Sunday, November 1, 2015

Bi kịch của một người - Thảm họa của cả dân tộc (Phan Nhật Nam/Sống Magazine)





27 Tháng Mười 20152:11CH

Trang bìa tạp chí TIME số ra ngày 4 tháng 4 năm 1955 đề tựa “The hour is late, the odds are long” (Thời cơ đã muộn, tình thế lại bấp bênh), dưới bức hình ông Ngô Đình Diệm (bấy giờ là Thủ tướng Quốc gia Việt Nam) và lá quốc kỳ bị rách. Đây là thời điểm thi hành Hiệp định Genève, chính thể Quốc gia Việt Nam đứng trước nguy cơ tan rã vì nội chiến.

Bài viết theo kịch bản Phan Nhật Nam. Ngọc Đan Thanh diễn đọc. Đạo diễn Vũ Trần. SBTN/Trúc Hồ sản xuất.

“Nếu bọn Việt Cộng thắng, thì quốc-gia Việt-Nam cũng sẽ bị tiêu-diệt và sẽ biến thành một tỉnh nhỏ của Trung-hoa Cộng-sản. Hơn nữa toàn-dân sẽ phải sống mãi mãi dưới ách độc tài của một bọn vong bản vô gia đình, vô tổ quốc, vô tôn giáo."
Ngô Đình Diệm
(Đồng Cam, Tuy-Hòa 17-9-1955)


Dẫn Nhập
Ngày 1 Tháng 11 năm 1963 tại Sài Gòn nổ ra cuộc binh biến do giới tướng lãnh và chỉ huy trưởng các đơn vị tác chiến chiến thuật QLVNCH tổ chức và thực hiện. Biến cố có kết thúc là Tổng Thống Ngô Đình Diệm cùng bào đệ, Cố Vấn Ngô Đình Nhu bị thảm sát và nền Đệ Nhất Cộng Hòa cáo chung (1955- 1963). Và phải đến bốn năm sau, 1967 Đệ Nhị Cộng Hòa mới được thành hình với Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu mà lần tưởng niệm Tháng 9 vừa qua đã nhắc nhở.

Biến cố năm 1963 xa xôi kia tính đến hôm nay đã là 52 năm, thời gian đủ dài để tất cả tranh chấp, dị biệt, đối kháng nẩy sinh từ trước, và sau lần kết thúc nền Đệ Nhất Cộng Hòa với lần bức tử của vị nguyên thủ.. Tất cả những mâu thuẩn đối nghịch từ những cá nhân, nhóm cá nhân của nhiều phía hôm nay cần phải được phân giải khách quan, trung thực để thấy ra một điều chung nhất là: Cùng lần với thảm kịch của cá nhân, gia đình Tổng Thống Ngô Đình Diệm là hậu quả, hệ quả uất hận vô bờ của toàn dân tộc Việt Nam.
Phải! Hết thảy dân tộc Việt Nam, toàn thể người Miền Nam bao gồm tập thể người Lính QLVNCH là đối tượng chủ thể trực tiếp hoặc gián tiếp thụ nạn từ chế độ cộng sản Hà Nội. Tình thế xã hội Việt Nam hiện nay thực chứng cho nhận định nầy. Lẽ tất nhiên, người và tổ chức đảng cộng sản lại là một vấn đề khác.

I- Con Người - Giòng Dõi - Dân Tộc:

1.1- Từ tinh thần vừa nêu ra, buổi tưởng niệm lần thảm sát Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm và Cố Vấn Ngô Đình Nhu cũng là buổi Đồng Tế cho Anh Linh Chiến Sĩ-Đồng Bào đã ngã xuống trên quê hương vì mục tiêu Dân Chủ-Tự Do mà chế độ Cộng Hòa hằng biểu hiện. Ngày 1 Tháng 11 cũng là Lễ Chư Thánh của Đạo Công Giáo – Là ngày vinh danh Chư Thánh nơi Thiên Đàng. Với ý nghĩa vinh hiển nầy, Dân Tộc Việt Nam quả rất xứng đáng với danh vị cao quý: Việt Nam là một trong những Dân Tộc gánh chịu Khổ Nạn của toàn thể loài người..

Chúng ta cần được chứng minh: Từ đầu Thế Kỷ thứ 1 sau Công Nguyên với cuộc khỏi nghĩa của Hai Bà Trưng, Bà Triệu; tiếp theo các đời Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần cho đến đời Hậu Lê do Lê Lợi dựng nghiệp vào năm 1427.. Khoảng thời gian 1500 năm dựng nước và giữ nước với bốn kỳ Bắc Thuộc nầy, lịch sử quả đã phủ đầy máu xương của giòng giống Việt. Đấy là tộc người đã sống, chiến đấu và chết trên đất An Nam vùng Đông Nam Á.

Có thể nhắc lại cụ thể là cuộc chiến Bắc-Nam Triều giữa hai họ Lê và họ Mạc từ 1592 đến 1677; tiếp lần phân tranh Trịnh-Nguyễn của Đàng Trong và Đàng Ngoài kéo dài hơn trăm năm từ 1627 đến 1775. Cảnh điêu linh càng thêm cường độ với Nhà Nguyễn Tây Sơn trong những năm từ 1778 đến 1802. Cuộc binh đao chỉ tạm ngưng sau lần Vua Gia Long thống nhất đất nước vào năm 1802. Và máu người Việt lại thêm lần tuôn đổ trên quê hương từ ngày 1/9/1858 khi quân Pháp lần đầu tiên đánh Đà Nẵng. Lần xâm lăng của Đế Quốc Pháp là nguyên nhân của biến cố bi thảm thất thủ Kinh Đô Huế vào ngày 5/7/1885 hay ngày 23 tháng 5 năm Âm Lịch Ất Dậu.

1.2- Qua thế kỷ 20, hằng năm người Huế vẫn làm lễ cúng cô hồn cho oan linh uổng thác từ năm 1885 xa xưa kia. Lễ cúng càng thêm ai oán thương tâm với ngàn người bị giết sống trong dịp lực lượng cộng sản tấn công Tết Mậu Thân, 1968.

Cũng cần phải nhắc lại một thời điểm quan trọng là năm 1930. Đây là năm Khởi Nghĩa Yên Báy và Sô Viết Nghệ Tĩnh, cũng là thời điểm đảng cộng sản Đông Dương thành hình để máu xương nên thành một chủ nghĩa như lời bài hát Đường vinh quang xây xác quân thù.. Trận Điện Biên Phủ kéo dài từ 13 tháng 3 đến 7 tháng 5, năm 1954. Suốt 1 tháng, 3 tuần và 3 ngày kia, đã có 8,000 bộ đội cộng sản tử trận và 15,000 người bị thương. Như vậy, một ngày chết hơn 100 và bị thương 300 người để xây dựng nên vinh quang đảng cộng sản và sự nghiệp của nhân sự gọi là “bác Hồ”!

Sau 30 tháng 4, 1975, trong tổng số người vượt biên bằng đường bộ và đường biển đã có số lượng 600 ngàn người chết với cách kinh hoàng thảm khốc nhất mà không ai có thể tưởng ra qua thống kê của Liên Hiệp Quốc. Tuy nhiên nhà cầm quyền Hà Nội hằng năm vẫn làm lễ “đại thắng mùa xuân”…

Trong toàn cảnh máu xương ngập tràn quê hương suốt thế kỷ 20, Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã chứng kiến và dự phần từ vị trí người lãnh tụ. Ông sinh Ngày 3 Tháng 1 Năm 1901. Ngày tháng năm mở đầu Thế Kỷ 20.

1.3- Ông Ngô Đình Diệm sinh Ngày 3 Tháng 1 năm 1901 tại làng Đại Phong, huyện Lệ Thủy, Quảng Bình trong một gia đình quan lại có truyền thống Công Giáo lâu đời, ông có tên Thánh là Gioan Baotixita. Thân phụ là cụ Ngô Đình Khả và thân mẫu là cụ bà Phạm Thị Thân.

Cụ Ngô Đình Khả là Thượng Thư Bộ Lễ, cơ quan phụ trách Lễ Pháp của triều đình nhà Nguyễn, kiêm chức Phụ Đạo Đại Thần, cố vấn Vua Thành Thái. Ông Ngô Đình Diệm là người con thứ ba trong gia đình với hai người anh đầu là Ngô Đình Khôi và Ngô Đình Thục. Người anh trưởng Ngô Đình Khôi làm Tổng Đốc Quảng Nam cùng con là Ngô Đình Huân bị cộng sản Việt Minh sát hại chung lần với Học Giả Phạm Quỳnh vào ngày 6 tháng 9 sau khi Vua Bảo Đại tuyên bố thoái vị trong ngày 25 tháng 8, 1945 tại Huế. Người anh thứ là Tổng Giám Mục Ngô Đình Thục phụ trách tổng giáo phận Huế trước biến cố 1963. Ông Diệm còn có ba em trai là Ngô Đình Nhu, Ngô Đình Cẩn, Ngô Đình Luyện, và hai người em gái là Ngô Thị Giáo và Ngô Thị Hiệp. Bà Ngô Thị Hiệp là mẹ của Cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận.

Dòng họ Ngô Đình: (hình năm 1963, từ trái sang) Cố vấn Ngô Đình Nhu, Tổng thống Ngô Đình Diệm, Tổng Giám mục Ngô Đình Thục, em gái tổng thống Diệm, bà mẹ (ngồi), bà Trần Lệ Xuân, ông Ngô Đình Cẩn. Hàng con cháu: Trác, Quỳnh, Lệ Quyên, Lệ Thủy.

1.4- Dòng họ Ngô Đình là thành phần xã hội theo Đạo Công Giáo từ Thế Kỷ 17 khi tôn giáo nầy được truyền bá đầu tiên vào Việt Nam. Năm 1870 hàng trăm người thuộc họ Ngô Đình đã bị thiêu sống trong một nhà thờ. Đấy là thời gian giáo dân cả nước chịu cuộc bách hại quy mô theo lệnh các vua Minh Mạng, Tự Đức.

Cụ Ngô Đình Khả ngoài những chức vụ cao trong triều đình còn có công sáng lập và điều hành Trường Quốc Học Huế, một cơ sở giáo dục lớn của Miền Nam hoạt động cho đến ngày quân cộng sản miền Bắc chiếm Huế, tháng 3, 1975. Cụ Ngô Đình Khả được tiếng là bậc trung quân theo truyền thống Nho Giáo, bởi khi nhà cầm quyền Pháp ép các quan trong triều ký giấy yêu cầu lưu đày vị vua yêu nước Thành Thái ra đảo Réunion cùng với con trai là vua Duy Tân thì cụ là người duy nhất không chịu ký thuận. Vì thế triều đình do chịu sức ép của Khâm Sứ Pháp tại Huế đã lột bỏ hết chức tước, quyền lợi buộc cụ về hưu năm 1907. Lúc ấy, ông Ngô Đình Diệm mới được 6 tuổi, nhưng cũng hiểu thế nào là tình cảnh nghèo khó của một gia đình quan nhất phẩm triều đình bị bãi chức. Hình ảnh ông Diệm và các anh em đi chân đất là một xác nhận về cuộc sống thanh bần lúc thiếu thời của gia tộc họ Ngô sau khi cụ Thượng Khả bị bãi bò hết chức tước, phẩm lộc.

1.5- Cụ Ngô Đình Khả đã truyền lại cho các con, đặc biệt với hai ông Ngô Đình Khôi và Ngô Đình Diệm lòng yêu nước, sự sùng đạo, nhất là tinh thần chống Pháp. Cụ Khả đã giao ông Diệm cho một người bạn là Thượng Thư Nguyễn Hữu Bài, cũng là nhạc phụ ông Ngô Đình Khôi chăm sóc dạy dỗ. Chính Thượng Thư Nguyễn Hữu Bài đã dọn đường cho Ngô Đình Diệm bước vào quan trường trong chế độ bảo hộ.

Sau khi học xong chương trình trung học ở Trường Quốc Học Huế, Ngô Đình Diệm ra Hà Nội vào học tại trường Hậu Bổ với môn học chính là Luật và Quản Trị. Năm 20 tuổi ông tốt nghiệp thủ khoa Trường Hậu Bổ, được cử làm tri phủ Huyện Hương Trà, một đơn vị hành chánh quan trọng Thành Phố Huế. Năm 1929, ở tuổi 28 ông Diệm được bổ nhậm chức vụ tuần vũ đứng đầu Tỉnh Phan Thiết. Trong 4 năm làm việc tại đây, ông Diệm đã chứng tỏ là một ông quan thanh liêm để hết tâm trí lo cho dân. Nhưng ông cũng quyết liệt cải hóa, hoặc vô hiệu hóa những phần tử cộng sản đã bắt đầu xuất hiện với chiêu bài cách mạng chống Pháp.

Hơn nữa, những hành động bạo ngược của phong trào cộng sản Xô Viết Nghệ Tĩnh với chủ trương “Trí, phú, địa, hào, đào tận gốc trốc tận rễ” thực hiện trong năm 1930 càng khiến ông quyết liệt ra tay triệt hạ các thành phần cộng sản. Ý thức Quốc Gia-Dân Tộc là nền tảng tinh thần suốt một đời hoạt động của cá nhân người mang danh tính Ngô Đình Diệm.

1.6- Với những thành tích xuất sắc, đầu năm 1933, ở số tuổi 32, Ông Diệm được Vua Bảo Đại cử làm Thượng Thư Bộ Lại tương đương chức vụ thủ tướng thời nay với những bộ trưởng dưới quyền hầu hết đều hơn ông hàng chục tuổi. Ngoài chức thượng thư bộ Lại, nhà vua còn đặt ông đứng đầu Ủy Ban Cải Cách là một cơ quan tối cao hỗn hợp Việt-Pháp, nhằm đem lại nhiều quyền hành hơn cho Triều Đình Huế và chủ quyền cho Dân Việt.

Tiếc rằng những cố gắng của ông đụng phải sự ngoan cố của giới cầm quyền thực dân Pháp, khiến ông cuối cùng dứt khoát rời bỏ chức quyền cao trọng khi mới qua tuổi 30. Trong hồi ký Le Dragon D’Annam (Con Rồng Việt Nam), Vua Bảo Đại đã ghi lại lời ông nói với ông Diệm lúc ấy: “Mong rằng sự ra đi của quan thượng thư sẽ mở mắt cho người Pháp.”

Nội các Ngô Đình Diệm trong những ngày đầu.

II- Từ quan trường đến chính trường

2.1- Sau khi từ bỏ mọi chức tước và bổng lộc của triều đình Huế, ông Ngô Đình Diệm dùng hết thời gian cho việc đọc sách, nghiên cứu chính trị, thường xuyên liên lạc với các nhà ái quốc như Phan Bội Châu đang bị Pháp an trí ở Huế và Kỳ Ngoại Hầu Cường Để đang lưu vong ở Nhật.

Liên quan đến nhà cách mạng Phan Bội Châu, ông Võ Như Nguyện một nhân sĩ miền Trung là con của cụ Võ Bá Hạp, một đồng chí, đồng song với cụ Phan Bội Châu, nên có thời gian được gần gủi cụ Phan như con cháu trong nhà. Vì thế có lúc cụ Phan sai chàng trai Võ Như Nguyện đi theo phò ông Ngô Đình Diệm vì cảm mến đức độ cũng như quan điểm chính trị (Thân Nhật-Chống Pháp) của ông Diệm. Nhưng người cộng sản như Võ Nguyên Giáp thì nhắc đến sự việc (không được kiểm chứng) là trong ngôi nhà của Cụ Phan Bội Châu ở Bến Ngự (Huế) có treo bức ảnh của những danh nhân gồm Phật Thích Ca, Tôn Trung Sơn (Trung Hoa) và Lê Nin (Liên Xô)... Ý muốn nói rằng cụ Phan có khuynh hướng ủng hộ cộng sản.
Điều nầy không thể có vì Giáo Sư sử học Nguyễn Thế Anh, hiện sống tại Pháp nêu rõ: Cụ Phan Bội Châu đã từng lên án trên Báo Tiếng Dân của cụ Huỳnh Thúc Kháng cách thức tàn bạo tiêu diệt trí thức của phong trào Xô Viết mà cụ đã chứng kiến nơi quê hương Nghệ Tỉnh trong năm 1930. Nếu có chưng ảnh Lê Nin chăng cũng chỉ là một biểu hiện về khuynh hướng bình đẳng xã hội như phong trào cộng sản hằng tuyên truyền mà thôi.

2.2- Sau khi cụ Phan Bội Châu qua đời (1940), ông Diệm lập một hội kín lấy tên là Đại Việt Phục Hưng. Hội gồm đại đa số là người Công Giáo miền Trung. Mùa hè năm 1944 cảnh sát Pháp lùng bắt các thành viên của tổ chức này, ông Diệm thoát được, nhờ người Nhật giúp che giấu rồi cải trang thành một sỹ quan của Quân Đội Hoàng Gia vào Sài Gòn lẩn tránh.
Năm 1943 ông Diệm phái người sang Nhật tiếp xúc với hoàng thân Cường Để với dự định đưa vị hoàng thân nầy về thay vua Bảo Đại. Nếu kế hoạch này thành tựu thì ông sẽ là thủ tướng trong một chính thể Quân Chủ Lập Hiến. Tuy nhiên chính phủ Nhật lúc ấy theo hai xu hướng khác nhau. Phe cấp tiến có lý tưởng muốn giúp các nước vùng Đông Nam Á hoàn toàn độc lập tự do, thoát khỏi ách thống trị của các nước thực dân Tây Âu. Phe bảo thủ thì muốn chi phối giới lãnh đạo người Châu Á bản xứ.

Sự chọn lựa nầy được hiện thực sau ngày Nhật đảo chánh Pháp tại Đông Dương, toàn quyền, tư lệnh quân đội Nhật tại Đông Dương đã chọn Vua Bảo Đại và Thủ Tướng Trần Trọng Kim để giao nhiệm vụ thay vì Kỳ Ngoại Hầu Cường Để với Thủ Tướng Ngô Đình Diệm.

2.3- Trở lại vụ việc sau lần đảo chính người Pháp trong ngày 9 tháng 3, 1945, giới chức Nhật ở Đông Dương đã không để Vua Bảo Đại biết ông Diệm ở đâu để mời lên làm thủ tướng. Chờ đợi từ 19 Tháng 3 đến 17 tháng 4, vẫn không có hồi âm của ông Diệm, nên nhà vua đã chọn Sử Gia Trần Trọng Kim để trao chức quyền trị nước.

Sự thành công của cuộc trưng cầu dân ý ngày 23 tháng 10 năm 1955, đã cho phép TT. Ngô Đình Diệm ký quyết định ban hành bản Lâm thời Hiến pháp số 1, vào ngày 26 tháng 10. Sự kiện này được coi là quốc khánh của Việt Nam Cộng Hòa.

Theo nhận định của học giả Bernard Fall, thì như thế lại hay cho ông Diệm, vì khỏi mang tiếng là làm thủ tướng bù nhìn do người Nhật dựng lên. Cũng có ý kiến rằng, nếu ông Diệm ở vào vị thế của ông Trần Trọng Kim, thì nhóm cộng sản của Hồ Chí Minh đã không có thể cướp được chính quyền một cách quá dễ dàng như đã xẩy ra với Vua Bảo Đại trong ngày 25 tháng 8, 1945 như lịch sử đã diễn ra.

Sự kiện nầy có thể đã thực hiện vì Tổng Đốc Ngô Đình Khôi, anh ông Diệm là người đã cực lực phản đối lần trao quyền từ Vua Bảo Đại cho đại diện Việt Minh. Cái chết của Tổng Đốc Ngô Đình Khôi do tay người cộng sản là thực chứng cho sự kiện giả định nầy: Lịch sử Tháng 8 năm 1945 hẳn đã hoàn toàn đổi khác nếu thủ Tướng Ngô Đình Diệm, Kỳ Ngoại Hầu Cường Để nắm giữ quyền lãnh đạo Việt Nam!

2.4- Sau lần Việt Minh cướp chính quyền trên toàn quốc, tháng 8, 1945, ông Ngô Đình Diệm đã bị bắt ở Tuy Hòa, giải ra Tuyên Quang giam giữ. Sau đó đích thân Hồ Chí Minh ra lệnh đưa ông về Hà Nội, đề nghị ông tham gia Chính Phủ Liên Hiệp gồm nhiều thành phần Việt Minh và quốc gia. Nhưng do sẵn có ý thức rõ về Việt Minh cộng sản nên ông sáng suốt, thẳng thắng từ chối. Ông bị giam một thời gian tại Phủ Chủ Tịch, song được phóng thích theo lệnh Hồ Chí Minh.

Về sau nhiều cán bộ cộng sản đã hối tiếc về sự phóng thích này, và có ý trách cứ “Hồ Chí Minh đã rộng lượng mà thả hổ về rừng”. Nhưng lúc ấy thực sự ông Hồ cố ý lấy lòng giáo dân đang cần tập trung lực lượng chống Pháp, vì ông Diệm là một lãnh tụ Công Giáo có nhiều ảnh hưởng. Cũng bởi Hồ Chí Minh có “trí sáng”, biết giết bỏ những ai cần phải triệt hạ như đã giết nhà văn Khái Hưng mà cộng tác với Nhất Linh của tổ chức Quốc Dân Đảng; cũng như sát hại người anh Ngô Đình Khôi mà khoan tay với người em Ngô Đình Diệm.
Lịch sử từ năm 1945 đến hiện tại đã thực chứng: Người cộng sản đã không hề khoan hồng một ai, họ sẵn sàng xuống tay giết lầm không bỏ sót. Cộng sản không giết người không phải vì nhân đạo nhưng bởi mưu định thủ đoạn chính trị tính toán thiệt hơn.

2.5- Năm 1947 ông Ngô Đình Diệm cùng với Bác Sĩ Nguyễn Tôn Hoàn, một lãnh tụ Đại Việt Quốc Dân Đảng lập một liên minh mới lấy tên là Việt Nam Quốc Gia Liên Hiệp. Hai ông cùng với một số lãnh tụ các đảng phái quốc gia cố vấn cho Bảo Đại, yêu cầu cựu hoàng đứng ra lãnh đạo phe Quốc Gia chống Cộng, đồng thời tranh đấu với chính quyền Pháp để thu hồi độc lập hoàn toàn cho Việt Nam.

Ban đầu mọi người chung quanh Bảo Đại đều tán thành “giải pháp Ngô Đình Diệm”. Nhưng vì tính cương nghị và lập trường quá cứng rắn của ông Diệm trong vấn đề độc lập nên về sau một số người tỏ ý không đồng thuận cùng ông. Nhưng cựu hoàng Bảo Đại vẫn quý trọng và ủy thác cho ông làm đại diện để thương thuyết với Cao Ủy Pháp Émile Bollaert về tương lai Việt Nam.

Không đạt được mục đích là cố đòi cho Việt Nam một nền độc lập rộng rãi, giống như chế độ tự trị mà chính phủ Anh đã dành cho Ấn Độ, Pakistan trong khối Liên Hiệp Anh. Cuối cùng ông Diệm rút ra khỏi đám cận thần của Vua Bảo Đại. Tướng Nguyễn Văn Xuân được cử làm thủ tướng để ký với Cao Ủy Bollaert bản thông cáo chung tại Vịnh Hạ Long ngày 5-6-1948. Theo thông cáo này, Pháp “long trọng nhìn nhận nền độc lập của Việt Nam trong khối Liên Hiệp Pháp.”

Tổng Thống Ngô Đình Diệm đọc bản tuyên bố thành lập nước Việt Nam Cộng Hòa, ngày 26 tháng 10 năm 1955 tại Dinh Độc Lập.

 2.6- Tờ L’Écho du Vietnam - Tiếng Vọng Việt Nam số ra ngày 16 Tháng 6, 1949 đã ghi lại lời tuyên bố cô đọng lập trường của Ngô Đình Diệm về một nền độc lập thực sự, và quan điểm đúng đắn của ông đối với thành phần kháng chiến chống Pháp trong tổ chức cộng sản Việt Minh: "Nguyện vọng của người Việt yêu nước chỉ được thỏa mãn khi nào Dân Tộc Việt Nam đạt được một quy chế chính trị y hệt như quy chế mà Ấn Độ và Pakistan đã đạt được trong Liên Hiệp Anh…"

Ông cũng tin rằng muốn công bình thì phải dành những địa vị tốt nhất của xứ sở cho những người xứng đáng nhất: Đấy là những thành phần người Việt không cộng sản kháng chiến chống Pháp trong hàng ngũ Việt Minh. Và ông nhận định một cách chính xác rằng chỉ có dành được độc lập hoàn toàn và giữ đúng cương vị của một quốc gia có chủ quyền mới có thể thi đua với cộng sản, và đánh thắng Cộng Sản. Đấy là đấu tranh giành Độc Lập Chính Trị và thực hiện Cách Mạng Xã Hội để đem lại những quyền lợi thiết thực về kinh tế, xã hội cho nông dân và công nhân, những thành phần nghèo khổ, tạo điều kiện cho họ được sống trong tự do và nhân phẩm. Chính sách Cộng Đồng Đồng Tiến của Đệ Nhất Cộng Hòa với Tổng Thống Ngô Đình Diệm sau nầy quả thật có một nội dung cụ thể và đích thực.

III - Ra Đi và Trở Về

3.1- Mùa xuân năm 1950, khi biết Việt Minh kết án tử hình khiếm diện, ông Diệm yêu cầu nhà cầm quyền Pháp bảo vệ an ninh, nhưng giới chức Pháp trả lời là không đủ cảnh sát để thực hiện công tác nầy. Đến tháng 8, nhân xin được phép đi dự Năm Thánh ở La Mã, ông đã cùng với bào huynh là Giám Mục Ngô Đình Thục lên đường sang Ý xong qua Nhật, và Mỹ. Lợi dụng dịp qua Nhật ông đến thăm Kỳ Ngoại Hầu Cường Để.

Theo những gì ông Diệm về sau cho Giáo Sư Wesley Fishel biết thì cuộc tiếp kiến giữa hai người đồng chí cũ đã diễn ra thân mật, nhiều hứa hẹn. Trước khi rời Sài Gòn sang Nhật, ông Diệm đã dự tính có thể đưa Hoàng Tử Bảo Long lên thay vua cha đang là Quốc Trưởng Bảo Đại để trở lại chế độ quân chủ. Sau đó ông sẽ đưa hoàng thân Cường Để trở về giữ nhiệm vụ nhiếp chính, vì lúc ấy Bảo Long hãy còn nhỏ, và ông Diệm sẽ giữ chức vụ thủ tướng của một chế độ quân chủ lập hiến như kế hoạch của năm 1945.

Hoàng Thân Cường Để cũng tán đồng với kế hoạch này, nên sau đó ông đã tìm cách trở về Việt Nam bằng đường biển. Nhưng khi đến Sài gòn thì nhà cầm quyền Pháp không cho nhập cảnh. Đây là lần cuối cùng Hoàng Thân cố tìm về quê hương mà không được, ông trở lại Nhật, sau đó qua đời tại Đông Kinh ngày 6 tháng 4, 1951.

Sau 1954 khi lên cầm quyền, ông Diệm đã thu xếp đem hài cốt hoàng thân Cường Để về an táng tại cố đô Huế. Một lễ truy điệu đã được tổ chức trọng thể tại Tòa Đô Chánh Sài Gòn trong ngày 10 tháng 1, năm 1957 để tưởng niệm một danh nhân suốt đời tranh đấu cho độc lập quốc gia, dân tộc. Danh tính Cường Để được đặt cho một con đường đẹp nhất tại Sài gòn.

3.2- Wesley Fishel là người mà ông Diệm gặp tại Đông Kinh do tình cờ, là giáo sư dạy tại Đại Học Michigan. Wesley Fishel có nhiệm vụ đi tìm người có khả năng lãnh đạo để giúp trở thành những nhà cầm quyền ở Á Châu theo mẫu mực của Mỹ. Thế nên, Giáo sư Fishel đã khuyên ông Diệm nên sang Hoa Kỳ mưu tìm sự ủng hộ của chính quyền và quốc hội Hoa Kỳ.
Không cần đến lời Fishel khuyên bảo, vì trước khi rời Sài Gòn ông Diệm đã có ý định đến Mỹ tìm hậu thuẫn. Ý định cầu Mỹ giúp đã manh nha từ những năm 1945 khi nhận ra không thực tâm của phía người Nhật. Đầu tháng 9, 1950 ông Diệm và Giám Mục Ngô Đình Thục đến Mỹ, ngụ tại Học Viện Văn Hóa Trung Hoa, sau đó được Hồng Y Francis J. Spellman, Tổng Giám Mục New York là bạn học cũ của Giám Mục Ngô Đình Thục tiếp kiến. Hai ông cũng có tiếp xúc với nhân viên ngoại giao William S. B. Lacy, là giám đốc phụ trách Văn Phòng Phi Luật Tân và Nam Á Châu.

Ông Lacy có nhận xét, ông Diệm không có chương trình cụ thể hữu hiệu nào để giải quyết những vấn đề trọng yếu của Việt Nam, vì vậy bộ ngoại giao Mỹ tỏ ra lạnh nhạt đối với hai ông. Cũng vì lúc ấy chính quyền Tổng Thống Truman đánh giá giải pháp Bảo Đại là một giải pháp tốt, và dầu sao Pháp vẫn đang là một đồng minh trong thế trận chống lại cộng sản tại Việt Nam. Người Mỹ cũng nhận thấy lập trường của ông Diệm đối với Pháp quá cứng rắn, không thực tế, khó có thể thực hiện.

Tổng Thống Ngô Đình Diệm nghỉ trưa trong chuyến kinh lý đồng bằng sông Cửu Long năm 1956.

3.3- Nhận thấy ở lại Mỹ cũng chẳng ích lợi gì, tháng sau ông Diệm bay sang Âu Châu. Ông đã cùng Giám Mục Ngô Đình Thục đến Vatican yết kiến Giáo Hoàng Pio XII. Tại Pháp, ông cũng có tiếp xúc với nhiều giới chức trong chính quyền Pháp và Bảo Đại, ngỏ ý sẵn sàng đứng ra điều khiển chính phủ nếu cựu hoàng yêu cầu. Nhưng Quốc Trưởng Bảo Đại chưa muốn thay đổi người vào lúc này, mặc dù ông Diệm đã tỏ ra mềm dẻo hơn.

Có thể nói cho đến cuối năm 1950 thời vận của ông Diệm chẳng có gì khả quan. Về nước thì không được do có thể bị cộng sản ám sát. Ở lại Âu Châu cũng không xong, vì chính quyền Pháp không mấy thiện cảm vì tinh thần bài Pháp sẵn có của ông, thế nên ông bèn quay trở lại Mỹ và tìm đến những người có cảm tình như thẩm phán Tối Cao Pháp Viện William O. Douglas. Quan trọng nhất là ông tiếp xúc với William J. Donovan, sau nầy là người sáng lập cơ quan OSS, tiền thân của CIA, cùng nhiều nhà báo, chính khách thuộc lưỡng viện quốc hội Mỹ như các Thượng Nghị Sĩ John Fitzgerald Kennedy, Mike Mansfield, dân biểu Walter Judd…

3.4- Phần nhiều những nhân vật trên đều chú ý đến tinh thần và lập trường chống cộng và chống thực dân của ông Diệm. Tuy nhiên những nhân vật này, cũng như Hồng Y Spellman không phải là những người có quyền quyết định đối với chính sách ngoại giao của Mỹ. Dưới cái nhìn của các nhà lãnh đạo Mỹ, Việt Nam trong bối cảnh chiến tranh lạnh rất cần được sự viện trợ kỹ thuật của Mỹ theo Kế Hoạch Điểm 4. Ông Diệm đã nêu lên yêu cầu của xứ sở và của tình hình. Vì vậy khi ông lên làm tổng thống, ông đã nhận được viện trợ kỹ thuật phi quân sự của Mỹ một cách rất dồi dào.

Ông Diệm cũng tiếp xúc với những người Việt Nam đang sinh sống ở Mỹ và những du học sinh. Trong số này có linh mục Trần Văn Kiệm và gia đình ông Bùi Công Văn là những người giúp ông nhiều nhất. Theo Linh Mục Kiệm thì ông Diệm luôn ôm ấp hoài bão đem lại độc lập cho nước và đời sống no ấm, tự do cho dân. Tuy ông phê bình ông Bảo Đại hơi mềm yếu, nhưng lúc nào cũng tỏ ra tôn kính và hình như muốn ủng hộ ông ấy trở lại ngôi vua trong một chính thể quân chủ lập hiến trong đó ông Diệm sẽ là thủ tướng.

Sau khi ông Diệm lên cầm quyền tháng 7, 1954, Linh Mục Kiệm đã có nhiều dịp tiếp xúc với ông Diệm, ông Nhu, và Đức Cha Thục. Linh Mục Kiệm nhận xét ông Diệm vẫn luôn là người bình dị, cởi mở không như ông Nhu hay ông Thục.

IV- Con Người và Vận Nước

4.1- Khi liên hệ giữa Quốc Trưởng Bảo Đại và Cựu Thượng Thư Ngô Đình Diệm trở nên chặt chẽ thì chiến cuộc trong nước càng ngày càng sôi động nơi chiến trường Điện Biên Phủ, vùng núi Tây-Bắc Việt Nam. Và vận mệnh Việt Nam cùng lần được quyết định từ phòng hội của Hội Nghị Genève về Đông Dương.

Hội Nghị Genève nguyên ủy khai mạc Ngày 26 Tháng 4 năm 1954 để bàn về việc khôi phục hòa bình tại bán đảo Triều Tiên sau khi cuộc chiến (1950-1953) giữa Nam-Bắc Hàn tạm chấm dứt. Nhưng do vấn đề Triều Tiên không đạt được kết quả, nên từ Ngày 8 Tháng 5 vấn đề Đông Dương được đưa ra thảo luận. Cũng bởi mặt trận Điện Biên Phủ kết thúc trong ngày 7 tháng 5 với phần thắng lợi của Việt Minh cộng sản và người Pháp phải nhận ra lần chấm dứt sự can dự vào Đông Dương với diễn trường Việt Nam từ cuối thế kỷ 19.


4.2- Trong lúc thế nước lâm vào tình trạng vô cùng khó khăn với diễn biến phức tạp, ngày 16 tháng 6 năm 1954 Quốc Trưởng Bảo Đại đề cử ông Ngô Đình Diệm giữ chức Thủ Tướng Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam được toàn quyền hành động.

Ngày 7 tháng 7 1954, Thủ Tướng Ngô chính thức nhậm chức, ra mắt nội các tại Sàigòn. Trong nội các nầy Bác Sĩ Trần Văn Đỗ được Thủ Tướng Diệm cử sang Genève cầm đầu phái đoàn Quốc Gia Việt Nam thay thế Ngoại Trưởng Nguyễn Quốc Định. Nhưng khi Ngoại Trưởng Đỗ đến Genève thì sự đã rồi với đồng thuận của hai phái đoàn Pháp và Việt Minh do xếp đặt có tính quyết định của Liên Xô, Anh Quốc và nhất là Trung Cộng.

4.3- Cũng cần nhắc lại rằng vào Ngày 4 Tháng 6, 1954, Thủ Tướng Pháp đã ký Hiệp Ước tại Điện Matignon với Thủ Tướng Bảo Lộc của Quốc Gia Việt Nam công nhận Quốc Gia Việt Nam hoàn toàn độc lập trong khối Liên Hiệp Pháp. Theo tinh thần và nội dung của hiệp ước nầy, chính phủ Quốc gia Việt Nam sẽ tự chịu trách nhiệm đối với những hiệp định quốc tế được Chính Phủ Pháp thay mặt Việt Nam ký kết. Việt Nam cũng không bị ràng buộc bởi bất cứ hiệp ước nào do chính phủ Pháp ký sau này - Tức là Việt Nam hoàn toàn không bị ràng buộc bởi Hiệp Định Genève được ký vào ngày 20 Tháng 7 liền sau đó.

Từ căn bản của Hịệp Ước Matignon, Ngoại Trưởng Trần Văn Đỗ, trưởng đoàn đại diện Quốc gia Việt Nam tuyên bố sẽ không ký vào Hiệp định Genève với lý do hiệp định gây chia cắt Việt Nam và đẩy Quốc Gia Việt Nam vào tình thế nguy hiểm bất lợi.

4.4- Theo lệnh của Thủ Tướng Ngô Đình Diệm, Ngoại Trưởng Trần Văn Đỗ xác định chính sách không chấp thuận đối với bất cứ hình thức phân chia nào, và quyết tâm giữ gìn toàn vẹn lãnh thổ của Tổ Quốc Việt Nam qua thông cáo: "Việc ký hiệp định giữa Pháp và Việt Minh có những điều khoản gây nguy hại nặng nề cho tương lai chính trị của Quốc gia Việt Nam. Hiệp định đã nhường cho Việt Minh những vùng mà quân đội quốc gia còn đóng quân và tước mất của (Quốc Gia) Việt Nam quyền tổ chức phòng thủ. Bộ Tư Lệnh Pháp tại Đông Dương đã tự ấn định ngày tổ chức tuyển cử mà không có sự thỏa thuận với phái đoàn Quốc Gia Việt Nam...

Chính phủ Quốc Gia Việt Nam yêu cầu hội nghị ghi nhận một cách chính thức rằng: Việt Nam long trọng phản đối cách ký kết hiệp định cùng những điều khoản không tôn trọng nguyện vọng sâu xa của dân Việt. Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam yêu cầu hội nghị ghi nhận rằng: Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam tự dành cho mình quyền hoàn toàn tự do hành động để bảo vệ quyền thiêng liêng của dân tộc Việt Nam trong công cuộc thực hiện Thống Nhất, Độc Lập, và Tự Do cho xứ sở."

Từ năm 1961, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa phải liên tục tăng cường lực lượng nhằm đối phó với các hoạt động khủng bố của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam (thành lập cuối năm 1960 tại chiến khu Tây Ninh).

4.5- Tiếp theo, Ngày 22 Tháng 7, 1954 tại Sài Gòn, Thủ Tướng Ngô Đình Diệm ra tuyên cáo chính thức phản đối việc chia đôi đất nước Việt Nam. Tuy nhiên cuối cùng Sàigòn vẫn chấp nhận thi hành Hiệp Định Genève ký Ngày 20 Tháng 7 năm 1954. Như thế trên thực tế và công pháp quốc tế kể từ Tháng 7 Năm 1954, tại Bắc và Nam Việt Nam có hai chính phủ riêng biệt, theo hai chính thể riêng biệt, tức có hai nước Việt Nam riêng biệt. Dân chúng hai miền trong thời hạn 300 ngày được tự do di cư từ khu nầy sang khu thuộc phía bên kia không phe nào được quyền ngăn cấm hay dùng các biện pháp đe dọa, trừng phạt. Ngày 9 tháng 10 năm 1954 là hạn chót cho những người muốn di cư vào Nam di tản khỏi Hà Nội.
Ngày 10 tháng 10 năm 1954, quân đội Việt Minh vào tiếp thu Hà Nội, chủ tịch Uỷ Ban Quân Quản Hà Nội là Vương Thừa Vũ tức Nguyễn Văn Đồi người đã chỉ huy cuộc tấn công Hà Nội trong đêm 19 tháng 12 năm 1946 mở đầu cho cuộc chiến 9 năm vừa mới kết thúc. Hải Phòng sẽ được Việt Minh tiếp thu Ngày 13 Tháng 5 năm 1955 sau thời hạn 300 ngày dùng làm điểm tập trung đồng bào miền Bắc muốn di cư bằng tàu thủy vào miền Nam.

4.6- Số lượng người từ miền Bắc di cư vào miền Nam lên đến khoảng gần 900,000 người. Trong số nầy, nhân viên chính quyền gồm công chức và quân nhân chiếm một phần ít, còn đại đa số là dân chúng. Đây là đợt tỵ nạn cộng sản lớn lao đầu tiên trong lịch sử thế giới hiện đại cũng là đợt di dân nội địa lớn lao nhất trong lịch sử Việt Nam. Cuộc di cư làm tiền đề cho lần vượt thoát của hai triệu người Việt bỏ nước ra đi sau Ngày 30 tháng 4, 1975 - Hai mươi mốt năm sau Hiệp Định Genève 1954.
Khắp cùng nhân loại toàn cầu, ở đâu có một dân tộc tuẫn nạn bi thảm và hùng vĩ như Dân Tộc Việt Nam. Dân tộc phải gánh chịu liên tục suốt ba thập kỷ chiến tranh kể từ 1946 do họa cộng sản. Mối họa giờ nầy, 70 năm sau biến hình thêm họa xâm lược đến từ Bắc Kinh – Hiểm Họa Bắc Thuộc lần Thứ Năm nối tiếp bốn lần đô hộ của Trung Hoa hơn 1500 năm trước.

4.7- Tuy nhiên xét qua một khía cạnh khác cuộc di cư lại là một điều lợi cho Đảng Lao Động của miền Bắc tức là đảng cộng sản giả danh từ 1945, vì những thành phần chống cộng, đối lập, bất đồng chính kiến, những nhân vật theo các đảng phái quốc gia đều rút về miền Nam, nên không còn hay còn rất ít người ở lại miền Bắc có khả năng đối kháng với chế độ mới.
Kể từ khi thành hình từ 2 tháng 9, 1945 cho đến 1954, bộ máy tuyên truyền của tổ chức Việt Minh luôn ca tụng chế độ cộng sản và chê bai những chính quyền quốc gia, nhưng nay cuộc di cư vĩ đại có thể xem là lần trưng cầu dân ý để cho thấy số người miền Bắc đã chọn lựa vào miền Nam đông hơn gấp bội số người miền Nam ít ỏi vốn là cán bộ cộng sản buộc phải tập kết ra Bắc. Điều nầy thực chứng lòng dân Việt đã đánh giá như thế nào đối với chế độ cộng sản của Hồ Chí Minh.
Cũng như sau nầy, suốt cuộc chiến 1960-1975 hỏi thử có người dân miền Nam nào bỏ về ở vùng cộng sản kiểm soát. Sự kiện vượt biên sau 1975 là thực chứng trước Dân Tộc, Lịch Sử: Quốc Gia/Cộng Sàn Ai Thắng Ai? Sự chọn lựa năm 1954 giúp chính quyền Sàigòn vững tâm giữ nước an dân đồng thời tăng giá trị của chính thể Quốc Gia Việt Nam dẫu non trẻ trước cộng đồng thế giới.

4.8- Sau những thành công phấn khởi đáng tự hào trong giai đoạn 1955-1960, chế độ Đệ Nhất Cộng Hòa dần rơi vào những khuyết điểm trong công nghiệp dựng nước và giữ nước. Quá trình suy thoái chính trị có những nguyên nhân khách quan và chủ quan.

Trước tiên do nhu cầu tập trung quyền lực, người lãnh đạo Dinh Độc Lập và thân thuộc trong tộc Ngô Đình dần thâu giữ quyền hành về một mối qua diễn tiến o ép thành phần nhân sự trong những tổ chức đảng phái quốc gia như Đại Việt, Việt Nam Quốc Dân Đảng.. Đấy là những cá nhân và đoàn thể đã tạo nên hậu thuẫn chính trị có hiệu quả trong lần sắp xếp để Thủ Tướng Ngô Đình Diệm lên cầm quyền với cương vị tổng thống trong năm 1955.
Quá trình trình tập trung quyền lực nầy cũng đã gây va chạm bất mãn đối với những người thuộc giới quân sự mà trước đây đã là thành phần nòng cốt xây dựng nên sức mạnh vũ trang cho chế độ. Cuộc binh biến ngày 11 tháng 11 năm 1960 do lực lượng nhảy dù dưới quyền chỉ huy của Đại Tá Nguyễn Chánh Thi giữ nhiệm vụ xung kích, và tiếp theo lần dội bom Dinh Độc Lập của hai phi công Nguyễn Văn Cử , Phạm Phú Quốc vào tháng 2, 1962 là những báo hiệu sự sụp đổ của chế độ cộng hòa nếu như người lãnh đạo miền Nam không điều chỉnh sách lược trị nước.


Hơn thế nữa, tiếng súng nổ trước Thành Cộng Hòa và trái bom rơi xuống Dinh Độc Lập không chỉ là tín hiệu báo nguy đối với hệ thống cầm quyền Việt Nam Cộng Hòa mà còn là chỉ dấu lần lâm nạn oan nghiệt của toàn thể quê hương miền Nam. Cũng làm tan vỡ hy vọng đến từ Miền Nam cho lần giải phóng Miền Bắc khỏi chế độ cộng sản.

V-Âm Mưu Đến Từ Đâu?

5.1 - Nguyên nhân nảy sinh biến cố 1 tháng 11, 1963 có nhiều phía và từ nơi xa chứ không chỉ riêng ở Sài gòn, nơi Dinh Gia Long với Tổng Thống Ngô Đình Diệm, Cố Vấn Ngô Đình Nhu.

Trước tiên cần nói về phía cộng sản, cụ thể với bộ chính trị đảng cộng sản Hà Nội của Hồ Chí Minh. Dẫu Hà Nội có được lợi thế quân sự sau chiến thắng Điện Biên trả bằng giá máu của hàng vạn sinh linh bộ đội, dân công được điều động vào cuộc chiến 9 năm từ 1946, nhưng sự kiện của một triệu người di cư vào Miền Nam đã cho Sàigòn nhận được Lý Chính Nghĩa qua xác chứng của tấm lòng Người Dân về nỗi khao khát sống đời Tự Do.

Về số lượng người từ miền Nam tập kết ra Bắc, thì Việt Minh dự tính sẽ rút về Bắc khoảng 60,000 người trong đó 50,000 người là bộ đội và 10,000 người làm công tác chính trị nhất là những người đã lộ rõ mặt là cán bộ cộng sản không thể để ở lại miền Nam. Ngoài ra phía cộng sản cũng dự mưu lưu lại miền Nam từ 5,000 đến 10,000 cán bộ nằm vùng, sống lẩn lút trà trộn trong dân chúng cất dấu vũ khí để chờ thời cơ.

Sau khi củng cố miền Bắc, Đảng Lao Động tức đảng cộng sản giả danh từ tổ chức Hội Nghị Trung Ương lần thứ 15 vào Tháng 1 năm 1959 tại Hà Nội, tán thành nghị quyết khởi nghĩa vũ trang, mở đường xâm chiếm miền Nam bằng phương tiện quân sự. Đồng thời để đánh lừa dư luận thế giới và nhân dân hai miền, Hà Nội cho thành hình tổ chức chính trị vũ trang Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, công cụ ngụy trang cho lần xâm lược Miền Nam.

5.2- Mặt trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam được chính thức thành lập vào ngày 20 tháng 12 năm 1960 tại xã Tân Lập, huyện Châu Thành (nay là Huyện Tân Biên thuộc Tỉnh Tây Ninh), với thành phần chủ chốt là lực lượng Việt Minh cộng sản hoạt động bí mật ở miền Nam trước, sau năm 1954. Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận là Luật Sư Nguyễn Hữu Thọ và Phó Chủ Tịch là Bác Sĩ Phùng Văn Cung. Cũng như tiền thân Mặt Trận Việt Minh trong thập niên 40, mặt trận mới này được tổ chức thành nhiều cấp từ ủy ban trung ương đến các tổ chức ở cấp làng, xã với chủ nghĩa cộng sản hoàn toàn được che dấu không hề nhắc tới. Trong khi đó trong thực tế, Mặt Trận đặt dưới sự lãnh đạo thống nhất của Bộ Chính Trị Đảng Lao Động tức đảng cộng sản tại Hà Nội và Trung Ương Cục Miền Nam.

Với chiêu bài của Mặt Trận Giải Phóng, con đường xâm nhập lật đổ chế độ miền Nam đi từ Hà Nội được mở ra thông suốt cả hai mặt chính trị lẫn quân sự. Riêng hoạt động du kích từ đầu năm 63 lần đầu tiên tiến lên vận động chiến, điển hình với trận Ấp Bắc đánh thiệt hại một đơn vị cấp tiểu đoàn của Sư Đoàn 7 Bộ Binh có thiết vận xa yểm trợ.

5.3- Trận đánh bắt đầu đầu từ ngày 2 tháng 1, 1963 nơi ấp Tân Thới thuộc tỉnh Mỹ Tho được ký giả Halberstam ở Sài Gòn mô tả như một “Thất Bại Tệ Hại Nhất Từ Lúc Khởi Đầu” với thiệt hại đến “Ba (Cố Vấn) Mỹ bị giết ở Việt Nam” được đăng lên New York Times ấn bản miền Tây phổ biến trong vùng Hoa Thịnh Đốn, vào đến Phòng Tình Hình của Tòa Bạch Ốc. Trận đánh được Cố Vấn John Paul Vann quan sát từ trên trực thăng chỉ huy mô tả chẳng ra cái trò trống gì dẫu đã xử dụng một lực lượng quân số gấp 4 lần 350 du kích cộng sản, bắn 600 viên đạn pháo binh, có đến 13 phi cơ chiến đấu thả bom, bao gồm napalm yểm trợ; ngoài ra còn thả thêm một tiểu đoàn nhảy dù tăng cường được 5 trực thăng võ trang bắn đến 8,400 viên đạn và 100 hỏa tiễn tác xạ cận phòng..

Những chi tiết vừa kể do Cô Vấn Vann nêu một cách chính xác để đi đến kết luận: Sở dĩ tình hình chiến trận tồi tệ là do Thiếu Tướng Huỳnh Văn Cao, Tư Lệnh Vùng 4; Đại Tá Bùi Đình Đạm, tư lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh; Trung Tá Lâm Quang Thơ, tỉnh trưởng Mỹ Tho không nghe lời chỉ dạy của Trung Tá Cố Vấn John Paul Vann. Hai ký giả Halberstam và Arrnett từ Sài gòn xuống Mỹ Tho theo lời mời của Vann làm mạnh thêm nhận định: Phải thay đổi chính sách đối với Việt Nam!

Toà Bạch ốc rúng động với Tướng Maxwell Taylor vừa nhậm chức Tham Mưu Trưởng Liên Quân; và Đô Đốc Felt, tư lệnh Lực Lượng Mỹ vùng Thái Bình Dương được lệnh Tổng thống Kennedy đến Sài Gòn gặp Tướng Harkins, tư lệnh quân lực Mỹ tại Việt Nam để duyệt xét lại tình hình hiện thực ý niệm thay thế tổng thống nhà Ngô Đình.

5.4– Nhưng trận Ấp Bắc chỉ là một cái cớ, quan điểm thay đổi của chính phủ Mỹ về Việt Nam có nguyên nhân chính trị xa hơn. Đấy là do chính quyền Kennedy đã ký thỏa ước Trung Lập Lào, 1962 chính thức mở đường cho cộng sản miền Bắc xâm nhập vào Nam. Hiệp ước mà Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã quyết liệt phản đối vì từ đó hệ thống đường liên lạc Bắc-Nam gọi là “đường mòn Hồ Chí Minh” đã mặc nhiên được hợp thức hóa trở thành một xa lộ thuận tiện để Hà Nội chuyển người và vũ khí với số lượng vào chiến trường miền Nam. Tác giả của bản thỏa ước là Averell Harriman, Đại Sứ Lưu Động do Tổng Thống Kennedy đề cử “với lòng tin cậy toàn diện vì sự hiểu biết tường tận mọi khía cạnh của chính sách nước Mỹ”.

Harriman đã đánh giá bản thỏa ước về Lào là một thành quả ngoại giao quan trọng của ông đối với Liên xô cho dù hiểu rõ hơn ai hết bản thỏa ước là đâm một nhát dao chí mạng vào cạnh sườn chiến lược của Miền Nam. Sự chống đối của Tổng Thống Diệm đã biến người lãnh đạo miền Nam thành một kẻ thù chính trị cần triệt hạ của Harriman.

5.5- Đại Sứ Harriman không những đem lòng thù oán với Tổng Thống Diệm, mà con người được đánh giá là một thành viên cột trụ của nhóm ”Wise Group-Mưu Sĩ” từng giữ vai trò hàng đầu trong bốn chính quyền Mỹ, bắt đầu với nhiệm vụ Đặc Phái Viên của Tổng Thống Franklin D. Roosevelt tại Châu Âu; đại sứ tại Liên Xô, và Anh trong những năm 1946-1948 dưới thời Tổng Thống Truman. Con người khôn ngoan mưu thuật nầy đến thời Tổng Thống Kennedy đã lộ ra ý hướng quyết định vận mệnh Việt Nam không cần ý kiến của Tổng Thống hoặc tối Cao Pháp Viện Mỹ.

Mưu định hạ thủ Tổng thống diệm qua binh biến 1/11/1960 thành hình và điều động từ Mỹ với Harriman cùng nhóm tham mưu thuộc quyền chứ không phải là ai khác.

5.6- Đại Tá Thủy Quân Lục Chiến Colonel William Corson xác nhận vụ việc năm 1963 về Việt Nam là do chính một tay Harriman điều động mà không cần hỏi ý kiến tổng thống hay chánh án tối cao pháp viện Hoa Kỳ. Đại Tá Corson cho biết: Thư ký riêng của Tổng Thống Kennedy là Kenny O'Donnell xác nhận, Cố Vấn Hội Đồng An Ninh Quốc Gia McGeorgeBundy đã thi hành những mệnh lệnh từ Harriman hơn là của tổng thống Mỹ.

Bí thư O'Donnell còn cho biết thêm về Michael Forrestal, một nhân viên tham mưu trẻ tuổi của Tòa Bạch Ốc là người nắm giữ những liên hệ đặc biệt về Việt Nam cho Harriman. Tóm lại, chính Harriman là người chủ trương lật đổ Tổng Thống Diệm trong năm 1963 chứ không thể ai khác. Tuy nhiên lại có dư luận cho rằng lệnh thảm sát Tổng Thống Diệm và người em nguyên ủy do Harriman chủ trương, nhưng được phụ tá quân sự của Đại sứ Henry Cabot Lodge thực hiện. Đấy là Đại Tá John Michael Dunn sĩ quan phụ trách Công Tác Đặc Biệt, được gởi đến Việt Nam một cách không che dấu trong giai đoạn hỗn loạn 1963.

Cũng cần nói thêm, Đại Tá Dunn nhận lệnh từ Harriman và Forrestal hơn là của văn phòng CIA. Và Câu hỏi cốt yếu về vụ thảm sát là lệnh thâu hồi bất ngờ và bất thường cho viên Chỉ Huy Nhiệm Sở (CIA) Sài Gòn John “Jocko”Richardson đã có từ một thẩm quyền vô danh nào? Và đây là lệnh đã bật đèn xanh cho Dunn toàn quyền hành động.

Bức ảnh đề ngày 15 tháng 11 năm 1963, tức khoảng hai tuần sau sự kiện đảo chính 1 tháng 11

5.7- Chúng ta vừa lượt qua phần toàn cục và những nhân vật chính trong lần thảm sát người lãnh đạo của Miền Nam, và sau đây là màn chót kết thúc tấm bi kịch. Vào lúc 10 sáng ngày 1 tháng 11, 1963, Đại Sứ Lodge, Tướng Harkins, Đô Đốc Felt được mời đến Dinh Gia Long thăm viếng xã giao Tổng Thống Diệm, cuộc viếng thăm có Tướng Trần Văn Đôn tham dự. Tướng Đôn là một nhân sự quan trọng của cuộc đảo chánh đang sắp sửa xảy ra. Cuộc viếng thăm do Đôn với tư cách quyền Bộ Trưởng Quốc Phòng sắp xếp lẽ tất nhiên có sự đồng thuận của Tòa Đại sứ Mỹ rõ ràng là để ông Diệm bận rộn không có thì giờ lưu tâm cuộc chuyển quân.

Trước khi Đô Đốc Felt và Tướng Harkins ra về, Tổng Thống Diệm giữ Đại Sứ Lodge lại để nói riêng những lời xác thực với tình hình: “Tôi biết đang có dự mưu đảo chánh, nhưng tôi không biết ai đang tiến hành âm mưu đó..” Đại Sứ giả tảng đáp lại: “Tôi không nghĩ có điều gì phải quan tâm!” Tổng Thống Diệm yêu cầu Đại Sứ Lodge báo cáo chính thức về Hoa Thịnh Đốn là ông từ chối về việc để ông Nhu ra đi. Ông nói rõ: “Nhờ ông nói với Tổng Thống Kennedy rằng: Ông là một đồng minh tốt và thẳng thắng; ông muốn giải quyết những vấn đề một cách thẳng thắng hơn là để bị mất hết rồi mới nói. Ông ghi nhận những điều tổng thống Mỹ yêu cầu một cách nghiêm túc và mong muốn thực hiện nhưng còn lại vấn đề thời gian.”

Đại sứ Lodge đối lại với cách của một người đánh bài xì phé. Cuối cùng ông chuyển báo cáo cuộc nói chuyện về Hoa Thịnh Đốn theo đường thông tin thông thường trong khi lực lượng đảo chánh đã vào các vị trí.

5.8- Sau khi tiễn Đô Đốc Felt lên máy bay, Tướng Đôn trở lại Bộ Tổng Tham Mưu với Dương Văn Minh, Trần Thiện Khiêm và cuộc binh biến chính thức khai diễn vào lúc 1:30 trưa Ngày 1 Tháng 11, 1963. Phe đảo chánh cô lập người trung thành nhất với Tổng Thống Diệm, đấy là Tướng Huỳnh Văn Cao, tư lệnh vùng 4, vùng đồng bằng Sông Cửu Long. Riêng Tướng Tôn thất Đính, Tư lệnh Biệt Khu Thủ Đô kiêm Vùng 3 Chiến Thuật bao quanh Sài Gòn thoạt đầu không chịu theo phe đảo chánh, nhưng sau khi được Đại Tá Đỗ Mậu khuyến dụ, cuối cùng Tướng Đính thuận góp phần quyết định với lực lượng đảo chánh.

Trong cùng lúc, theo một mưu định do Cố Vấn Nhu xếp đặt, Tướng Đính cùng Đại Tá Lê Quang Tung, chỉ huy trưởng Lực Lượng Đặc Biệt sẽ tổ chức một cuộc “đảo chánh giả” với mục đích sẽ lảm lộ mặt những thành phần chống đối chế độ. Tương kế tựu kế, Tướng Đính nhận Sư Đoàn 7 Bộ Binh thuộc Vùng 4 của Tướng Cao sang Vùng 3 đặc dưới quyền của Đại Tá Nguyễn Hữu Có, một thành viên cốt cán của phe đảo chánh. Lệnh chuyển vùng của Sư Đoàn 7 được Tham Mưu Trưởng Liên Quân, Thiếu Tướng Trần Thiện Khiêm điều động theo hệ chỉ huy thống quân sự để không một ai nghi ngờ.

Phe đảo chánh còn có một lực lượng xung kích hữu hiệu khác là Sư Đoàn 5 Bộ Binh của Đại Tá Nguyễn Văn Thiệu đóng ở Biên Hòa. Sư đoàn nầy được điều động về Sài Gòn theo kế hoạch “đảo chánh giả”của Ông Nhu do Tướng Đính thực hiện, điều động bởi Tướng Khiêm. Tóm lại cả hai kế hoạch đảo chánh giả và đảo chánh thật đồng do một cá nhân đạo diễn và thi hành: Thiếu Tướng Tham Mưu Trưởng Liên Quân Trần Thiện Khiêm, có Trung tá tình báo Mỹ Lucien Conein ngồi đằng sau văn phòng tướng Khiêm theo dõi. Ai ra lệnh trực tiếp cho Thiếu Tướng Trần Thiện Khiêm đến nay vẫn là một ẩn số chưa hề được giải mật. Không hề được giải mật.

5.9- Đảo chính nổ ra lúc 1:30 trưa; đến 4:30 TT Diệm gọi Đại Sứ Lodge, đối thoại bằng tiếng Pháp: “Một vài đơn vị đang nổi loạn và tôi cần biết thái độ của nước Mỹ?” Đại Sứ Lodge nói trớ cũng bằng tiếng Pháp: “Tôi chưa có đủ thông tin để có thể nói cùng ngài. Tôi nghe tiếng súng nổ nhưng không biết sự kiện như thể nào. Tôi không thể có được một ý kiến nào của chính phủ tôi vì bây giờ là 4: 30 sáng ở Hoa Thịnh Đốn.” Tổng Thống Diệm hỏi gặng: “Nhưng ông cũng phải có ý kiến nào chứ” Ông Diệm kết luận: “Thế nào đi nữa tôi vẫn là một Nguyên Thủ Quốc Gia.. Tôi tin vào nhiệm vụ trên tất cả”. Đại sứ Lodge chuyển giọng nhân nghĩa nhưng thực chất là để thăm dò phản ứng của Tổng Thống Diệm: “Hiện tại tôi rất lo lắng cho sự an toàn sinh mạng của ngài.. Tôi có được một báo cáo về những người đang tiến hành vụ việc (đảo chánh) nầy là họ đã đề nghị một giải pháp an toàn đưa ngài và người em ra khỏi nước nếu như ngài từ chức. Ngài có nghe về đề nghị nầy không?”

Không!” Tổng Thống Diệm chấm dứt. Cuộc đối thoại đã lộ rõ quyết định của chính phủ Mỹ qua lời nói và việc làm của Đại Sứ Lodge: Thanh toán người lãnh đạo Việt Nam Cộng Hòa chứ không thể có giải pháp nào khác.

5.7- Quyết định thanh toán Tổng Thống Ngô Đình Diệm, cố vấn Ngô Đình Nhu đựợc chứng thực cụ thể hơn nữa qua lời từ chối khéo của Đại Sứ Lodge trong sáng Ngày 2 về đề nghị của Tổng Thống Diệm thuận ra khỏi nước sau khi đồng ý từ chức. Nhưng bấy giờ Đại sứ Lodge đã nại cớ: Muốn có một chiếc máy bay để đưa anh em ông Diệm ra đi phải được chuẩn bị từ 24 tiếng. Trong khi Đại sứ Lodge đã SẴN CÓ MỘT CHIẾC MÁY BAY TỪ BA NGÀY TRƯỚC. Chiếc máy bay có sẵn nầy là để dự phòng nếu cuộc đảo chính không thành thì Đại Sứ Mỹ sẽ ép anh em ông Diệm phải rời khỏi nước. Chiếc máy bay dự phòng nầy cũng nhận sẵn chỉ thị PHẢI ĐƯA HAI ÔNG DIỆM, NHU RA XA VÙNG ĐÔNG NAM Á, KHÔNG ĐƯỢC NGỪNG LẠI TẠI NHỮNG NƯỚC GẦN VIỆT NAM ĐỂ ĐỀ PHÒNG ANH EM ÔNG DIỆM LẬP CHÍNH PHỦ LƯU VONG, VÀ SẼ TRỞ LẠI NẮM QUYỀN NHƯ MỘT ĐIỀU ĐƯƠNG NHIÊN.

5.8- Vụ việc liên quan về chiếc phi cơ dự trù đưa hai ông Diệm, Nhu ra khỏi nước như vừa nêu ra cũng đã là điều dư thừa bởi khi Sài Gòn vang tiếng súng trong ngày 1 và 2 thì nơi Tòa Bạch Cung, ở Mỹ, Mac Bundy , Forrestal, Hilsman suốt đêm qua đường điện thoại viễn liên thúc dục tòa đại sứ ở Sài Gòn hãy bảo các tướng đảo chánh nhấn mạnh về việc ông Nhu có ý đồ móc nối với cộng sản phản bội ý hướng chống cộng! Và cần thiết thì san bằng Dinh Gia Long như cảnh tận diệt cũng không sao.

Thái độ và hảnh động của Bộ Ngoại Giao, chính phủ Mỹ được Tướng Harkins ở Sài gòn đánh giá trong điện văn gởi về cố vấn tổng thống Mỹ, Tướng Maxewll Taylor là: Chúng ta không còn là một chế độ cộng hòa! Và không ai khác hơn chính Đại Sứ Lodge là người đã đặt câu hỏi với Đại Tá Dunn, phụ tá quân sự của ông: “Chúng ta sẽ phải đối xử với họ như thế nào nếu như hai người còn sống?!” Thế nên, trước hai thân thể bị hành hình man rợ, đáp lại câu hỏi của tướng Trần Văn Đôn: Tại sao họ chết? Thì câu trả lời ngang ngược của Tướng Dương Văn Minh: Chết thì đã làm sao? quả là câu trả lời đương nhiên.

5.9- Cuối cùng, sự kiện Ngày 1 Tháng 11, 1963 nơi Sài Gòn với cái chết của Tổng Thống Ngô Đình Diệm và cố vấn Ngô Đình Nhu thật ra đã thành sự từ Hoa Thịnh Đốn với đích thân Tổng thống Kennedy chứ không ai khác.

Sau khi ở Sài Gòn về, ngày 2 tháng 10, Bộ Trưởng Quốc Phòng McNamara và Tướng Maxwell Taylor đệ trình lên tổng thống Mỹ bản phúc trình với ý chính không đồng ý kế hoạch đảo chánh do CIA/Bộ Ngoại Giao/Đại Sứ Lodge đang tiến hành. Tuy nhiên bản báo cáo cũng nêu lên quan điểm: Phải chuẩn bị một một nhóm lãnh đạo mới để dự phòng.

Trong lần gặp Tổng Thống Mỹ, tướng Maxwell Taylor nói rõ hơn: Ông không đặt vấn đề thay ông Diệm hay không? Nhưng vấn đề là: Lấy ai là người thay thế? Sau buổi họp, Tổng Thống Kennedy cho gọi Đại Tá Lansdale, người đã giúp ông Diệm lên nắm quyền trong năm 1954 đến và trực tiếp bàn kế hoạch phế bỏ Tổng Thống Diệm. Tuy nhiên, Đại Tá Lansdale đã chối từ thẳng thừng: Không được. Thưa Tổng Thống. Tôi không thể làm chuyện ấy. Ông Diệm là bạn của tôi.

Cái chết thê thảm của Tổng Thống Ngô Đình Diệm cùng bào đệ Ngô Đình Nhu là cú sốc lớn đối với gia đình và cả những người miền Bắc di cư (thành phần xã hội ủng hộ mạnh mẽ cho quyền lực của Ngô Tổng thống). Một năm sau đó (1964), bào đệ Ngô Đình Cẩn cũng bị điệu ra pháp trường xử bắn.

Khi Đại Tá Lansdale từ chối, lẽ tất nhiên Tổng Thống Kennedy phải chọn một người khác. Sự việc nầy cũng là một ẩn số với cái chết của Tổng Thống Kennedy hai mươi ngày sau, 22 Tháng 11, 1963 tại Dallas. Ai giết? Ai giết Ai? Lịch sử Việt Nam, nước Mỹ trong thời hiện đại trong đầy rẫy ẩn số những cái chết không hề được giải thích.

Kết Luận

Biến cố Phật Giáo tại Huế xẩy ra ngày 8 Tháng 5, 1963 với 9 nạn nhân đã là tiền đề khởi động biến cố 1 Tháng 11 tại Sài Gòn. Diễn tiến lên đến cao điểm của hai phía. Về phía Phật Giáo khi Hòa Thượng Thích Quảng Đức tự thiêu trong ngày 11 tháng 6; và phía chính quyền là Lệnh Thiết Quân Luật công bố nửa đêm ngày 20 Tháng 8 để rồi ra lệnh tấn công các chùa trên toàn quốc với Lực Lượng Đặc Biệt của Đại Tá Lê Quang Tung. Nhưng cả hai mặt của vấn đề “Phật Giáo Việt Nam bị đàn áp, kỳ thị ” KHÔNG PHẢI LÀ VẤN ĐỀ CẦN QUAN TÂM CỦA CHÍNH PHỦ MỸ”. Vấn đề của Mỹ là: Làm sao để thắng cộng sản tại Nam Việt Nam? Nếu thay Tổng Thống Diệm thì ai là người lãnh đạo Miền Nam đề thắng cộng sản theo kế sách của Mỹ?

Tất cả những điều chính yếu nầy thể hiện trong Công Điện mang bí số 243 gời Ngày 24 Tháng 8 từ văn phòng Bộ Ngoại Giao Mỹ đến đại sứ Logde ở Sài Gòn. Công điện do Xử Lý Thường Vụ Ngoại Trưởng George Ball soạn thảo. Bức công điện khai tử người lãnh đạo nền Đệ Nhất Cộng Hòa khi tổng thống, bộ trưởng quốc phòng, bộ trưởng ngoại giao, giám đốc CIA đều vắng mặt tại Hoa Thịnh Đốn.

Công Điện 243 có nội dung: “Hoa Thịnh Đốn không thể tha thứ cho ông Nhu giữ vị thế quyền lực và lệnh cho Đại Sứ Logde phải áp lực với ông Diệm cắt bỏ người em của ông. Công điện nhấn mạnh nếu ông Diệm từ chối thì người Mỹ sẽ khai triển khả năng thay thế thành phần lãnh đạo chuyển tiếp tại Nam Việt Nam”.

Cụ thể, Điện Văn 243 cho phép Đại Sứ Logde toàn quyền bật đèn xanh để nhóm tướng lãnh VNCH tiến hành cuộc đảo chánh lật đổ Tổng Thống Diệm. Sử gia John W. Newman đánh giá đây là một điện văn cực độ mâu thuẫn trong suốt chiến tranh Việt Nam. Tội nặng nhất mà ông Nhu bị Mỹ cáo buộc là mưu định nói chuyện với miền Bắc qua trung gian Đại Sứ Maneli, Trưởng đoàn Ba Lan trong Ủy Hội Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến.

Thực hư sự việc nầy như thế nào đến giờ nầy cũng không mấy ai rõ vì những người trong cuộc đã không còn và cuộc tiếp xúc dự định cũng không có kết quả cụ thể. Duy chỉ có một điều, thành tích lớn nhất mà cố vấn Hội Đồng An Ninh Quốc Gia, Ngoại Trưởng Hoa Kỳ Kissinger đạt được là quá trình mật đàm với cộng sản Hà Nội để có Hiệp Định Tái Lập Hòa Bình tại Việt Nam ký ngày 27 tháng 1, 1973 tại Paris. Bản Hiệp Định bị Hà Nội xé bỏ vào ngày 30 Tháng 4, 1975 tại Sài Gòn.

Cũng cần nói thêm, Xử Lý Thường Vụ Bộ Ngoại Giao George Ball, Cố Vấn Hội Đồng An Ninh Quốc Gia McGeorge Bundy, các phụ tá, Forrestal, Hilsman.. tất cả đồng thuộc về phe cánh của Averell Harriman. Đây là người được xưng tụng thuộc “Nhóm Mưu Sĩ của Nước Mỹ”, là tác giả Hiệp Định Trung Lập Lào 1962. Bản Hiệp Định mà Tồng Thống Ngô Đình Diệm cực lục phản đối.

Và cuối cùng, lịch sử từ 1963 đã thực sự xác chứng: Nếu Tổng Thống Ngô Đình Diệm, Tổng Thống Kennedy vẫn giữ quyền lãnh đạo thì chắc chắn chiến tranh Việt đã phải đi vào một tình thế khác – Không phải tình thế của Ngày 30 Tháng 4, 1975 – Nước Mỹ thấm nhục cuốn cờ tháo chạy sau lần 58,000 chiến binh Mỹ hy sinh, và Việt Nam Cộng Hòa sụp đổ.

Hóa ra, cá nhân, gia đình thân tộc họ Ngô Đình/Phật Giáo Việt Nam/Người Miền Nam/Người Lính VNCH tất cả đồng chịu Một Lần Đau – Lần Nước Mất Nhà Tan.

Người Lính VNCH/Công Dân Mỹ Gốc Việt
Phan Nhật Nam
1/11/1963-1/11/2015
(Sàigòn/VN – CA/US) 









No comments:

Post a Comment