Thứ Năm, 11/02/2023 - 11:27 — songchi
https://www.rfavietnam.com/node/7823
Phỏng vấn chuyên đề: “Chính sách của nhà nước Việt
Nam đối với các sắc dân bản địa”.
Cuộc phỏng vấn được thực hiện với ông Ông Lưu Quang Sáng (Amuchandra
Luu), sinh tại Phan Rang, hiện sống và làm việc tại California. Thạc sĩ toán và
có gần 20 năm giảng dạy ở trường đại học cộng đồng tại thủ phủ Sacramento,
California, Hoa Kỳ. Tổng Thư Ký hội Bảo Tồn Văn Hóa Truyền Thống Champa USA,
qua 7 nhiệm kỳ chủ tịch.
.
*Thưa ông, chúng ta bắt đầu bằng sự
phân biệt những cụm từ “dân tộc thiểu số, người thiểu số” và “dân tộc bản địa,
sắc dân bản địa”. Nếu để ý chúng ta sẽ thấy nhà nước Việt Nam luôn luôn dùng cụm
từ “dân tộc thiểu số, người thiểu số” mà không dùng cụm từ thứ hai. Thưa ông, tại
sao như vậy và ở Việt Nam, có người bản địa hay không?
Ông Lưu Quang Sáng: Định nghĩa
thì hơi dông dài. Tôi lấy một ví dụ để nói lên tất cả: “Ngưởi Việt tại Mỹ là
dân tộc thiểu số, và người Da Đỏ là dân tộc bản địa của Mỹ”. Từ đó ta suy ra cộng
đồng các dân tộc Champa là những sắc dân bản địa Việt Nam và người Hoa tại Việt
Nam là dân tộc thiểu số. Chối bỏ sự thật chỉ cho thế giới biết chúng ta mãi mãi
nằm ở thế giới Thứ Ba. Các nước văn minh đều công nhận dân tộc bản địa, tại sao
chúng ta không?
.
*Trước đây khi còn ở Việt Nam đi làm
phim tài liệu liên quan đến các sắc dân bản địa vào những năm 2000s, tôi đã nhận
thấy văn hóa, bản sắc của một số sắc dân bản địa ở Tây Nguyên, hay phía Bắc Việt
Nam, dần dần bị “biến mất”: từ nhà cửa (nhà sàn chuyển thành nhà gạch, mái bằng
như người Kinh), trang phục, lễ hội v.v… Trong nhiều năm, nhà nước Việt Nam đã
thi hành chính sách "đồng hóa" dần dần về ngôn ngữ, phong tục tập
quán cho tới “lấn sân” (ở những nơi như Tây Nguyên thì cho người Kinh – đa số
là người Thanh Hóa, Nghệ An… lên định cư làm ăn sinh sống, đẩy dần đồng bào bản
địa vào rừng sâu), hoặc lấy mất đất, mất rừng, tách các dân tộc bản địa ra khỏi
khu vực mà tổ tiên ngàn đời của họ đã sinh sống… So với các sắc dân bản địa
này, dân tộc Chăm nhờ có chữ viết, có nền văn hóa dày dặn, cư ngụ ở vùng đồng bằng
nên có vẻ ít bị thiệt hại hơn. Nhưng xin ông cho biết, việc dạy và học tiếng
Chăm của người Chăm ra sao, có được thoải mái không, người Chăm có bị các chính
sách “đồng hóa” hay bị hạn chế gì về mặt văn hóa không?
Ông Lưu Quang Sáng: Đây là chủ
đề rất rộng, tôi tạm đề cập ba khía cạnh.
Trước năm 1975, cộng đồng người Chăm Ninh Thuận và Bình Thuận ở An Phước
và Phan Lý Chàm đều có cơ quan hành chính do Chăm tự quản. Tất cả từ Quận trưởng
cho đến nhân viên đều là người Chăm. Tổ chức như thế rất thuận tiện cho việc giải
quyết vấn đề liên quan đến phong tục tập quán đặc thù, mà vẫn đảm bảo an ninh
chung. Sau 1975 khi hai miền Nam-Bắc gom về một, cả hai quận này bị giải thể và
quyền tự quản đã mất hẳn. Hơn nữa ruộng nhà, ruộng lệ, ruộng làng đều mất nên tổ
chức xã hội truyền thống dần bị phá vỡ, ảnh hưởng xấu đến đời sống cũng như tâm
linh, nhất là quyền lợi của những chức sắc bàn địa đều bị xóa sạch.
Trường Trung học Pô-Klong do bà con Chăm xây dựng, đa phần thầy giáo là
người Chăm, còn học sinh tuyệt đại đa số là con em Chăm. Sau này chính thế hệ học
sinh từ Pô-Klong ra, đã đóng góp rất nhiều cho đất nước. Thế mà sau 1975, trường
cũng bị giải thể. Biết là Trường Pô-Klong là khuôn mẫu giáo dục Chăm theo
chương trình giáo dục quốc gia, vừa đậm bản sắc dân tộc vừa hiện đại.
Về ngôn ngữ, người Chăm có chữ viết sớm và họ rất trân quý ngôn ngữ dân
tộc mình. Lối dạy truyền thống là cha dạy con, ông dạy cháu ở mỗi gia đình. Năm
1978, Chính phủ thành lập Ban Biên soạn sách chữ Chăm là điều đáng ghi nhận.
Ban đã tổ chức soạn sách giáo khoa Ngữ văn Chăm cấp Một dạy cho con em Chăm tại
các trường Tiểu học trong hai tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận. Từ đó Ban này đã
đào tạo cả vạn người Chăm biết chữ mẹ đẻ. Tiếc rằng sau 30 năm, Ban cũng bị giải
thể, hiện chỉ còn một cán bộ chuyên trách trong Sở Giáo dục.
.
*Thực tế tại Việt Nam
cho thấy, đàn áp tôn giáo là một chính sách xuyên suốt bao nhiêu năm nay của chế
độ độc tài toàn trị, đối với các sắc dân bản địa thậm chí còn hà khắc hơn, hệ
quả là lâu nay trong số người Việt chạy sang Campuchia, Thái Lan xin tỵ nạn, rất
nhiều người thuộc các sắc dân bản địa và vì lý do bị đàn áp tôn giáo như người
H'mong, người Ê đê theo đạo Tin Lành, người Khơ Me theo đạo Phật v.v… Còn cộng
đồng người Chăm thì sao, có gặp khó khăn gì trong việc bảo vệ và thực hành tôn
giáo của mình không thưa ông?
Ông Lưu Quang Sáng: Sinh hoạt
tâm linh của cộng đồng Chăm Ninh Thuận và Bình Thuận không thuần tôn giáo, mà
bao gồm cả phong tục tập quán. Nhìn trước được tương lai không mấy tươi đẹp,
ông bà Chăm đã khôn khéo lồng tất cả truyền thống văn hóa, phong tục tập quán
vào trong tôn giáo bản địa Ahier-Awal. Biến mọi thứ thành vấn đề tâm linh để
con cháu dễ lưu truyền. Nói chung tôn giáo bản địa Champa không có mối liên kết
với thế giới bên ngoài nên những cụm từ “diễn biến hòa bình, lợi dụng tự do tôn
giáo, thế lực thù địch kích động…” không được nhà nước Việt Nam áp dụng cho dân
tộc Chăm. Nhìn chung sinh hoạt tín ngưỡng của Chăm, Nhà nước Việt Nam không có
gì cản trở cả. Chỉ có điểm nóng duy nhất và mang tính nguy cơ là tên Tôn giáo
Bà-Ni bị nhà nước gom thành Hồi Giáo gây nhức nhối cho bộ phận người Chăm theo
tôn giáo Bà-Ni.
.
*Trước và sau 1975, tín đồ theo tôn
giáo dân tộc này đều được ghi là “Tôn giáo: Bà-ni” trong mọi loại giấy tờ hành
chính. Rồi không hiểu nguyên do từ đâu, năm 2015, tất cả đều chuyển qua “Tôn
giáo: Đạo Hồi”. Hơn nữa trong Danh mục Tôn giáo của Ban Tôn giáo Chính phủ, con
số tín đồ Bà-Ni đều bị dồn qua Hồi Giáo. Tên Tôn giáo Bà-Ni biến mất một cách
vô cớ. Ông nghĩ sao về vấn đề này?
Ông Lưu Quang Sáng: Theo một
nguồn dư luận thì nhà nước Việt Nam có hai dự án để xin viện trợ gọi nôm na là
dự án Ấn Độ và dự án Ả Rập. Dùng Bà La Môn và đền tháp chịu ành hưởng văn hóa Ấn
Độ để xin viện trợ từ Ấn Độ. Gom Bà Ni thành Hồi Giáo để lấy lòng thế giới Hồi
Giáo và xin viện trợ từ thế giới Hồi Giáo. Một nguồn dư luận khác thì nói vì
dân tộc Chăm hiền hòa và thanh bình quá nên Nhà nước cần tạo sự xung khắc nội bộ,
và cách dễ nhất là xung đột tôn giáo. Còn sự thật thế nào chỉ có nhà nước Việt
Nam biết. Riêng tôi thì cho dù lý do gì, gom một tôn giáo độc lập vào một tôn
giáo khác là một việc mà một nhà nước không nên làm. Đặc biệt người Chăm luôn tự
hào là một dân tộc duy nhất trên thế giới hóa giải và hòa giải được sự xung khắc
giữa Ấn Giáo và Hồi Giáo. Khi Việt Nam công nhận dân tộc Chăm là dân tộc bản địa
thì Việt Nam tự hào là quốc gia duy nhất có một dân tộc bản địa hòa giải sự
xung khắc giữ Ấn Giáo và Hồi Giáo, một nguồn cảm hứng và một thông điệp hòa
bình cho nhân loại.
.
*Được biết, bà con đã gửi nhiều đơn
thư lên Tỉnh và Trung ương, đến nay vẫn chưa giải quyết. Ông nghĩ về chuyện này
người Chăm Bà-Ni có thể chấp nhận hay không?
Ông Lưu Quang Sáng: Chấp nhận
hay không, điều này rất dễ kiểm chứng. Chỉ cần Chính phủ cho trưng cầu dân ý
thì có kết quà ngay. Chứ mở một hội thào vài chục người rồi biểu quyết theo định
hướng là không ổn. Hồi Giáo là một tôn giáo chuộng sự đồng đạo, vậy mà tại các
nước Hồi Giáo vẫn có các tôn giáo khác tồn tại. Tại sao chính phủ Việt Nam lại
xóa bỏ Bà Ni ra khỏi danh sách tôn giáo của Chính phủ?
.
*Chỉ tính riêng từ năm 1954 trở lại
đây, người Thượng ở Tây Nguyên có lịch sử thường xuyên xung đột với người Kinh,
còn sau tháng 4/1975 ít nhất từng có vài cuộc biểu tình lớn, nhỏ nổ ra ở Tây
Nguyên những năm 2001, 2004, 2008… Vì sao điều đó không xảy ra với người Chăm?
Ông Lưu Quang Sáng: Câu này
cho tôi trả lời sự thật theo cách trào phúng hay ai oán cũng được. Các dân tộc
bản địa Tây Nguyên còn nhiều thứ để mất như đất đai, không gian văn hóa, tự do
tôn giáo, công bằng đối xử v.v. nên họ phải biểu tình để đòi. Còn người Chăm
không còn gì nữa để mất nên họ không biểu tình. Hơn nữa mật độ “an ninh” trong
cộng đồng người Chăm là một kèm một như bóng đá. Nên các bạn trẻ hay ví von
“Người Chăm sống ở Việt Nam là an toàn nhất thế giới vì được công an theo dõi bảo
vệ 24/24”. Năm 2019, tôi về Việt Nam và cũng được công an theo “bảo vệ” như thế.
.
*Theo ông, chính sách đối với các sắc
dân bản địa của nhà nước Việt Nam lâu nay có những gì không đúng và nhà nước cần
phải có những thay đổi gì?
Ông Lưu Quang Sáng: Nhân mùa lễ
Tạ Ơn của nước Mỹ xin lấy nước Mỹ làm ví dụ. Bài học Lịch Sử đầu tiên mà người
Mỹ dạy công dân ở lớp mẫu giáo là bài học về Lễ Tạ Ơn Thanksgiving. Ở đó họ dạy
về những người da đỏ và những người Châu âu di dân đầu tiên. Qua đó họ giáo dục
về người bản địa và ý thức bản địa lớn dần theo thời gian. Nên mọi mọi người Mỹ
đều có ý thức bản địa và chung tay vun đắp cho cộng đồng bản địa. Dĩ nhiên
chúng ta có quyền được mơ Việt Nam sẽ giáo dục về ý thức bản địa và công nhận
quyền bản địa. Hiện tại, ít nhất phải có cách răn đe với những người kỳ thị chủng
tộc, nhất là những video clips phát tán xuyên tạc về những người bản địa, hoặc
những phát ngôn khiếm nhã về những người bản địa. Ngoài ra Chính phủ phải miễn
học phí cho học sinh người bản địa đến hết bậc Trung học.
.
*Theo ông, nỗi niềm ưu tư lớn nhất của
người Chăm hiện nay là gì?
Ông Lưu Quang Sáng: Niềm ưu tư
lớn nhất của người Chăm hiện này là làm sao tồn tại với bản sắc thêm 4 thế hệ nữa
trước khi mất hút vào Bảo Tàng Nhân Loại. Với tốc độ đồng hóa như hiện nay, và
khi người Việt Nam hiểu được câu “Sống Có Nghĩa Là Tạ Ơn” như người Mỹ thì Chăm
đã đến và đã đi.
*Xin cảm ơn ông đã nhận trả lời phỏng vấn.
Song Chi (thực hiện)
No comments:
Post a Comment