Jimmy Carter cứu thuyền nhân Việt Nam
30/12/2024
https://www.voatiengviet.com/a/jimmy-carter-cuu-thuyen-nhan-viet-nam/7917808.html
Ông Jimmy Carter, hồi 98 tuổi, đã rời bệnh viện
về nhà sống những ngày cuối cùng. Ông qua đời hôm nay, 29 tháng 12, 2024. Ông
là vị tổng thống Mỹ thọ nhất và sống một đời an vui, như Khổng Tử nói, “Người
trí sống vui, người nhân sống thọ” (Trí giả lạc, nhân giả thọ, Luận Ngữ, VI,
Ung Dã). Ông là người đáng được các thuyền nhân Việt Nam nhớ ơn.
https://gdb.voanews.com/3F530692-19C4-4BEA-A4C5-73E278B30818_w1023_r1_s.jpg
Hình
chụp trẻ em tị nạn Việt Nam tại một trại tị nạn ở Hong Kong. Hình minh hoạ.
Carter
có đức tin rất mạnh, ông thường đến dạy giáo lý ở nhà thờ. Khi ra tranh cử năm
1976, ông nói với các cử tri: “Tôi sẽ không bao giờ lừa dối quý vị.” Có người
đùa rằng ông nói như thế là mất hết phiếu của những người nói dối! Nhưng ông đắc
cử, sau khi, qua thời Tổng thống Richard Nixon, dân Mỹ đã phải nghe quá nhiều
chính trị gia nói dối. Phó tổng thống của ông, Walter Mondale nói rằng đối với
Carter việc dùng thủ đoạn chính trị để kiếm phiếu là một điều nhơ bẩn, “Nếu muốn
Carter làm một dự án nào mà nói rằng cái này rất lợi về chính trị, thì chắc ông
sẽ bác bỏ.”
Làm
việc chăm chỉ không phải là đức tính quan trọng nhất của người lãnh đạo quốc
gia, nhưng ông Carter làm việc 12 giờ, đọc 200 trang tài liệu mỗi ngày. Và ông
đã làm được nhiều việc đáng kể. Ông giúp Israel và Ai Cập giải hòa ký thỏa ước
hòa bình Camp David, từ đó hai nước không còn đánh nhau nữa. Ông ký thỏa ước
SALT II với Nga kiểm soát vũ khí nguyên tử, một bản thỏa ước mới bị ông
Vladimir Putin xóa bỏ. Ông là vị tổng thống đầu tiên, trong bang giao quốc tế,
nhấn mạnh đến điều kiện tôn trọng nhân quyền. Ông cũng cải tổ chính sách di
dân.
Người Việt
Nam tị nạn cộng sản biết ơn Jimmy Carter. Sau 30 tháng 4 năm 1975, hàng trăm ngàn người
Việt chạy trốn chế độ cộng sản. Trong 2 năm cuối của Tổng thống Gerald Ford,
Hoa Kỳ đã thâu nhận khoảng 150.000 người tị nạn. Đại tá Vũ Văn Lộc ở San Jose,
ký tên Giao Chỉ, từng kể lại, ngày 5 tháng 7 năm 1978, Tổng thống Carter kêu gọi
các tàu Mỹ, dân sự cũng như quân sự, đang có mặt tại Thái Bình Dương thì phải vớt
thuyền nhân Việt Nam chạy trốn chế độ cộng sản. Ông đã quyết định cứu người vượt
biển mặc dù đa số dư luận dân Mỹ lúc đó không muốn.
Năm
1979, “Báo Time đã ghi nhận có đến 300 ngàn người chết trên đường vượt biển. Đã
có 65 quốc gia tiếp nhận nhưng … thuyền nhân còn tràn ngập các trại tỵ nạn.”
Các nước Đông Nam Á không muốn chịu gánh nặng này, “443 người đến Hồng Kông,
Macao, bị cảnh sát kéo ra biển, gặp trận bão Hope chết không còn người nào.”
Giao Chỉ viết, “Dân Việt kéo về Hoa thịnh Đốn thắp nến cầu nguyện trước tòa Bạch
Cung. Nước mưa hòa trong nước mắt nhỏ giọt xuống những ngọn nến lung linh. Những
linh mục và những thượng tọa đi lại đọc kinh suốt đêm.”
Trước cảnh
đó, Tổng thống Jimmy Carter ký “Đạo Luật Người Tị Nạn,” (Refugee Act of 1980)
do Nghị sĩ Edward Kennedy đề ra để nước Mỹ nhận người tị nạn dễ hơn trước. Đạo luật thông qua
ngày 17 tháng 3, 1980, sửa đổi “Đạo luật Nhập cư và Quốc tịch,” và các thủ tục
trong “Đạo luật Hỗ trợ người Tị nạn và Di dân” năm 1962. Ông tăng ngân khoản
giúp người tỵ nạn Việt Nam từ 7 ngàn người lên 14 ngàn người một tháng. “Họ sẽ
được đối đãi tử tế theo từng trường hợp và thủ tục tị nạn dễ dàng để quyết định
nơi nào họ muốn đến!” Và, “Sở Di Trú và Nhập Tịch, sẽ hỗ trợ tối đa các chuyến
đi của họ, đến các trại tị nạn, giúp họ khi chọn tái định cư tại Mỹ!”
Tin
tức về tàu Mỹ vớt thuyền nhân bay về Việt Nam, thêm nhiều người vượt biển trong
những năm 1979, 80, dù ai cũng biết những tai nạn, bão tố, hải tặc, dù hàng
trăm ngàn người đã chết trên biển. Số lượng “thuyền nhân,” gia tăng mạnh, họ cập
bến các nước Thái Lan, Malaysia, Hồng Không, Indonesia, Úc và bị đuổi, nhiều
nơi đã kéo các chiếc thuyền mong manh của người tỵ nạn ra ngoài đại dương.
Do
lệnh của Tổng thống Carter, thuyền trưởng tất cả các tàu Mỹ, có thể cam kết với
chính quyền tại những hải cảng đó rằng, Sở Di Trú và Nhập Tịch Mỹ sẽ nhanh
chóng sắp xếp cho những người tị nạn nhanh chóng đến nơi định cư. Những con tàu
Tình Thương từ nhiều quốc gia, Pháp, Đức, Đan Mạch… ra khơi, tổng cộng đã vớt
được trên 3 ngàn thuyền nhân. Nếu không có ông Carter ra lệnh cứu vớt và thâu
nhận họ vào Mỹ định cư, thì chắc chắn không có phong trào này!
Khi
gặp thủ tướng Israel, Manachem Begin, ở Camp David, ông Carter cũng nhắc đến
tình trạng thuyền nhân Việt Nam, so sánh với cảnh những người Do Thái tị nạn
trước đây. Giao Chỉ kể, “Tháng 10 năm 1979, một tàu Israel trên đường đi Nhật
đã cứu 60 thuyền nhân. Thuyền trưởng nói rằng các bạn phải cảm ơn ông Carter.”
Do
lệnh của ông Carter cho bộ quốc phòng, Đệ thất hạm đội dành 5 tuần dương hạm để
cứu thuyền nhân. Tháng 6, 1988 chiến hạm Mỹ USS Dubuque gặp một con tàu tị nạn
đi từ Bến Tre, sau 19 ngày lênh đênh trên biển, nhưng chỉ tiếp tế nước và thực
phẩm, không cứu và không báo cho tàu khác cứu vớt. Ông hạm trưởng tàu USS
Dubuque đã bị đưa ra tòa án quân sự. Con thuyền Bến Tre trôi dạt 37 ngày, từ
110 người chỉ còn sống 52 người; sau được tàu đánh cá Philippines cứu đưa về đảo
Bolinao.
Theo con số
của Cao Ủy Liên Hiệp Quốc (UNHCR), khoảng gần nửa triệu người đã chết trên thuyền
vượt biển. Tổng
thống Carter đã gởi Phó Tổng thống Walter Mondale sang Geneva, Thụy Sĩ để họp
cùng Cao Ủy Tị Nạn và các nước khác bàn việc giúp đỡ thiết thực người tị nạn Việt
Nam. Cao Ủy Tị Nạn đã thay mặt Hoa Kỳ, thương lượng với Hà Nội, để bắt đầu
chương trình tái định cư ODP, cùng các chương trình HO, con lai về sau này.
Tháng
8 năm 1979, để thuyết phục dân Mỹ, Tổng thống Carter nói trong một cuộc gặp gỡ
hơn 2,000 người: “Cho tôi nhắc với quý vị rằng, Hoa Kỳ là một quốc gia của di
dân. Cha ông chúng ta là di dân! Chúng ta là một quốc gia của những người tị nạn.
Những người tị nạn Việt Nam từng là đồng minh của chúng ta, trong cuộc chiến
tranh Việt Nam chống sự bành trướng của chủ nghĩa cộng sản. Họ đang chạy trốn
khỏi một xứ đã tước đi tất cả các quyền căn bản của họ. Họ tin vào giá trị, khả
năng của mỗi người, cùng sự tự do cá nhân.”
Sinh
năm 1924 tại tiểu bang Georgia, Tổng thống Jimmy Carter tốt nghiệp kỹ sư tại Học
Viện Hải quân, phục vụ tại các hạm đội Đại Tây Dương, Thái Bình Dương. Năm
1963, ông đắc cử vào Thượng viện Georgia, năm 1971, ông đắc cử thống đốc và từ
năm 1977 ông làm tổng thống.
Ông
Jimmy Carter gặp rất nhiều điều không may mắn trong hai năm sau cùng. Chiến
tranh Iran-Iraq làm giá dầu lửa tăng lên 120%, gây nạn lạm phát khắp thế giới,
tại Mỹ lên tới 14.6%. Dân Iran biểu tình chiếm tòa đại sứ Mỹ, bắt con tin. Liên
Xô tấn công chiếm đóng Afghanistan. Năm 1980 ông thất cử. Nhưng nhờ các chính
sách của ông Paul Volcker, do ông Carter bổ nhiệm làm chủ tịch Ngân hàng Trung
ương (Federal Reserve), lạm phát đã chấm dứt khi Tổng thống Ronald Reagan nhậm
chức và kinh tế bắt đầu hồi phục từ năm 1982.
Sau
khi rời Tòa Bạch Ốc, ông Carter trở về thị trấn Plains, nơi ông làm chủ một
trang trại trồng đậu phộng. Ông sống giản dị trong một ngôi nhà hai phòng ngủ
trị giá $167.000 đô la, sau mỗi bữa ăn vẫn tự rửa chén, mỗi Chủ Nhật lại đi dạy
giáo lý ở nhà thờ.
Ngày
15 tháng Bảy năm 1979, ông Carter đọc một bài diễn văn vẫn còn đáng đọc lại.
Ông than rằng, “Trong một quốc gia xưa nay vẫn tự hào là chăm chỉ làm việc, gia
đình vững chắc, xóm làng đoàn kết, và lòng tin vào Thượng Đế, bây giờ nhiều người
trong chúng ta chỉ lo thỏa mãn cho mình và tôn thờ việc tiêu thụ. Con người
không còn được thẩm định qua các việc mình đã làm mà qua những gì mình sở hữu.”
Ngày nay, có thể thấy đó cũng là một lời tiên tri.
No comments:
Post a Comment