái đoàn Quốc Gia Việt Nam...
Chính
phủ Quốc Gia Việt Nam yêu cầu hội nghị ghi nhận một cách chính thức rằng: Việt Nam long
trọng phản đối cách ký kết hiệp định cùng những điều khoản không tôn trọng nguyện
vọng sâu xa của dân Việt. Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam yêu cầu hội nghị
ghi nhận rằng: Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam tự dành cho mình quyền hoàn toàn tự
do hành động để bảo vệ quyền thiêng liêng của dân tộc Việt Nam trong công cuộc
thực hiện Thống Nhất, Độc Lập, và Tự Do cho xứ sở."
Từ
năm 1961, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa phải liên tục tăng cường lực lượng nhằm đối
phó với các hoạt động khủng bố của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam (thành
lập cuối năm 1960 tại chiến khu Tây Ninh).
4.5- Tiếp theo, Ngày 22 Tháng 7, 1954 tại
Sài Gòn, Thủ Tướng Ngô Đình Diệm ra tuyên cáo chính thức phản đối việc chia đôi
đất nước Việt Nam. Tuy nhiên cuối cùng Sàigòn vẫn chấp nhận thi hành
Hiệp Định Genève ký Ngày 20 Tháng 7 năm 1954. Như thế trên thực tế và
công pháp quốc tế kể từ Tháng 7 Năm 1954, tại Bắc và Nam Việt Nam có hai chính
phủ riêng biệt, theo hai chính thể riêng biệt, tức có hai nước Việt Nam riêng
biệt. Dân chúng hai miền trong thời hạn 300 ngày được tự do di cư từ
khu nầy sang khu thuộc phía bên kia không phe nào được quyền ngăn cấm hay dùng
các biện pháp đe dọa, trừng phạt. Ngày 9 tháng 10 năm 1954 là hạn chót cho những
người muốn di cư vào Nam di tản khỏi Hà Nội.
Ngày 10 tháng 10 năm 1954, quân đội Việt Minh vào
tiếp thu Hà Nội, chủ tịch Uỷ Ban Quân Quản Hà Nội là Vương Thừa Vũ tức Nguyễn
Văn Đồi người đã chỉ huy cuộc tấn công Hà Nội trong đêm 19 tháng 12 năm 1946 mở
đầu cho cuộc chiến 9 năm vừa mới kết thúc. Hải Phòng sẽ được Việt Minh tiếp thu
Ngày 13 Tháng 5 năm 1955 sau thời hạn 300 ngày dùng làm điểm tập trung đồng bào
miền Bắc muốn di cư bằng tàu thủy vào miền Nam.
4.6- Số lượng người từ miền Bắc di cư vào miền Nam lên
đến khoảng gần 900,000 người. Trong số nầy, nhân viên chính quyền gồm công chức
và quân nhân chiếm một phần ít, còn đại đa số là dân chúng. Đây là đợt tỵ nạn cộng
sản lớn lao đầu tiên trong lịch sử thế giới hiện đại cũng là đợt di dân nội địa
lớn lao nhất trong lịch sử Việt Nam. Cuộc di cư làm tiền đề cho lần vượt
thoát của hai triệu người Việt bỏ nước ra đi sau Ngày 30 tháng 4, 1975 - Hai
mươi mốt năm sau Hiệp Định Genève 1954.
Khắp cùng nhân loại toàn cầu, ở đâu có một dân tộc
tuẫn nạn bi thảm và hùng vĩ như Dân Tộc Việt Nam. Dân tộc phải gánh chịu
liên tục suốt ba thập kỷ chiến tranh kể từ 1946 do họa cộng sản. Mối họa giờ nầy,
70 năm sau biến hình thêm họa xâm lược đến từ Bắc Kinh – Hiểm Họa Bắc
Thuộc lần Thứ Năm nối tiếp bốn lần đô hộ của Trung Hoa hơn 1500 năm trước.
4.7- Tuy nhiên xét qua một khía cạnh khác cuộc di
cư lại là một điều lợi cho Đảng Lao Động của miền Bắc tức là đảng cộng sản giả
danh từ 1945, vì những thành phần chống cộng, đối lập, bất đồng chính kiến, những
nhân vật theo các đảng phái quốc gia đều rút về miền Nam, nên không còn hay còn
rất ít người ở lại miền Bắc có khả năng đối kháng với chế độ mới.
Kể từ khi thành hình từ 2 tháng 9, 1945 cho đến
1954, bộ máy tuyên truyền của tổ chức Việt Minh luôn ca tụng chế độ cộng sản và
chê bai những chính quyền quốc gia, nhưng nay cuộc di cư vĩ đại có thể xem là lần
trưng cầu dân ý để cho thấy số người miền Bắc đã chọn lựa vào miền Nam đông hơn
gấp bội số người miền Nam ít ỏi vốn là cán bộ cộng sản buộc phải tập kết ra Bắc. Điều
nầy thực chứng lòng dân Việt đã đánh giá như thế nào đối với chế độ cộng sản của
Hồ Chí Minh.
Cũng như sau nầy, suốt cuộc chiến 1960-1975 hỏi thử
có người dân miền Nam nào bỏ về ở vùng cộng sản kiểm soát. Sự kiện vượt
biên sau 1975 là thực chứng trước Dân Tộc, Lịch Sử: Quốc Gia/Cộng Sàn
Ai Thắng Ai? Sự chọn lựa năm 1954 giúp chính quyền Sàigòn vững tâm giữ
nước an dân đồng thời tăng giá trị của chính thể Quốc Gia Việt Nam dẫu non trẻ
trước cộng đồng thế giới.
4.8- Sau những thành công phấn khởi đáng tự hào
trong giai đoạn 1955-1960, chế độ Đệ Nhất Cộng Hòa dần rơi vào những khuyết điểm
trong công nghiệp dựng nước và giữ nước. Quá trình suy thoái chính trị có những
nguyên nhân khách quan và chủ quan.
Trước tiên
do nhu cầu tập trung quyền lực, người lãnh đạo Dinh Độc Lập và thân thuộc trong
tộc Ngô Đình dần thâu giữ quyền hành về một mối qua diễn tiến o ép thành phần
nhân sự trong những tổ chức đảng phái quốc gia như Đại Việt, Việt Nam Quốc Dân
Đảng.. Đấy là những cá nhân và đoàn thể đã tạo nên hậu thuẫn chính trị có hiệu
quả trong lần sắp xếp để Thủ Tướng Ngô Đình Diệm lên cầm quyền với cương vị tổng
thống trong năm 1955.
Quá trình trình tập trung quyền lực nầy cũng đã gây
va chạm bất mãn đối với những người thuộc giới quân sự mà trước đây đã là thành
phần nòng cốt xây dựng nên sức mạnh vũ trang cho chế độ. Cuộc binh biến ngày 11
tháng 11 năm 1960 do lực lượng nhảy dù dưới quyền chỉ huy của Đại Tá Nguyễn
Chánh Thi giữ nhiệm vụ xung kích, và tiếp theo lần dội bom Dinh Độc Lập của hai
phi công Nguyễn Văn Cử , Phạm Phú Quốc vào tháng 2, 1962 là những báo hiệu sự sụp
đổ của chế độ cộng hòa nếu như người lãnh đạo miền Nam không điều chỉnh sách lược
trị nước.
Hơn thế nữa, tiếng súng nổ trước Thành Cộng Hòa và
trái bom rơi xuống Dinh Độc Lập không chỉ là tín hiệu báo nguy đối với hệ thống
cầm quyền Việt Nam Cộng Hòa mà còn là chỉ dấu lần lâm nạn oan nghiệt của toàn
thể quê hương miền Nam. Cũng làm tan vỡ hy vọng đến từ Miền Nam cho lần
giải phóng Miền Bắc khỏi chế độ cộng sản.
V-Âm Mưu Đến Từ Đâu?
5.1 - Nguyên nhân nảy sinh biến cố 1 tháng 11, 1963
có nhiều phía và từ nơi xa chứ không chỉ riêng ở Sài gòn, nơi Dinh Gia Long với
Tổng Thống Ngô Đình Diệm, Cố Vấn Ngô Đình Nhu.
Trước tiên cần nói về phía cộng sản, cụ thể với bộ
chính trị đảng cộng sản Hà Nội của Hồ Chí Minh. Dẫu Hà Nội có được lợi thế quân
sự sau chiến thắng Điện Biên trả bằng giá máu của hàng vạn sinh linh bộ đội,
dân công được điều động vào cuộc chiến 9 năm từ 1946, nhưng sự kiện của một triệu
người di cư vào Miền Nam đã cho Sàigòn nhận được Lý Chính Nghĩa qua
xác chứng của tấm lòng Người Dân về nỗi khao khát sống đời Tự Do.
Về số lượng người từ miền Nam tập kết ra
Bắc, thì Việt Minh dự tính sẽ rút về Bắc khoảng 60,000 người trong đó 50,000
người là bộ đội và 10,000 người làm công tác chính trị nhất là những người đã lộ
rõ mặt là cán bộ cộng sản không thể để ở lại miền Nam. Ngoài ra phía cộng
sản cũng dự mưu lưu lại miền Nam từ 5,000 đến 10,000 cán bộ nằm vùng,
sống lẩn lút trà trộn trong dân chúng cất dấu vũ khí để chờ thời cơ.
Sau khi củng cố miền Bắc, Đảng Lao Động tức đảng cộng
sản giả danh từ tổ chức Hội Nghị Trung Ương lần thứ 15 vào Tháng 1 năm 1959 tại
Hà Nội, tán thành nghị quyết khởi nghĩa vũ trang, mở đường xâm chiếm miền Nam bằng
phương tiện quân sự. Đồng thời để đánh lừa dư luận thế giới và nhân dân hai miền,
Hà Nội cho thành hình tổ chức chính trị vũ trang Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam,
công cụ ngụy trang cho lần xâm lược Miền Nam.
5.2- Mặt trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam được
chính thức thành lập vào ngày 20 tháng 12 năm 1960 tại xã Tân Lập, huyện Châu
Thành (nay là Huyện Tân Biên thuộc Tỉnh Tây Ninh), với thành phần chủ chốt là lực
lượng Việt Minh cộng sản hoạt động bí mật ở miền Nam trước, sau năm 1954. Chủ tịch
Ủy ban Trung ương Mặt trận là Luật Sư Nguyễn Hữu Thọ và Phó Chủ Tịch là Bác Sĩ
Phùng Văn Cung. Cũng như tiền thân Mặt Trận Việt Minh trong thập niên 40, mặt
trận mới này được tổ chức thành nhiều cấp từ ủy ban trung ương đến các tổ chức ở
cấp làng, xã với chủ nghĩa cộng sản hoàn toàn được che
dấu không hề nhắc tới. Trong khi đó trong thực tế, Mặt Trận đặt dưới
sự lãnh đạo thống nhất của Bộ Chính Trị Đảng Lao Động tức đảng cộng sản tại Hà
Nội và Trung Ương Cục Miền Nam.
Với chiêu bài của Mặt Trận Giải Phóng, con đường
xâm nhập lật đổ chế độ miền Nam đi từ Hà Nội được mở ra thông suốt cả
hai mặt chính trị lẫn quân sự. Riêng hoạt động du kích từ đầu năm 63 lần đầu
tiên tiến lên vận động chiến, điển hình với trận Ấp Bắc đánh thiệt hại một đơn
vị cấp tiểu đoàn của Sư Đoàn 7 Bộ Binh có thiết vận xa yểm trợ.
5.3- Trận đánh bắt đầu đầu từ ngày 2 tháng 1, 1963
nơi ấp Tân Thới thuộc tỉnh Mỹ Tho được ký giả Halberstam ở Sài Gòn mô tả như một
“Thất Bại Tệ Hại Nhất Từ Lúc Khởi Đầu” với thiệt hại đến “Ba
(Cố Vấn) Mỹ bị giết ở Việt Nam” được đăng lên New York Times ấn bản miền
Tây phổ biến trong vùng Hoa Thịnh Đốn, vào đến Phòng Tình Hình của Tòa Bạch Ốc.
Trận đánh được Cố Vấn John Paul Vann quan sát từ trên trực thăng chỉ huy mô tả
chẳng ra cái trò trống gì dẫu đã xử dụng một lực lượng quân số gấp 4 lần 350 du
kích cộng sản, bắn 600 viên đạn pháo binh, có đến 13 phi cơ chiến đấu thả bom,
bao gồm napalm yểm trợ; ngoài ra còn thả thêm một tiểu đoàn nhảy dù tăng cường
được 5 trực thăng võ trang bắn đến 8,400 viên đạn và 100 hỏa tiễn tác xạ cận
phòng..
Những chi tiết vừa kể do Cô Vấn Vann nêu một cách
chính xác để đi đến kết luận: Sở dĩ tình hình chiến trận tồi tệ là do Thiếu Tướng
Huỳnh Văn Cao, Tư Lệnh Vùng 4; Đại Tá Bùi Đình Đạm, tư lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh;
Trung Tá Lâm Quang Thơ, tỉnh trưởng Mỹ Tho không nghe lời chỉ dạy của Trung Tá
Cố Vấn John Paul Vann. Hai ký giả Halberstam và Arrnett từ Sài gòn xuống Mỹ Tho
theo lời mời của Vann làm mạnh thêm nhận định: Phải thay đổi chính sách
đối với Việt Nam!
Toà Bạch ốc rúng động với Tướng Maxwell Taylor vừa
nhậm chức Tham Mưu Trưởng Liên Quân; và Đô Đốc Felt, tư lệnh Lực Lượng Mỹ vùng
Thái Bình Dương được lệnh Tổng thống Kennedy đến Sài Gòn gặp Tướng Harkins, tư
lệnh quân lực Mỹ tại Việt Nam để duyệt xét lại tình hình hiện thực ý niệm thay
thế tổng thống nhà Ngô Đình.
5.4– Nhưng trận Ấp Bắc chỉ là một cái cớ,
quan điểm thay đổi của chính phủ Mỹ về Việt Nam có nguyên nhân chính
trị xa hơn. Đấy là do chính quyền Kennedy đã ký thỏa ước Trung Lập Lào, 1962
chính thức mở đường cho cộng sản miền Bắc xâm nhập vào Nam. Hiệp ước mà Tổng
Thống Ngô Đình Diệm đã quyết liệt phản đối vì từ đó hệ thống đường liên lạc Bắc-Nam
gọi là “đường mòn Hồ Chí Minh” đã mặc nhiên được hợp thức hóa
trở thành một xa lộ thuận tiện để Hà Nội chuyển người và vũ khí với số lượng
vào chiến trường miền Nam. Tác giả của bản thỏa ước là Averell Harriman, Đại Sứ
Lưu Động do Tổng Thống Kennedy đề cử “với lòng tin cậy toàn diện vì sự hiểu
biết tường tận mọi khía cạnh của chính sách nước Mỹ”.
Harriman đã đánh giá bản thỏa ước về Lào là một
thành quả ngoại giao quan trọng của ông đối với Liên xô cho dù hiểu rõ hơn ai hết
bản thỏa ước là đâm một nhát dao chí mạng vào cạnh sườn chiến lược của Miền Nam.
Sự chống đối của Tổng Thống Diệm đã biến người lãnh đạo miền Nam thành
một kẻ thù chính trị cần triệt hạ của Harriman.
5.5- Đại Sứ Harriman không những đem lòng thù oán với
Tổng Thống Diệm, mà con người được đánh giá là một thành viên cột trụ của nhóm
”Wise Group-Mưu Sĩ” từng giữ vai trò hàng đầu trong bốn chính quyền Mỹ,
bắt đầu với nhiệm vụ Đặc Phái Viên của Tổng Thống Franklin D. Roosevelt tại
Châu Âu; đại sứ tại Liên Xô, và Anh trong những năm 1946-1948 dưới thời Tổng Thống
Truman. Con người khôn ngoan mưu thuật nầy đến thời Tổng Thống Kennedy đã lộ ra
ý hướng quyết định vận mệnh Việt Nam không cần ý kiến của Tổng Thống
hoặc tối Cao Pháp Viện Mỹ.
Mưu định hạ thủ Tổng thống diệm qua binh biến
1/11/1960 thành hình và điều động từ Mỹ với Harriman cùng nhóm tham mưu thuộc
quyền chứ không phải là ai khác.
5.6- Đại Tá Thủy Quân Lục Chiến Colonel William
Corson xác nhận vụ việc năm 1963 về Việt Nam là do chính một tay Harriman điều
động mà không cần hỏi ý kiến tổng thống hay chánh án tối cao pháp viện Hoa Kỳ.
Đại Tá Corson cho biết: Thư ký riêng của Tổng Thống Kennedy là Kenny O'Donnell
xác nhận, Cố Vấn Hội Đồng An Ninh Quốc Gia McGeorgeBundy đã thi hành những mệnh
lệnh từ Harriman hơn là của tổng thống Mỹ.
Bí thư O'Donnell còn cho biết thêm về Michael
Forrestal, một nhân viên tham mưu trẻ tuổi của Tòa Bạch Ốc là người nắm giữ những
liên hệ đặc biệt về Việt Nam cho Harriman. Tóm lại, chính Harriman là
người chủ trương lật đổ Tổng Thống Diệm trong năm 1963 chứ không thể ai khác.
Tuy nhiên lại có dư luận cho rằng lệnh thảm sát Tổng Thống Diệm và người em
nguyên ủy do Harriman chủ trương, nhưng được phụ tá quân sự của Đại sứ Henry
Cabot Lodge thực hiện. Đấy là Đại Tá John Michael Dunn sĩ quan phụ trách Công
Tác Đặc Biệt, được gởi đến Việt Nam một cách không che dấu trong giai
đoạn hỗn loạn 1963.
Cũng cần nói thêm, Đại Tá Dunn nhận lệnh từ
Harriman và Forrestal hơn là của văn phòng CIA. Và Câu hỏi cốt yếu về vụ
thảm sát là lệnh thâu hồi bất ngờ và bất thường cho viên Chỉ Huy Nhiệm Sở (CIA)
Sài Gòn John “Jocko”Richardson đã có từ một thẩm quyền vô danh nào? Và
đây là lệnh đã bật đèn xanh cho Dunn toàn quyền hành động.
Bức ảnh
đề ngày 15 tháng 11 năm 1963, tức khoảng hai tuần sau sự kiện đảo chính 1 tháng
11
5.7-
Chúng ta vừa lượt qua phần toàn cục và những nhân vật chính trong lần thảm sát
người lãnh đạo của Miền Nam, và sau đây là màn chót kết thúc tấm bi kịch.
Vào lúc 10 sáng ngày 1 tháng 11, 1963, Đại Sứ Lodge, Tướng Harkins, Đô Đốc Felt
được mời đến Dinh Gia Long thăm viếng xã giao Tổng Thống Diệm, cuộc viếng thăm
có Tướng Trần Văn Đôn tham dự. Tướng Đôn là một nhân sự quan trọng của cuộc đảo
chánh đang sắp sửa xảy ra. Cuộc viếng thăm do Đôn với tư cách quyền Bộ Trưởng
Quốc Phòng sắp xếp lẽ tất nhiên có sự đồng thuận của Tòa Đại sứ Mỹ rõ ràng là để
ông Diệm bận rộn không có thì giờ lưu tâm cuộc chuyển quân.
Trước
khi Đô Đốc Felt và Tướng Harkins ra về, Tổng Thống Diệm giữ Đại Sứ Lodge lại để
nói riêng những lời xác thực với tình hình: “Tôi biết đang có dự mưu đảo
chánh, nhưng tôi không biết ai đang tiến hành âm mưu đó..” Đại Sứ giả tảng
đáp lại: “Tôi không nghĩ có điều gì phải quan tâm!” Tổng Thống Diệm yêu
cầu Đại Sứ Lodge báo cáo chính thức về Hoa Thịnh Đốn là ông từ chối về việc để
ông Nhu ra đi. Ông nói rõ: “Nhờ ông nói với Tổng Thống Kennedy rằng: Ông là
một đồng minh tốt và thẳng thắng; ông muốn giải quyết những vấn đề một cách thẳng
thắng hơn là để bị mất hết rồi mới nói. Ông ghi nhận những điều tổng thống Mỹ
yêu cầu một cách nghiêm túc và mong muốn thực hiện nhưng còn lại vấn đề thời
gian.”
Đại sứ
Lodge đối lại với cách của một người đánh bài xì phé. Cuối cùng ông chuyển báo
cáo cuộc nói chuyện về Hoa Thịnh Đốn theo đường thông tin thông thường trong
khi lực lượng đảo chánh đã vào các vị trí.
5.8-
Sau khi tiễn Đô Đốc Felt lên máy bay, Tướng Đôn trở lại Bộ Tổng Tham Mưu với
Dương Văn Minh, Trần Thiện Khiêm và cuộc binh biến chính thức khai diễn vào lúc
1:30 trưa Ngày 1 Tháng 11, 1963. Phe đảo chánh cô lập người trung thành nhất với
Tổng Thống Diệm, đấy là Tướng Huỳnh Văn Cao, tư lệnh vùng 4, vùng đồng bằng
Sông Cửu Long. Riêng Tướng Tôn thất Đính, Tư lệnh Biệt Khu Thủ Đô kiêm Vùng 3
Chiến Thuật bao quanh Sài Gòn thoạt đầu không chịu theo phe đảo chánh, nhưng
sau khi được Đại Tá Đỗ Mậu khuyến dụ, cuối cùng Tướng Đính thuận góp phần quyết
định với lực lượng đảo chánh.
Trong
cùng lúc, theo một mưu định do Cố Vấn Nhu xếp đặt, Tướng Đính cùng Đại Tá Lê
Quang Tung, chỉ huy trưởng Lực Lượng Đặc Biệt sẽ tổ chức một cuộc “đảo chánh
giả” với mục đích sẽ lảm lộ mặt những thành phần chống đối chế độ. Tương kế
tựu kế, Tướng Đính nhận Sư Đoàn 7 Bộ Binh thuộc Vùng 4 của Tướng Cao sang Vùng
3 đặc dưới quyền của Đại Tá Nguyễn Hữu Có, một thành viên cốt cán của phe đảo
chánh. Lệnh chuyển vùng của Sư Đoàn 7 được Tham Mưu Trưởng Liên Quân, Thiếu Tướng
Trần Thiện Khiêm điều động theo hệ chỉ huy thống quân sự để không một ai nghi
ngờ.
Phe đảo
chánh còn có một lực lượng xung kích hữu hiệu khác là Sư Đoàn 5 Bộ Binh của Đại
Tá Nguyễn Văn Thiệu đóng ở Biên Hòa. Sư đoàn nầy được điều động về Sài Gòn theo
kế hoạch “đảo chánh giả”của Ông Nhu do Tướng Đính thực hiện, điều động bởi
Tướng Khiêm. Tóm lại cả hai kế hoạch đảo chánh giả và đảo chánh thật đồng do một
cá nhân đạo diễn và thi hành: Thiếu Tướng Tham Mưu Trưởng Liên Quân Trần
Thiện Khiêm, có Trung tá tình báo Mỹ Lucien Conein ngồi đằng sau văn phòng tướng
Khiêm theo dõi. Ai ra lệnh trực tiếp cho Thiếu Tướng Trần Thiện Khiêm đến nay vẫn
là một ẩn số chưa hề được giải mật. Không hề được giải mật.
5.9- Đảo
chính nổ ra lúc 1:30 trưa; đến 4:30 TT Diệm gọi Đại Sứ Lodge, đối thoại bằng tiếng
Pháp: “Một vài đơn vị đang nổi loạn và tôi cần biết thái độ của nước Mỹ?” Đại
Sứ Lodge nói trớ cũng bằng tiếng Pháp: “Tôi chưa có đủ thông tin để có thể
nói cùng ngài. Tôi nghe tiếng súng nổ nhưng không biết sự kiện như thể nào. Tôi
không thể có được một ý kiến nào của chính phủ tôi vì bây giờ là 4: 30 sáng ở
Hoa Thịnh Đốn.” Tổng Thống Diệm hỏi gặng: “Nhưng ông cũng phải có ý
kiến nào chứ” Ông Diệm kết luận: “Thế nào đi nữa tôi vẫn là một
Nguyên Thủ Quốc Gia.. Tôi tin vào nhiệm vụ trên tất cả”. Đại sứ Lodge chuyển
giọng nhân nghĩa nhưng thực chất là để thăm dò phản ứng của Tổng Thống Diệm: “Hiện
tại tôi rất lo lắng cho sự an toàn sinh mạng của ngài.. Tôi có được một báo cáo
về những người đang tiến hành vụ việc (đảo chánh) nầy là họ đã đề nghị một giải
pháp an toàn đưa ngài và người em ra khỏi nước nếu như ngài từ chức. Ngài có
nghe về đề nghị nầy không?”
”Không!” Tổng Thống Diệm chấm
dứt. Cuộc đối thoại đã lộ rõ quyết định của chính phủ Mỹ qua lời nói và việc
làm của Đại Sứ Lodge: Thanh toán người lãnh đạo Việt Nam Cộng
Hòa chứ không thể có giải pháp nào khác.
5.7-
Quyết định thanh toán Tổng Thống Ngô Đình Diệm, cố vấn Ngô Đình Nhu đựợc chứng
thực cụ thể hơn nữa qua lời từ chối khéo của Đại Sứ Lodge trong sáng Ngày 2 về
đề nghị của Tổng Thống Diệm thuận ra khỏi nước sau khi đồng ý từ chức. Nhưng bấy
giờ Đại sứ Lodge đã nại cớ: Muốn có một chiếc máy bay để đưa anh em ông
Diệm ra đi phải được chuẩn bị từ 24 tiếng. Trong khi Đại sứ Lodge
đã SẴN CÓ MỘT CHIẾC MÁY BAY TỪ BA NGÀY TRƯỚC. Chiếc máy bay có sẵn
nầy là để dự phòng nếu cuộc đảo chính không thành thì Đại Sứ Mỹ sẽ ép anh em
ông Diệm phải rời khỏi nước. Chiếc máy bay dự phòng nầy cũng nhận sẵn chỉ thị PHẢI
ĐƯA HAI ÔNG DIỆM, NHU RA XA VÙNG ĐÔNG NAM Á, KHÔNG ĐƯỢC NGỪNG LẠI TẠI NHỮNG NƯỚC
GẦN VIỆT NAM ĐỂ ĐỀ PHÒNG ANH EM ÔNG DIỆM LẬP CHÍNH PHỦ LƯU VONG, VÀ SẼ TRỞ LẠI
NẮM QUYỀN NHƯ MỘT ĐIỀU ĐƯƠNG NHIÊN.
5.8- Vụ
việc liên quan về chiếc phi cơ dự trù đưa hai ông Diệm, Nhu ra khỏi nước như vừa
nêu ra cũng đã là điều dư thừa bởi khi Sài Gòn vang tiếng súng trong ngày 1 và
2 thì nơi Tòa Bạch Cung, ở Mỹ, Mac Bundy , Forrestal, Hilsman suốt đêm qua đường
điện thoại viễn liên thúc dục tòa đại sứ ở Sài Gòn hãy bảo các tướng đảo chánh
nhấn mạnh về việc ông Nhu có ý đồ móc nối với cộng sản phản bội ý hướng chống cộng!
Và cần thiết thì san bằng Dinh Gia Long như cảnh tận diệt cũng không sao.
Thái độ
và hảnh động của Bộ Ngoại Giao, chính phủ Mỹ được Tướng Harkins ở Sài gòn đánh
giá trong điện văn gởi về cố vấn tổng thống Mỹ, Tướng Maxewll Taylor là: Chúng
ta không còn là một chế độ cộng hòa! Và không ai khác hơn chính Đại Sứ
Lodge là người đã đặt câu hỏi với Đại Tá Dunn, phụ tá quân sự của ông: “Chúng
ta sẽ phải đối xử với họ như thế nào nếu như hai người còn sống?!” Thế
nên, trước hai thân thể bị hành hình man rợ, đáp lại câu hỏi của tướng Trần Văn
Đôn: Tại sao họ chết? Thì câu trả lời ngang ngược của Tướng
Dương Văn Minh: Chết thì đã làm sao? quả là câu trả lời đương
nhiên.
5.9- Cuối
cùng, sự kiện Ngày 1 Tháng 11, 1963 nơi Sài Gòn với cái chết của Tổng Thống Ngô
Đình Diệm và cố vấn Ngô Đình Nhu thật ra đã thành sự từ Hoa Thịnh Đốn với đích
thân Tổng thống Kennedy chứ không ai khác.
Sau khi
ở Sài Gòn về, ngày 2 tháng 10, Bộ Trưởng Quốc Phòng McNamara và Tướng Maxwell
Taylor đệ trình lên tổng thống Mỹ bản phúc trình với ý chính không đồng
ý kế hoạch đảo chánh do CIA/Bộ Ngoại Giao/Đại Sứ Lodge đang tiến hành. Tuy
nhiên bản báo cáo cũng nêu lên quan điểm: Phải chuẩn bị một một nhóm lãnh đạo mới
để dự phòng.
Trong lần
gặp Tổng Thống Mỹ, tướng Maxwell Taylor nói rõ hơn: Ông không đặt vấn đề thay
ông Diệm hay không? Nhưng vấn đề là: Lấy ai là người thay thế? Sau
buổi họp, Tổng Thống Kennedy cho gọi Đại Tá Lansdale, người đã giúp ông Diệm
lên nắm quyền trong năm 1954 đến và trực tiếp bàn kế hoạch phế bỏ Tổng Thống Diệm.
Tuy nhiên, Đại Tá Lansdale đã chối từ thẳng thừng: Không được. Thưa Tổng
Thống. Tôi không thể làm chuyện ấy. Ông Diệm là bạn của tôi.
Cái
chết thê thảm của Tổng Thống Ngô Đình Diệm cùng bào đệ Ngô Đình Nhu là cú sốc lớn
đối với gia đình và cả những người miền Bắc di cư (thành phần xã hội ủng hộ mạnh
mẽ cho quyền lực của Ngô Tổng thống). Một năm sau đó (1964), bào đệ Ngô Đình Cẩn
cũng bị điệu ra pháp trường xử bắn.
Khi Đại
Tá Lansdale từ chối, lẽ tất nhiên Tổng Thống Kennedy phải chọn một người khác.
Sự việc nầy cũng là một ẩn số với cái chết của Tổng Thống Kennedy hai mươi ngày
sau, 22 Tháng 11, 1963 tại Dallas. Ai giết? Ai giết Ai? Lịch sử Việt Nam,
nước Mỹ trong thời hiện đại trong đầy rẫy ẩn số những cái chết không hề được giải
thích.
Kết
Luận
Biến cố
Phật Giáo tại Huế xẩy ra ngày 8 Tháng 5, 1963 với 9 nạn nhân đã là tiền đề khởi
động biến cố 1 Tháng 11 tại Sài Gòn. Diễn tiến lên đến cao điểm của hai phía. Về
phía Phật Giáo khi Hòa Thượng Thích Quảng Đức tự thiêu trong ngày 11 tháng 6;
và phía chính quyền là Lệnh Thiết Quân Luật công bố nửa đêm ngày 20 Tháng 8 để
rồi ra lệnh tấn công các chùa trên toàn quốc với Lực Lượng Đặc Biệt của Đại Tá
Lê Quang Tung. Nhưng cả hai mặt của vấn đề “Phật Giáo Việt Nam bị
đàn áp, kỳ thị ” KHÔNG PHẢI LÀ VẤN ĐỀ CẦN QUAN TÂM CỦA CHÍNH
PHỦ MỸ”. Vấn đề của Mỹ là: Làm sao để thắng cộng sản tại Nam Việt Nam? Nếu
thay Tổng Thống Diệm thì ai là người lãnh đạo Miền Nam đề thắng cộng
sản theo kế sách của Mỹ?
Tất cả
những điều chính yếu nầy thể hiện trong Công Điện mang bí số 243 gời Ngày 24
Tháng 8 từ văn phòng Bộ Ngoại Giao Mỹ đến đại sứ Logde ở Sài Gòn. Công điện do
Xử Lý Thường Vụ Ngoại Trưởng George Ball soạn thảo. Bức công điện khai tử người
lãnh đạo nền Đệ Nhất Cộng Hòa khi tổng thống, bộ trưởng quốc phòng, bộ trưởng ngoại
giao, giám đốc CIA đều vắng mặt tại Hoa Thịnh Đốn.
Công Điện
243 có nội dung: “Hoa Thịnh Đốn không thể tha thứ cho ông Nhu giữ vị thế quyền
lực và lệnh cho Đại Sứ Logde phải áp lực với ông Diệm cắt bỏ người em của ông.
Công điện nhấn mạnh nếu ông Diệm từ chối thì người Mỹ sẽ khai triển khả năng
thay thế thành phần lãnh đạo chuyển tiếp tại Nam Việt Nam”.
Cụ thể,
Điện Văn 243 cho phép Đại Sứ Logde toàn quyền bật đèn xanh để nhóm tướng lãnh
VNCH tiến hành cuộc đảo chánh lật đổ Tổng Thống Diệm. Sử gia John W. Newman
đánh giá đây là một điện văn cực độ mâu thuẫn trong suốt chiến tranh Việt Nam. Tội
nặng nhất mà ông Nhu bị Mỹ cáo buộc là mưu định nói chuyện với miền Bắc qua
trung gian Đại Sứ Maneli, Trưởng đoàn Ba Lan trong Ủy Hội Quốc Tế Kiểm Soát
Đình Chiến.
Thực hư
sự việc nầy như thế nào đến giờ nầy cũng không mấy ai rõ vì những người trong
cuộc đã không còn và cuộc tiếp xúc dự định cũng không có kết quả cụ thể. Duy chỉ
có một điều, thành tích lớn nhất mà cố vấn Hội Đồng An Ninh Quốc Gia, Ngoại Trưởng
Hoa Kỳ Kissinger đạt được là quá trình mật đàm với cộng sản Hà Nội để có Hiệp Định
Tái Lập Hòa Bình tại Việt Nam ký ngày 27 tháng 1, 1973 tại Paris. Bản Hiệp Định
bị Hà Nội xé bỏ vào ngày 30 Tháng 4, 1975 tại Sài Gòn.
Cũng cần
nói thêm, Xử Lý Thường Vụ Bộ Ngoại Giao George Ball, Cố Vấn Hội Đồng An Ninh Quốc
Gia McGeorge Bundy, các phụ tá, Forrestal, Hilsman.. tất cả đồng
thuộc về phe cánh của Averell Harriman. Đây là người được xưng tụng thuộc “Nhóm
Mưu Sĩ của Nước Mỹ”, là tác giả Hiệp Định Trung Lập Lào 1962. Bản Hiệp
Định mà Tồng Thống Ngô Đình Diệm cực lục phản đối.
Và cuối
cùng, lịch sử từ 1963 đã thực sự xác chứng: Nếu Tổng Thống Ngô Đình Diệm, Tổng
Thống Kennedy vẫn giữ quyền lãnh đạo thì chắc chắn chiến tranh Việt đã
phải đi vào một tình thế khác – Không phải tình thế của Ngày
30 Tháng 4, 1975 – Nước Mỹ thấm nhục cuốn cờ tháo chạy sau lần 58,000
chiến binh Mỹ hy sinh, và Việt Nam Cộng Hòa sụp đổ.
Hóa
ra, cá nhân, gia đình thân tộc họ Ngô Đình/Phật Giáo Việt Nam/Người Miền
Nam/Người Lính VNCH tất cả đồng chịu Một Lần Đau – Lần Nước Mất Nhà Tan.
Người
Lính VNCH/Công Dân Mỹ Gốc Việt
Phan
Nhật Nam
1/11/1963-1/11/2015
(Sàigòn/VN
– CA/US)
No comments:
Post a Comment