Lãng phí tài nguyên con người – hậu
quả lớn không thua gì nạn tham nhũng!
Thứ
Sáu, 11/29/2024 - 18:13 — songchi
https://www.rfavietnam.com/node/8230
Mỗi
quốc gia có 2 tài nguyên lớn nhất là thiên nhiên và con người. Nếu phung phí hoặc
không biết cách “bồi đắp” hai tài nguyên này thì sẽ khó mà phát triển thành một
quốc gia giàu mạnh.
Nhìn
lại Việt Nam 80 năm qua dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản ở miền Bắc và gần 50
năm trên toàn quốc, chúng ta thấy rõ đảng cộng sản đã phung phí cả hai nguồn
tài nguyên thiên nhiên và con người như thế nào.
Nói
về tài nguyên thiên nhiên, Việt Nam có đủ cả rừng vàng biển bạc, nhiều loại
khoáng sản dồi dào nhưng sau bao nhiêu năm khai tác vô tội vạ thì đã cạn kiệt,
rừng thì bị tàn phá với tốc độ kinh hoàng, biển thì vừa bị ô nhiễm vừa bị “thu
hẹp” lại vì sự hung hăng bành trướng của Trung Cộng trên biển Đông!
Nhưng
quan trọng hơn nữa là cái vốn quý về Con Người!
Hàng
ngàn, hàng vạn con người có kiến thức, tài năng bị mất đi bao nhiêu năm của cuộc
đời trong lao tù.
Trước
chuyến đi đầu tiên của Tô Lâm đến Hoa Kỳ trên cương vị Chủ tịch nước, Tổng Bí
thư Đảng Cộng sản Việt Nam lúc bấy giờ vào cuối tháng 9/2024, có hai tù nhân nổi
tiếng là Trần Huỳnh Duy Thức và Hoàng Thị Minh Hồng đã được nhà nước cộng sản
Việt Nam trả tự do như “món quà” để tạo thiện cảm đối với chính phủ Hoa Kỳ.
Trước
khi phải vào tù, ông Thức là một kỹ sư, doanh nhân thành công, cựu tổng giám đốc
của Công ty Dịch vụ điện thoại Internet OCI, một công ty từng được Việt Nam và
thế giới đánh giá cao vì những thành tựu trong lĩnh vực viễn thông – di động.
Ông bị bắt, sau đó bị đưa ra xét xử vào ngày 20/1/2010 và bị kết án 16 năm tù với
tội danh "hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân". Ông Thức đã ở
tù 15 năm 4 tháng và được trả tự do sớm 8 tháng.
Bà
Hoàng Thị Minh Hồng là một nhà hoạt động môi trường. Năm 2019, tạp chí Forbes
đã bình chọn bà là một trong 50 phụ nữ có tầm ảnh hưởng nhất tại Việt Nam. Bà
là người Việt Nam đầu tiên đặt chân lên Nam Cực vào năm 1997 và cũng là người
Việt đầu tiên giành được học bổng của Quỹ Obama tại Đại học Columbia năm
2018-2019. Bà đã sáng lập một tổ chức phi lợi nhuận có tên gọi Change nhằm nâng
cao nhận thức và truyền cảm hứng cho cộng đồng bảo vệ thiên nhiên môi trường, động
vật hoang dã, chống biến đổi khí hậu, thúc đẩy phát triển bền vững. Thế nhưng,
vào cuối tháng 5/2023 bà bị bắt và bị kết án tù 3 năm về tội “trốn thuế” vào cuối
tháng 9 cùng năm. Bà được ra tù sớm 20 tháng.
Trước
và sau bà Hoàng Thị Minh Hồng, hàng loạt các nhà hoạt động môi trường nổi bật
như Ngụy Thị Khanh, Đặng Đình Bách, Mai Phan Lợi và Bạch Hùng Dương đều bị bắt
và bị bỏ tù vì tội danh “trốn thuế” với những cáo buộc hết sức mơ hồ, Bộ Ngoại
giao Hoa Kỳ cũng như các tổ chức nhân quyển quốc tế đã lên tiếng chỉ trích, lên
án rằng nguyên nhân thực sự của việc các nhà hoạt động này bị bắt là có "động
cơ chính trị". Họ bị kết án từ 21 tháng tù cho tới 5 năm, trong đó ông Đặng
Đình Bách, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu pháp luật và chính sách phát triển bền
vững (LPSD) là người duy nhất không nhận tội, nên bị tuyên án nặng nhất--5 năm
tù giam.
Một
người khác, bà Ngô Thị Tố Nhiên, cựu Giám đốc điều hành của Sáng kiến Chuyển đổi
Năng lượng Việt Nam (VIETSE) đã bị kết án 3 năm 6 tháng tù giam vào ngày
27/6/2024 với cáo buộc tội “Chiếm đoạt, mua bán, tiêu hủy con dấu, tài liệu của
cơ quan, tổ chức” theo Điều 342 BLHS.
Sau
những vụ bắt giữ, kết án hàng loạt các nhà hoạt động môi trường này thì rõ ràng
là không ai dám tiếp tục hoạt động nữa!
Trở
lại với câu chuyện của ông Trần Huỳnh Duy Thức, bà Hoàng Thị Minh Hồng, không
chỉ bị mất đi những năm tháng trong tù mà lẽ ra họ có thể tiếp tục học tập, làm
việc, cống hiến cho xã hội, họ còn phải từ bỏ luôn công việc, công ty của họ phải
đóng cửa.
Ông
Trần Huỳnh Duy Thức, bà Hoàng Thị Minh Hồng chỉ là hai trong số hàng ngàn hàng
vạn tù nhân lương tâm, tù nhân chính trị đã bị nhà nước cộng sản Việt Nam kết
án tù trong suốt gần 80 năm cầm quyền ở miền Bắc và gần 50 năm cầm quyền trên
toàn quốc.
Chỉ
cần so sánh giữa hai miền Nam-Bắc trước ngày 30/4/1975 để thấy chế độ độc tài cộng
sản đã kìm hãm, bóp nghẹt tài năng con người ra sao trong mọi lĩnh vực từ kinh
tế, giáo dục, văn hóa nghệ thuật và ngược lại, một chế độ tự do sẽ tạo điều kiện
cho con người thăng hoa, cất cánh ra sao.
Sau
ngày 30/4/1975 đảng cộng sản tiếp tục áp dụng mô hình, đường lối lãnh đạo độc
tài hà khắc trên toàn quốc.
Thời
gian đầu, khi cuộc chiến tranh vừa chấm dứt, người miền Nam đã hy vọng rằng một
trang sử đau thương, hận thù máu lửa sẽ được khép lại, chế độ mới sẽ biết nghĩ
đến tương lai chung của đất nước, dân tộc Việt Nam mà đối xử đàng hoàng với bên
thua cuộc, khép lại quá khứ, cùng nhau xây dựng đất nước. Nhưng không, hàng
trăm ngàn dân quân cán chính của chế độ VNCH đã bị tống vào tù không xét xử,
giam giữ không thời hạn dưới danh xưng mỹ miều là đi “học tập cải tạo”. Hàng
trăm ngàn viên chức hàng đầu, trí thức, văn nghệ sĩ, linh mục, hòa thượng…có kiến
thức, có tài đã bị đày đọa một cách uổng phí hàng chục năm, và nhiều người đã
qua đời vì không chịu nổi điều kiện tù đày khắc nghiệt cùng những đòn thù dã
man. Và nếu họ có ra tù sau hàng chục năm thì cũng đã kiệt quệ cả về thể xác lẫn
tinh thần, rất ít người trong số họ có thể giành lại những năm tháng đã mất bằng
những thành công rực rỡ.
Tiếp
theo sau thế hệ những người có dính líu đến chế độ VNCH là những người bất đồng
chính kiến sinh ra và lớn lên trong lòng chế độ cộng sản, nối tiếp nhau vào tù
chỉ vì đã bày tỏ quan điểm, chính kiến một cách ôn hòa. Họ là những thành phần
khác nhau trong xã hội từ nông dân, dân oan cho tới nhà báo, nhà văn, luật sư,
kỹ sư, doanh nhân, nhà hoạt động môi trường…Và không chỉ bị tù, sự nghiệp của họ
cũng kết thúc, thay vì có thể đóng góp cho xã hội bằng năng lực, trí tuệ, tâm
huyết của mình.
“Chảy
máu chất xám”: người Việt không ngừng bỏ nước ra đi
Đầu
tiên là những người miền Nam, bên thua cuộc, phải bỏ nước ra đi tỵ nạn chính trị
vì không thể sống nổi dưới chế độ mới với những chính sách trả thù, phân biệt đối
xử hết sức hẹp hòi; dẫn đến thảm cảnh “thuyền nhân” rung động lương tâm thế giới,
kéo dài suốt mười mấy năm trời.
Rồi
đến những người miền Nam ra đi vì lý do kinh tế, khi những chính sách duy ý
chí, sai lầm của nhà nước cộng sản đã tàn phá nền kinh tế thị trường tự do đang
làm ăn phát đạt của miền Nam thành một nền kinh tế quốc doanh bao cấp kém hiệu
quả như miền Bắc trước tháng 4/1975, đẩy cả nước đến bờ vực chết đói.
Rồi
đến những người dân cả nước ra đi, vì đủ mọi lý do: vì kinh tế, vì muốn có
tương lai tốt đẹp hơn cho con cái (tỵ nạn giáo dục)…Đi bằng đủ mọi cách, mọi
giá: đi lao động xuất khẩu rồi trốn ở lại, đi du học rồi ở lại, lập gia đình
(thật và giả), hay đơn giản chỉ đi làm thuê, làm mướn ở xứ người. Việt Nam có
thêm “thùng nhân”, “bộ nhân”, và cả “rào nhân” (vượt hàng rào Mexico-Mỹ) – những
từ ghép không đúng văn phạm nhẳm lột tả những phương thức khác nhau khi tìm đường
ra đi của người Việt.
Rồi
đến những tù nhân lương tâm, tù nhân chính trị, nạn nhân tôn giáo, hoặc phải tự
nguyện lưu vong, hoặc bị nhà nước trục xuất, cho ra tù sớm, như những món quà
trao đổi với phương Tây; hoặc bị đàn áp phải trốn qua Campuchia, Thái Lan…Trong
số hàng ngàn người Việt tỵ nạn chính trị tại Thái Lan chờ được định cư ở nước
thứ ba thì cộng đồng các sắc dân bản địa như Êđê, Gia-rai, H’mông, Khơ-me…ra đi
vì lý do đàn áp tôn giáo chiếm đa số.
Rồi
đến cả những người giàu, thành đạt, con ông cháu cha, cả quan chức cộng sản Việt
Nam cũng tìm đường ra đi hoặc “hạ cánh an toàn” sau khi về hưu, bằng cách du học,
mở cơ sở kinh doanh, mua quốc tịch…Cũng lại muôn ngàn cách khác nhau để được định
cư ở các nước dân chủ thịnh vượng.
Và
bây giờ đến cả người tu hành theo lối riêng cũng phải ra đi để được tiếp tục
tu! Gần đây trên mạng bỗng có thông tin sư Minh Tuệ muốn được đi khất thực bằng
đường bộ từ Việt Nam xuyên qua Lào, Thái Lan, Miến Điện, Bangladesh để đển đất
Phật Ấn Độ. Không ít người cho rằng đi như vậy có thể nhiều rủi ro, bất trắc,
nhưng rõ ràng cũng chỉ có cách đó thì sư Minh Tuệ mới có thể tiếp tục con đường
tu tập theo hạnh đầu đà mà không bị nhà cầm quyền nhân danh bảo vệ trật tự trị
an để “giam lỏng” như hiện nay.
“Chảy
máu chất xám” là một trong những vấn đề lớn của Việt Nam. Sau gần 50 năm, cộng
đồng người Việt ở nước ngoài ngày càng nhiều, và có mặt hầu như khắp mọi nơi
trên thế giới. Tại những quốc gia dân chủ cường thịnh như Hoa Kỳ, các nước Tây
Âu, Canada, Úc…cộng đồng người Việt không chỉ thành công trong lĩnh vực làm ăn
kinh doanh mà từ thế hệ thứ hai trở đi nhiều người đã trở thành luật sư, bác
sĩ, khoa học gia, hoặc tham gia vào quân đội đến cấp tá, tướng, tham gia vào
chính trường như cộng đồng người Việt ở Mỹ. Đó là nguồn lực vô cùng quý giá mà
nhà nước Việt Nam đã để cho thất thoát đi.
Lãng
phí nguồn lực con người do hậu quả của giáo dục, các chính sách dùng người, và
nhiều lý do khác
Không
chỉ thể chế chính trị hà khắc kìm hãm con người mà mà nền giáo dục ngu dân dưới
mái trường XHCN cũng đã làm hỏng hàng thế hệ về nhiều khía cạnh. Một nền giáo dục
“vâng, dạ”, “đọc, chép”, không khuyến khích tư duy độc lập, khả năng tranh luận,
phản biện. Một nền giáo dục nặng về lý thuyết, nhồi sọ, nhiều kiến thức vô bổ
mà thiếu thực hành. Một nền giáo dục chạy theo thành tích, coi trọng điểm số,
coi trọng bằng cấp hơn năng lực thực sự của học sinh, sinh viên. Một nền giáo dục
không lấy Con Người – là học sinh làm trung tâm, không có một triết lý lành mạnh
v.v…Giáo dục tồi tệ không thể cho ra những “sản phẩm” đáp ứng được các nhu cầu
của xã hội và của thời đại.
Rất
nhiều sinh viên Việt Nam sau khi tốt nghiệp đại học, thậm chí sau đại học,
nhưng khi đi phỏng vấn tại các công ty nước ngoài không đáp ứng được điều kiện
hoặc họ phải mất thời gian đào tạo lại.
Vì
tình trạng phân bổ công việc trong xã hội không cân bằng, “thừa thầy thiếu thợ”,
vì nạn thất nghiệp cao, rất nhiều sinh viên học xong có bằng Cử nhân, Thạc sĩ
nhưng lại phải chạy xe ôm, về quê làm ruộng hay phải làm công việc khác.
Rồi
hiện tượng “chạy bằng”, mua bằng, xài bằng giả, ngay cả bằng Tiến sĩ, khiến người
có bằng cấp cao mà không có thực học, thực tài, không đóng góp được cho xã hội
xứng đáng với cái bằng hoặc cái ghế mà mình đang ngồi, thậm chí còn gây nhiều
tai hại cho xã hội vì thiếu hiểu biết, thiếu năng lực.
Tất
cả những điều này đều là sự lãng phí về con người.
Những
ngày vừa qua khi ông Tổng Bí thư Tô Lâm đề cập đến việc đổi mới công tác cán bộ,
tinh gọn tổ chức bộ máy, sáp nhập các bộ, ngành có chức năng tương đồng
v.v…cũng là do muốn khắc phục việc lãng phí nhân sự/con người, nhưng chỉ ở một
khía cạnh này.
Tuy
nhiên, cũng giống như “quốc nạn” tham nhũng, chừng nào còn chế độ độc tài toàn
trị như hiện nay thì tất cả những vấn đề và hậu quả nêu trên đều sẽ
khó mà thay đổi tận gốc rễ.
No comments:
Post a Comment