Nợ
của doanh nghiệp Việt Nam trước tình trạng suy thoái trầm trọng vì Covid-19
Vũ
Quang Việt
06/08/2020
(TBKTSG) - Nợ của doanh nghiệp Việt Nam đã lên đến
392% GDP (số liệu năm 2017). Nền kinh tế Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng không nhỏ nếu
dịch Covid-19 khiến cho nhiều doanh nghiệp mất khả năng trả nợ. Vậy giải pháp để
giải quyết vấn đề này là gì?
Tình hình kinh tế thế giới
đang tiến triển rất không tốt. Tỷ lệ xuất khẩu trên GDP của Việt Nam là thuộc
loại cao nhất thế giới, như năm 2018 chiếm 106% GDP. Cho nên giảm xuất khẩu sẽ
có ảnh hưởng trầm trọng đến kinh tế Việt Nam. Thị trường xuất khẩu của Việt Nam
lại đang phụ thuộc rất lớn vào Liên minh châu Âu (EU) và Mỹ. Hai thị trường này
nếu đình đốn thì rất có thể kinh tế Việt Nam cũng sẽ đình đốn theo. Để làm hàng
xuất khẩu, Việt Nam phải nhập khẩu nguyên vật liệu và bán thành phẩm, chủ yếu từ
Trung Quốc và Hàn Quốc. Nói cách khác, hoạt động xuất khẩu của Việt Nam đã trở
thành “phương tiện” cho các doanh nghiệp Trung Quốc xâm nhập gián tiếp vào thị
trường các nước Mỹ và EU.
Tình hình kinh tế của các đối tác xuất khẩu của Việt
Nam như thế nào?
Rõ ràng là không tốt. Số
liệu mới nhất ở Mỹ và châu Âu cho thấy GDP quí 2-2020 giảm mạnh chưa từng thấy
so với quí 1. Ở Mỹ, quí 2 giảm 9,5% so với quí 1 và nếu giảm như thế cả năm thì
sẽ giảm 32,9% so với năm trước. Tình hình ở châu Âu còn tệ hơn Mỹ, quí 2 giảm
11,9%. Chỉ có Trung Quốc là khá lên, mặc dù mức tăng thua xa những năm trước,
chỉ còn gần một nửa. Nhập khẩu của Mỹ từ Việt Nam từ tháng 5-2020 đã giảm 5,8%.
Xuất khẩu của Mỹ sang Việt Nam còn giảm mạnh hơn, tới 23%. Điều đó cho thấy sức
cầu của Việt Nam đã giảm mạnh.
BẢNG 1
BẢNG 2
Ảnh hưởng với kinh tế Việt Nam
sẽ như thế nào?
GDP quí 2 coi như không
tăng (+0,36%). Tuy thế mọi dấu hiệu ở trên và thêm báo cáo của Tổng cục Thống
kê cho thấy kinh tế Việt Nam có thể còn tệ hơn trong những quí tới, GDP tăng
trưởng âm gần như chắc chắn sẽ xảy ra.
Đã có 3 triệu người mất
việc làm; lao động trong công nghiệp giảm 1,8%, khách quốc tế đến Việt Nam giảm
61,6%, tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ giảm 0,4%, xuất khẩu chỉ tăng 0,2%,
nhập khẩu giảm 2,9%.
BẢNG 3
BẢNG 4
Ở đây chỉ xin nói về ảnh
hưởng của nợ và khả năng trả nợ của doanh nghiệp Việt Nam khi tình hình kinh tế
xấu đi. Hiện nay tỷ lệ nợ của doanh nghiệp, tức là các công ty có đăng ký theo
Luật Doanh nghiệp, là rất lớn. Số liệu trong tổng điều tra doanh nghiệp 2017 của
Tổng cục Thống kê cho thấy nợ của các loại hình doanh nghiệp lên tới 392% GDP.
Chỉ có doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) là không có vấn đề.
Nếu chỉ nhìn vào nợ của
doanh nghiệp phi tài chính, vì nợ của khu vực tài chính dựa vào nguồn tiền gửi
(cũng là vay) của khách hàng, thì nợ của các doanh nghiệp này cũng rất cao, lên
tới 243% GDP. Nếu tính theo vốn sở hữu, nợ của doanh nghiệp phi tài chính là
1,6; tức là có 1 đồng vốn thì nợ thêm đến 1,6 đồng. Theo nguyên tắc an toàn thì
có 1 đồng mới có thể mượn thêm được 1 đồng.
Nợ của doanh nghiệp nhà
nước tạo ra rất ít việc làm tính trên vốn bỏ ra; lợi nhuận cao hơn doanh nghiệp
tư nhân nhưng thấp xa so với doanh nghiệp FDI. Tỷ lệ lợi nhuận trên vốn sở hữu
của doanh nghiệp FDI cao nhất, nhưng vì chủ yếu sử dụng lao động rẻ tiền nên số
lao động tạo ra có tỷ lệ cao nhất (bảng 5).
BẢNG 5
Bây giờ xét qua về lãi phải
trả so với tỷ lệ lợi nhuận công ty. Lạm phát ở Việt Nam bảy tháng đầu năm 2020
so với bảy tháng đầu năm 2019 như sau: chỉ số giá tiêu dùng tăng 4,07%; lạm
phát cơ bản tăng 2,74%.
Trong khi đó, tháng
8-2020, lãi suất tiết kiệm gửi ngân hàng tùy theo kỳ hạn là từ 3,7 đến gần
8%/năm. Như vậy, lãi suất thực cao hơn lạm phát có thể lên 4% tính theo kỳ hạn
một năm.
Nhưng lãi suất cho vay
cũng rất cao, ở mức 8-12%/năm và đạt mức cao nhất nếu là vay dài hạn trên một
năm.
Với lãi suất cao như vậy,
các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư
nhân khó lòng mà trụ được. Theo như số liệu, năm 2017 là năm kinh tế phát triển
khá tốt, GDP tăng 6,9%, nhưng tỷ suất lợi nhuận trên vốn sở hữu của doanh nghiệp
tư nhân chỉ có 4,1% và của doanh nghiệp nhà nước là 10,4%, đều thấp hơn lãi suất
đi vay dài hạn.
Với dịch Covid-19 đang
bùng phát trở lại ở Việt Nam, ngành du lịch, khách sạn, nhà hàng có thể sẽ bị
đình đốn hoàn toàn (vào tháng 7 đã giảm 61%), cộng thêm với tình hình xuất khẩu
sang Mỹ và EU giảm, tỷ lệ lợi nhuận trên vốn sở hữu của doanh nghiệp Việt Nam sẽ
còn giảm hơn nữa, đưa đến nguy cơ mất khả năng trả nợ rồi phá sản. Nguy cơ này
đặc biệt cao với doanh nghiệp tư nhân nội địa, vì ngay cả trong điều kiện kinh
tế thuận lợi thì tỷ suất lợi nhuận của họ đã là quá thấp.
Giải pháp tạm thời là tiếp
tục thực hiện theo tinh thần của Thông tư số 1 của Ngân hàng Nhà nước, trong đó
yêu cầu ngân hàng thương mại cơ cấu lại nợ và thời hạn trả nợ, cũng như miễn giảm
lãi và phí đối với dư nợ phải trả ba tháng sau khi Thủ tướng tuyên bố là hết dịch.
Nhưng quyết định này có lẽ không đủ, vì thời gian dịch và ảnh hưởng của nó lên
nền kinh tế sẽ kéo dài. Ngân hàng Nhà nước có thể cần mua lại nợ này từ ngân
hàng thương mại theo dạng repo với cùng lãi suất thấp, thậm chí là bằng không
nhằm cung cấp thêm tín dụng để phục vụ khách hàng. Vấn đề là phải có biện pháp
ngăn chặn các hành động gian dối.
Vì nợ của doanh nghiệp Việt
Nam quá lớn, về lâu dài, cần có một ủy ban cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước có
nợ xấu, ủy ban này phải vừa có chuyên gia đủ khả năng và về mặt chính trị có đủ
thẩm quyền tổ chức lại ban quản lý, bán đi hoặc giải thể doanh nghiệp nếu cần.
Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn hiện nay không thể làm được những việc
trên.
Vũ Quang Việt
Nguồn: Bài đã đăng trên TBKTSG ngày 6.8.2020, tác giả gửi Diễn Đàn
No comments:
Post a Comment