Tình
quê hương trong nhạc Phạm Duy và những chân dung
Ngô Thế Vinh
04/07/2022
https://baotiengdan.com/2022/07/04/tinh-que-huong-trong-nhac-pham-duy-va-nhung-chan-dung/
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2022/07/1-2-696x332.jpg
Hình 1: Nhạc
sĩ Phạm Duy 90 tuổi; ảnh chụp vào dịp chuẩn bị sinh nhật thứ 90 của ông, trên
đại lộ Thống Nhất tại bức tường trường Đại học Dược khoa, lúc
này đang có một gốc cây đa bám vào vách tường rất đẹp, tôi chọn địa điểm này với
ý nghĩa Phạm Duy là cây đa cổ thụ trong nền tân nhạc Việt Nam. Photo
và ghi chú của Nguyễn Phong Quang.
Lời Dẫn
Nhập: Cám ơn bạn hữu gần xa, những người yêu mến nhạc và cả
con người Phạm Duy, trong sự tin cậy, đã gửi và cả cho phép sử dụng các nguồn
tài liệu quý giá trong đó có những thư từ trao đổi riêng tư với Phạm Duy cách
đây cũng đã ngót 30 năm, không ngoài mục đích giúp người viết có chất liệu – đủ
cho một cuốn sách, nhưng đó là công trình của tương lai. Đây chỉ một bài viết
ngắn, nhưng cũng mong phác thảo được đôi nét chân dung của một nghệ sĩ lớn Phạm
Duy – thần tượng của nhiều người qua nhiều thế hệ, với một cuộc sống đầy cảm hứng
nhưng cũng rất phức tạp. Phạm Duy đã sống qua hai thế kỷ, “khóc cười theo vận
nước nổi trôi” trong suốt chiều dài của một bi kịch Việt Nam cận đại, vừa hào
hùng và cũng vô cùng bi thảm.
***
PHẠM DUY VÀ NHỮNG KHOẢNG CÁCH
Phạm Duy sinh năm 1921 hơn tôi 20 tuổi, khoảng cách một thế hệ, khác biệt
trong mọi bối cảnh sinh hoạt và cuộc sống. Những năm 1940, thời gian đầu của cuộc
kháng chiến chống Pháp, khi cùng gia đình tản cư lên sống ở một vùng quê Thanh
Hoá trong Liên khu IV; trên những thửa lúa vàng, giữa tuổi ấu thơ, tôi đã cùng
với đám trẻ quê nghêu ngao hát bài Em Bé Quê và mấy bài ca
kháng chiến khác của Phạm Duy. Ký ức chiến tranh lúc đó chỉ là hình ảnh một thị
xã Thanh Hoá đang nguyên vẹn đẹp đẽ bị san bằng do chính sách “tiêu thổ
kháng chiến” của Việt Minh. Liên Khu IV vẫn được coi như an toàn khu,
không có lính Tây Lê-dương đến càn quét, và cảnh bom đạn nếu có là từ trên cao,
với những chiếc máy bay Bê-Vanh-Nớp / B29 của Pháp bay dọc theo con sông Mã, gầm
rú trên bầu trời, rồi từng đợt xả xuống những băng đạn lửa đum đum bắn chìm các
thuyền đò, không có bộ đội chỉ có dân dã buôn bán di chuyển trên sông. Cảnh
tang thương chết chóc lớn nhất mà tuổi thơ tôi đã chứng kiến là từng đợt máy
bay Pháp bỏ bom oanh tạc ngôi chợ Rừng Thông với nhiều máu me và xác chết.
Năm 1951, khi hồi cư về Hà Nội, qua câu chuyện trong gia đình, tôi được
biết, Phạm Duy tác giả Em Bé Quê đã có thời gian làm thợ sửa
radio cho ông bác tôi ở phố Hàng Gai. Câu chuyện được nghe qua rồi cũng quên
đi. Nhưng phải tới 70 năm sau, khi đọc cuốn Hồi Ký PD Tập I, tôi
mới được biết về một Phạm Duy ở tuổi niên thiếu:
“Học chưa hết một niên khoá, tôi bị đuổi ra khỏi trường
Kỹ Nghệ Thực Hành vì tôi phạm kỷ luật hơi nhiều: đánh nhau, bị
cấm túc mà trốn ra khỏi trường. Tội nặng nhất là có một hôm, phạm một lỗi lầm
nào đó nhưng không chịu được cái bợp tai của Besancon, tôi chửi
nhau với xếp xưởng! Lại còn giơ búa định đánh nó nữa. Tôi bị đuổi ra
khỏi trường ngay lập tức. Sợ ông anh quá, tôi không dám về nhà, đáp xe hàng về
Trạm Chôi ở với gia đình vú… Sau vài ba tuần trốn mặt
ông anh, tôi lò mò về nhà và bị đuổi ngay xuống garage ở. Thế là sau khi đã bị
coi như đứa bé rắn đầu ương ngạnh, tôi trở thành mục tiêu của sự dè
bỉu nơi hai người anh ruột và anh rể. Một buổi tối nào đó, trong bữa
cơm, không nhớ một trong hai người anh nói một điều gì quá đáng,
tôi đập cửa ra đi. Đúng như lời mỉa mai của người anh rể, thường cho tôi là một
kẻ sans foutiste, tôi ”đếch” cần tới sự vồn vã thương
yêu hay sự che chở nâng đỡ của người lớn nữa rồi. Tới ở chung với một
gia đình quen rồi sau vài tuần lễ, tôi xin được việc làm ở hiệu sửa
radio Nguyễn Đình Thụ tại phố Hàng Gai.
[Kỹ sư Nguyễn Đình Thụ là anh của mẹ tôi, bạn của Thạc sĩ Phạm Duy Khiêm,
anh của nhạc sĩ Phạm Duy – khi cả hai cùng du học tại Pháp. Ghi chú của người
viết]. Phạm Duy kể tiếp:
Trước đây, dù mới ngoài 16 tuổi, tôi cũng có
đôi chút kiến thức về radio và đã tự tay lắp được một máy
radio nhỏ nghe bằng galène rồi, do đó tôi rất thích thú trong công việc mới mẻ
này. Các máy radio của thời điện tử sơ khai còn dùng các
bóng đèn và những mạch dẫn điện theo kiểu hétérodyne. Nếu so sánh với những chips
điện tử bây giờ thì có thể nói rằng tôi đã đi vào điện tử ngay từ thời kỳ hồng
hoang của nó. Làm thợ phụ, lương lậu không nhiều nhưng tôi rất vui
vì kiếm ra những đồng lương đầu tiên trong đời mình. Hiệu sửa radio
KS Nguyễn Đình Thụ ở ngay đầu Hàng Gai, tôi có dịp chứng kiến lối sống của lớp
trẻ Hà Nội vào cuối thập niên 30 này.”
Ghi lại
sự kiện này, chỉ để tôi không còn ngạc nhiên và hiểu được tại sao Phạm Duy lại
có khả năng nhạy bén khi đi vào lãnh vực high tech của máy điện
toán rất sớm từ thập niên 1980. Phạm Duy có lẽ là nhạc sĩ Việt Nam duy nhất và
đầu tiên đã biết ứng dụng máy điện toán [computer] để sáng tác nhạc, viết hồi
ký và phổ biến âm nhạc của mình.
PHẠM DUY VỚI CD-ROM
MULTIMEDIA 1995
Những năm tháng sống ở Mỹ, xứ sở của khoa học kỹ thuật, Phạm Duy đã mau
chóng tự học hỏi và thích nghi. Phạm Duy đã rất hãnh diện về bộ CD ROM
Multimedia đầu tiên không phải của riêng ông mà của cộng đồng người Việt hải
ngoại. Trong cuốn Hồi Ký PD Tập 4, Phạm Duy viết:
“Tôi
là kẻ may mắn nhất vì được làm quen với computer từ buổi bình minh của phát
minh này. Từ cuối thập niên 80, tôi và Duy Cường đã khởi sự dùng máy computer. Trước
tiên, chỉ để thay máy đánh chữ, nhưng khi đó chưa có ai đưa được “fonts chữ Việt”
vào máy computer. Chúng tôi phải tìm mãi mới kiếm ra được một ông kỹ sư
tên là Nguyễn Văn Tâm * – đang làm cho Tổ Chức Không Gian NASA —
là người đầu tiên viết ra ”fonts chữ Việt”.
*Ghi
chú của người viết: từ trước cho đến nay, tôi chỉ được biết và quen hai
kỹ sư Việt Nam ở Mỹ đã làm nên hai bộ nhu liệu [software] tiếng Việt.
Sớm nhất là KS Nguyễn Việt, sinh quán ở Hà Nội, lớn
lên ở Đà Lạt, xuất thân là sĩ quan Hải quân VNCH từ 1969 tới 1975, di tản sang
Mỹ 1975, tốt nghiệp kỹ sư BS 1979, rồi MS 1985. Anh sáng lập công ty Diplomat,
có trụ sở ở Newport Beach, đã sản xuất được bộ chữ tiếng Việt VN Labs
và được cấp bằng sáng chế từ 1985.
Người thứ hai là KS Hồ Thành Việt, sinh quán ở Nha
Trang, trẻ hơn Nguyễn Việt 6 tuổi, cũng di tản sang Mỹ 1975, tốt nghiệp kỹ sư
BS 1985, bước đầu làm cho công ty Diplomat sau đó có trụ sở riêng ở
Westminster, sản xuất bộ chữ tiếng Việt VNI từ 1988. Tuy bộ chữ Việt
VNI ra sau VN Labs của Nguyễn Việt, nhưng do Hồ Thành Việt có khả năng
marketing tốt hơn, bộ VNI được sử dụng rộng rãi hơn trong giới truyền thông và
cộng đồng người Việt.
Do Phạm Duy hai lần nhắc tới tên KS Nguyễn
Văn Tâm làm cho NASA là “người đầu tiên viết ra fonts chữ Việt”, với sự
thận trọng, người viết đã liên lạc với TS Trương Hồng Sơn tức nhà văn hoạ sĩ
Trương Vũ, sang Mỹ từ 1975 và làm cho NASA cho tới khi nghỉ hưu, tôi nhận được
email hồi âm của TS Trương Hồng Sơn: “Anh Ngô Thế Vinh ơi, tôi thật sự không biết.
Hơi lạ. Tôi cũng không quen kỹ sư nào ở NASA tên Nguyễn Văn Tâm. NASA có
nhiều trung tâm, ngoài số cơ hữu thì thành phần contractor khá đông nên có thể
có mà mình không biết. Tuy nhiên, tôi cũng nghĩ như anh về những người đầu tiên
làm nên bộ chữ Việt cho computer.”
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2022/07/H1.png
Hình 2: Trái, trang báo Los Angeles Times 21/02/1993 có bài
của ký giả Dean Takahashi viết về hai kỹ sư điện toán người Mỹ gốc Việt đã song
hành thiết kế ra hai bộ chữ tiếng Việt cho máy điện toán: KS Nguyễn Việt với bộ
chữ VN Labs, Hồ Thanh Việt với bộ chữ VNI. Phải, KS Nguyễn Việt được cấp
bằng sáng chế bộ chữ VN Labs từ 1985 và cho biết anh là người đã tới nhà nhạc
sĩ Phạm Duy trên đường Hunter, Midway City để giúp cài đặt bộ chữ VN Labs vào
máy điện toán IBM PC của Phạm Duy. (Tư liệu Ngô Thế Vinh)
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2022/07/1-645x420.png
Hình
3: Cuốn sách Phạm Duy Ngàn Lời Ca xuất bản lần đầu tiên năm 1987,
trang trong có ghi chú: Ngàn Lời Ca được sắp chữ bằng máy computer Apple
Macintosh với bộ chữ Việt Âu Á do Kỹ Sư Nguyễn Văn Tâm sáng chế. Công việc
typesetting được thực hiện bởi tác giả, ở ngay trong nhà với toàn bộ Desktop và
chương trình Page Maker 2.0. (Tư liệu của Đỗ Việt Anh)
Vào thời điểm 1985, mới chỉ có bộ chữ VN Labs, và 1988 có thêm bộ chữ
VNI, cả hai đều được dùng cho hệ thống máy vi tính IBM PC. Như vậy, có
thể có một KS Nguyễn Văn Tâm đã sáng chế ra được bộ chữ Việt ban đầu cho máy
Apple Macintosh của Phạm Duy.
Người viết không đưa ra một kết luận nào, chỉ mong rằng khi bài viết này
được phổ biến, nếu KS Nguyễn Văn Tâm đọc được và lên tiếng, chúng ta sẽ có câu
trả lời, để rồi ra “Cái gì của Caesar trả lại cho Caesar.”
Vẫn Phạm Duy viết tiếp: Thế là chúng tôi gài ‘’fonts
chữ Việt’’ vào máy và bắt đầu dùng computer để viết thư, viết báo, viết Hồi Ký,
viết sách nhạc và nhất là để giữ lại những tài liệu
cũ chất chứa trong “những hồ sơ to tổ bố” — chữ của Phạm Duy. Và cũng phải
mất một thời gian khá lâu để chúng tôi tìm mua những
softwares về âm nhạc để viết nốt nhạc, để hoà âm. Và mua thêm những softwares về
hội họa để làm tranh ảnh, trang trí v.v… Cho tới khi nhờ
có computer mà tôi tiến đến giai đoạn làm ra được những CD-ROM…
Như đã từng là người đầu tiên phát hành đĩa
CD-Audio, bây giờ, với sự cộng tác của một kỹ sư trẻ,
anh Bùi Minh Cương ở San Jose, chúng tôi cho ra đĩa CD-ROM đầu
tiên của Việt Nam. [*KS Bùi Minh Cương là cháu gọi ký giả
Bùi Bảo Trúc là cậu, ghi chú của người viết].
Đây
là một cuộc hôn phối rất tốt đẹp của nghệ thuật và kỹ thuật. Với
đĩa CD-ROM đầu tiên của Việt Nam này, với chủ đề HÀNH TRÌNH TRÊN ĐẤT MẸ, chúng
tôi có khát vọng đem chút gia tài văn hoá của người đi trước tặng cho thế hệ đi
sau, mà có thể vì sinh ra và lớn lên ở hải ngoại, các em bị cắt đứt với dòng sống
tinh thần và tình cảm của dân tộc. Hồi Ký PD Tập 4.
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2022/07/1-3-696x329.jpg
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2022/07/1-1-696x360.png
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2022/07/2-5-696x343.jpg
Hình 4 : Bộ CD-ROM của Phạm Duy tặng Ngô Thế Vinh và đây cũng là CD-ROM đầu tiên của
Việt Nam ở hải ngoại. Một bác sĩ Mỹ gốc Do Thái, bạn làm việc
cùng một bệnh viện với tôi, không chỉ khá
ngạc nhiên về tỉ lệ cao các nội trú thường trú người Việt tới thực tập tại đây
và khi anh cầm trên tay đĩa nhạc CD-ROM Con đường Cái quan của
Phạm Duy, rồi đĩa nhạc Chopin của Đặng Thái Sơn… Anh
ta có nhận định rằng: “Cộng đồng di
dân Việt Nam các anh chỉ mới 20 năm mà đã tiến bằng hoặc nhanh hơn
các sắc tộc Á châu khác tới đây trước cả trăm năm, và tôi không nghĩ rằng
các anh có thể đi vào lãnh vực High Tech sớm như vậy.” (Tư liệu Ngô
Thế Vinh)
HAI MƯƠI NĂM SÁNG DỘI MIỀN NAM
Trở lại giai đoạn 1954-1975, sau Hiệp định Genève (1954) chia đôi đất nước,
do có kinh nghiệm với cộng sản, đã có hơn một triệu người từ miền Bắc bỏ hết
nhà cửa ruộng nương di cư vào Nam. Từ Hà Nội, tôi theo gia đình vào Nam.
Phạm Duy thì đã rời bỏ kháng chiến về Hà Nội sau đó vào Nam từ 1951. Từ
trong Nam ra Bắc, Phạm Duy và gia đình đã nổi tiếng ngay với Ban Hợp ca
Thăng Long, gồm 6 người: Phạm Duy, Hoài Bắc, Hoài Trung, Thái Hằng, Thái
Thanh, và Khánh Ngọc.
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2022/07/1-4.jpg
Hình 5: Ban Hợp Ca Thăng Long và Đêm Màu Hồng
Sài Gòn, hàng trước từ trái: Thái Hằng, Khánh Ngọc, Thái
Thanh; hàng sau: Phạm Duy, Hoài Bắc (Phạm Đình Chương), Hoài Trung (Phạm Khắc
Viêm). Nguồn: internet
Tới thập niên 1960, khi tôi đã vào Đại Học Y khoa Sài Gòn, với sinh hoạt
báo chí qua tờ báo Sinh Viên Y Khoa Tình Thương, quen biết với anh Lê Ngộ Châu,
tôi có đôi lần gặp Phạm Duy ở toà soạn Bách Khoa. Phạm Duy không phải cây viết
cho báo Bách Khoa nhưng rất thân với chủ nhiệm Lê Ngộ Châu, họ đã là bạn với
nhau từ trong Liên Khu IV thời kỳ đầu kháng chiến. Bách Khoa có đăng một số bài
của nhà nghiên cứu nhạc học George E. Gauthier người Canada viết về Phạm Duy
[BK 332 (1/11/70), 334, 335, 337/338 (Xuân Tân Hợi), 339, 340, 342, 345, 346,
347, 350, 353, 354, 355, 363, 367, 372, và 375 (15/8/72), và cả bài phỏng vấn
Phạm Duy của ký giả Lê Phương Chi. [BK 241-242, 243]. Tư liệu Phạm Lệ Hương
Như câu chuyện dật sự, qua anh Lê Ngộ Châu, tôi còn được biết thêm về một
số nét chân dung khác của Phạm Duy, kể cả trường hợp ra đời của bản nhạc Còn
Chút Gì Để Nhớ phổ từ bài thơ Vũ Hữu Định ra sao.
Giai thoại 1: từ Lê Ngộ Châu và Trí Đăng
[1970]
“Vào khoảng năm 1970 tòa soạn Bách Khoa nhận được bài thơ Còn
Chút Gì Để Nhớ của Vũ Hữu Định, một tên tuổi còn rất xa lạ với Lê Ngộ
Châu nhưng do thấy bài thơ quá hay với hình ảnh nhẹ nhàng về phố núi Pleiku, Lê
Ngộ Châu đã nhờ anh Trí Đăng [chủ nhà in Trí Đăng đang in báo Bách Khoa], chở
xe gắn máy tới nhà Phạm Duy ở cư xá Chu Mạnh Trinh ngã tư Phú Nhuận, nơi quy tụ
nhiều gia đình nghệ sĩ nổi tiếng như Năm Châu, Nguyễn Mạnh Côn, Duyên Anh, Minh
Trang, Kim Tước… Lê Ngộ Châu đã đề nghị Phạm Duy phổ nhạc bài thơ Vũ Hữu Định –
dù anh chưa biết Vũ Hữu Định là ai. Chỉ hai ngày sau Phạm Duy đã chắp cánh cho
bài thơ bằng một ca khúc cùng tên và được phát ngay trên đài phát thanh Sài Gòn
với giọng ca vượt thời gian của Thái Thanh. Phổ nhạc các bài thơ là một khía cạnh
tài năng khác rất đặc biệt của Phạm Duy.”
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2021/06/0-161-324x160.jpg
Gia đình Bách Khoa và một Lê Ngộ Châu khác
Ngô Thế Vinh 26-6-2021 Hình 1: Lê Ngộ Châu sống
và làm việc ngay tại toà soạn Bách Khoa, 160 Phan Đình Phùng Sài Gòn. Trước và
sau 1975, chưa ai được nghe anh Lê Châu kể lể về những tháng năm thăng trầm với
tờ báo Bách Khoa. Tranh luận về “công lao Bách … Continue reading Gia đình Bách Khoa và một Lê Ngộ Châu khác
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2022/07/1-2.png
Hình
6: Bìa gốc bản nhạc Còn Một Chút Gì Để Nhớ, thơ Vũ Hữu
Định, Phạm Duy phổ nhạc 1970.
Giai thoại 2: từ Trương Điện Thắng với lời kể
của Phạm Duy [2006]
Theo một nhà báo trong nước, Trương Điện Thắng thì: Những năm 1971-1972,
bài hát Còn Chút Gì Để Nhớ của Phạm Duy là một trong những
bài hát được yêu cầu nhiều nhất trong “Chương trình nhạc yêu cầu” trên
đài Phát thanh Sài Gòn. Lúc đó tác giả bài thơ là nhà thơ Vũ Hữu Định — vừa qua
tuổi 30, anh đang … trốn lính ở Sài Gòn và lang bạt ở Lâm Đồng, Bảo Lộc,
Pleiku… Từ trong bóng tối với nhiều bút danh như Hàn Giang Tử, Vũ Hữu Định…
chàng trai gốc An Cựu nhưng nói giọng Quảng Lê Quang Trung không nghĩ mình được
nhạc sĩ tài ba Phạm Duy để ý. Với bút danh Vũ Hữu Định, anh bắt đầu xuất hiện
trên tạp chí Bách Khoa của Lê Ngộ Châu, tuần báo văn nghệ Khởi Hành của Viên
Linh… Bài Còn Chút Gì Để Nhớ đăng trên Khởi Hành và được nhà văn Võ Phiến chép
vào sổ tay. Sau này, khi chúng tôi gặp lại Phạm Duy ở Nha Trang trong chương
trình Duyên dáng Việt Nam 16 (12/2006), trong buổi ăn tối, Phạm
Duy kể, ông đến chơi nhà Võ Phiến nhưng bạn đi vắng. Lân la chờ bạn trong phòng
viết, thấy cuốn sổ tay bỏ ngỏ, ông giở vài trang đọc và bắt gặp bài thơ. “Lúc
đó, tôi chưa biết anh Định là ai nhưng nhịp điệu và ngôn ngữ bài thơ làm tôi nảy
ra ý định phổ nhạc.” [Còn Chút Gì Để Nhớ hay Số phận của mỗi tác phẩm,
Trương Điện Thắng @T.Van 2017]
Giai thoại 3: từ Phạm Duy với mảng trí nhớ cuối
đời [2012]
Trong cuốn sách Vang Vọng Một Thời do Phạm Duy
biên soạn, Công ty Sách Phương Nam xuất bản 2015, Phạm Duy đã lại viết một
phiên bản khác nữa về trường hợp phổ nhạc bài thơ Còn Chút Gì Để Nhớ,
như sau:
“Saigon
1972. Tôi đi Pleiku để nghiên cứu nhạc Tây Nguyên. Trong một tuần lễ ở
đó, tôi được gặp vài nhà thơ trẻ bị động viên đang đóng quân tại miền biên giới
này. Lúc đó tỉnh lỵ Pleiku còn nhỏ hẹp lắm. Một nhà thơ trẻ Vũ Hữu Định, đã mô
tả cái thành phố đi dăm phút đã về chốn cũ… trong
một bài thơ rất dễ thương. Tôi phổ nhạc ngay lập tức, không thêm thắt hay sửa đổi
một chữ nào trong bài thơ. Cũng vì tôi đang nghiên cứu nhạc Thượng nên tôi dùng
ngay ngũ cung cơ bản – cung (do mi fa sol si do) trong phần giai điệu. [Vang
Vọng Một Thời, Phạm Duy biên soạn, Phương Nam xuất bản, 2015]
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2022/07/1-3-629x420.png
Hình
7: Cuốn sách Vang Vọng Một Thời và
trang sách Phạm Duy kể về hoàn cảnh phổ nhạc bài thơ Còn Chút Gì Để Nhớ của
Vũ Hữu Định. Tư liệu Phạm Phú Minh
Chỉ riêng việc Phạm Duy phổ nhạc một bài thơ Còn Chút Gì Để Nhớ của
Vũ Hữu Định, mà đã có tới 3 giai thoại / với 3 phiên bản khác nhau, và có
thể còn thêm nhiều giai thoại khác nữa, tưởng cũng nên ghi lại ở đây, để độc giả
tự tìm cho mình câu trả lời: đâu là một “sự thật – thật”.
…
Một đôi dịp khác, thảng hoặc tôi còn gặp Phạm Duy thoáng qua tại Quán
La Pagode, nơi mà bạn văn Nguyễn Đình Toàn, ngoài giờ làm việc ở đài phát
thanh, hầu như hàng ngày ra ngồi viết nơi quán Cái Chùa. Nguyễn
Đình Toàn kể như một giai thoại vui là: Phạm Duy nó bị chứng cứng tay
toa ạ, không bao giờ nó đưa được tay ra túi sau đụng vào chiếc ví của nó. Toàn
nhỏ hơn Phạm Duy 15 tuổi, nhưng vẫn cứ xưng là mày tao – cũng như Mai Thảo vẫn
xưng mày tao với Vũ Hoàng Chương hơn Mai Thảo tới gần một con giáp.
Vào thời gian đó, tôi cũng được đọc hai cuốn sách viết về Phạm Duy, một của Tạ
Tỵ: Phạm Duy Còn đó Nỗi Buồn (1971), một của Nguyễn
Trọng Văn: Phạm Duy đã Chết Như thế nào? (1971)
Sau 1975, từ trong trại tù cải tạo, tôi và các bạn tù cũng đã nghe những
tin đồn lạ từ xa vọng về: nào là thống tướng Nguyễn Cao Kỳ đã về tới khu Công
Giáo Tân Sa Châu, cầm đầu một tổ chức kháng chiến mưu đồ phục quốc, ly kỳ hơn nữa
là câu chuyện Phạm Duy bị thổ huyết chết ngay trên một sân khấu ở Mỹ khi ông
đang ôm đàn hát bài “Bầy Chim Bỏ Xứ”…
CON ĐƯỜNG CÁI QUAN
RA TỚI HOÀNG SA – TRƯỜNG SA.
Tôi qua Mỹ 8 năm sau, và gặp lại Phạm Duy ở miền nam California trong một
bối cảnh hoàn toàn khác. Không biết tôi đã gắn bó với dòng Mekong-Cửu Long từ
bao giờ, nhưng bài hát Chiều Về Trên Sông của Phạm Duy
cũng đã góp phần không nhỏ nuôi dưỡng tình yêu của tôi với con sông thắm đỏ phù
sa ấy.
Vào thập niên 1990s khi tôi đang viết những chương sách cuối cho cuốn Cửu
Long Cạn Dòng, Biển Đông Dậy Sóng, trước viễn cảnh một Việt Nam bị hãm
vây bởi Trung Quốc, không chỉ với con sông Mekong đổ xuống từ thượng nguồn, mà
cả ngoài Biển Đông, Trung Quốc đã cưỡng chiếm Hoàng Sa của Việt Nam từ 1974, và
đánh chiếm đảo đá ngầm Gạc Ma thuộc quần đảo Trường Sa 1988.
Với Trường Ca Con Đường Cái Quan của
Phạm Duy – con đường Việt Nam thống nhất chạy xuyên suốt từ ải Nam Quan xuống tới
mũi Cà Mau đã như một nối kết lòng người. Nhưng nếu nhìn xa, Con Đường
Cái Quan không dừng lại ở đó, bởi vì trong tâm khảm mỗi người Việt, Con Đường
ấy còn thêm cả khúc đường biển tiếp nối ra tới hai quần đảo Hoàng
Sa – Trường Sa của Việt Nam. Đó cũng là lý do cuộc gặp gỡ giữa
tôi với nhạc sĩ Phạm Duy với một gợi ý cách đây 27 năm. Chắc ông còn nhớ buổi
nói chuyện với tôi trong căn nhà thân thuộc trên đường Hunter nơi Thị trấn Giữa
Đàng ngày nào. Bởi vì sau cuộc gặp gỡ ấy, Phạm Duy vẫn đều đặn gửi cho tôi các
tài liệu liên quan tới những sinh hoạt của ông.
Trước viễn ảnh một Biển Đông Dậy Sóng, những dòng chữ
này một lần nữa gửi tới ông (2006) qua một chương sách Mekong Dòng
Sông Nghẽn Mạch, vẫn với tâm cảnh của “tam bách dư niên
hậu” với niềm tin rồi ra cho dù thời gian xa tới đâu, Hoàng
Sa – Trường Sa cũng sẽ lại “châu về Hợp Phố”.
HỒI KÝ PHẠM DUY
Bộ Hồi Ký 4 Tập của Phạm Duy, với 3 tập đầu do Phạm
Duy Cường Xuất Bản, từ trái, Tập I: Thời Thơ Ấu – Vào Đời (1990), Tập II: Thời
Cách Mạng – Kháng Chiến (1989), Tập III: Thời Phân Chia Quốc Cộng (1991); Tập
IV: Thời Di Cư Qua Mỹ: chưa in, chỉ phổ biến qua bản PDF.
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2022/07/1-4-696x322.png
Hình
8: Hình bìa 3 Tập Hồi Ký 1, 2, 3 của Phạm Duy do Phạm Duy Cường Xuất Bản.
Tập 4: Thời Di Cư Qua Mỹ: phổ biến qua bản PDF. Ảnh bìa của Trần Đình Thục. (Tư liệu của
Nguyễn Công Thuần)
Bộ hồi
ký 4 tập của Phạm Duy với hơn 1500 trang, qua giọng văn mộc mạc và bộc
trực, Phạm Duy đã ghi lại khá trung thực các giai đoạn hào hùng và thăng trầm của
cuộc đời ông và cũng là của đất nước qua hai thế kỷ. Điểm tích cực là qua bốn tập
sách ấy, Phạm Duy không hề bêu xấu ai, và cả không che giấu những chi tiết rất
riêng tư của mình. Không chỉ là một nhạc sĩ với tài năng lớn – có người gọi ông
là thiên tài, nhưng qua bộ hồi ký, Phạm Duy còn là một nhà văn, với những trang
sách ông viết tràn đầy sức sống và cảm xúc, rất hấp dẫn và cảm động. Với
Một Ngàn Lời Ca, Phạm Duy còn là một nhà thơ.
Một học giả Mỹ, Tiến Sĩ Eric Henry đã cho rằng bộ hồi ký đồ sộ của Phạm
Duy không chỉ hấp dẫn, nó còn giúp cho giới nghiên cứu tìm hiểu về xã hội Việt
Nam qua các cuộc chiến tranh và những năm tháng hoà bình. Bản dịch tiếng Anh cuốn
Hồi Ký Phạm Duy / The Memoirs of Phạm Duy đã được TS Eric
Henry hoàn tất và được Cornell University Press nhận xuất bản. Một dự
án hai bước [có một bản dịch hoàn chỉnh, và tìm được một nhà xuất bản Mỹ uy
tín]; là điều mà Phạm Duy khi còn sống đã vô cùng ao ước. Nhưng sau
khi Phạm Duy mất, do không có được sự đồng thuận của các người con Phạm
Duy, The Memoirs of Phạm Duy cho đến nay vẫn chưa được phép xuất
bản.
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2022/07/1-5-696x474.png
Hình 9: Phạm Duy và TS Eric Henry, dịch giả Bộ Hồi Ký
Phạm Duy, đã gặp lại nhau trong một quán cà phê tại Sài Gòn ngày 30/07/2009. Bộ
ảnh cùng với
các ghi chú hài hước của nhiếp ảnh gia Nguyễn Phong Quang, bạn của
Eric, được sắp xếp theo chiều kim đồng hồ, từ trên trái: (a) kể
lể cho nhau nghe, trên phải: (b) tranh luận, dưới phải:
(c) không dễ để thuyết phục được nhau, dưới trái: (d) cuối
cùng chúng tôi đã có tiếng nói chung. Photo & ghi chú của Nguyễn
Phong Quang, tư liệu Eric Henry gửi cho Ngô Thế Vinh
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2022/07/1-5-696x416.jpg
Hình 10: Phạm
Duy đang khoe với hai ký giả Phố BolsaTV bản dịch tiếng Anh bộ Hồi Ký Phạm Duy
4 tập của TS Eric Henry. Theo dịch giả Eric Henry, sau khi Phạm Duy mất, vì chưa
có được sự đồng thuận của tất cả những người con Phạm Duy nên cho đến nay The
Memoirs of Phạm Duy vẫn chưa được phép xuất bản. Tư
liệu của BolsaTV 26.01.2012
MỘT GIAI ĐOẠN CHỐNG CỘNG VÀ LAO ĐỘNG
NUÔI CON
Phạm Duy
tuy “nổi tiếng” về cuộc đời tình ái rất đa đoan của ông; nhưng nếu đã quen Phạm
Duy, ai cũng biết ông là người cha rất thương các con. Cho dù đã là một nhạc sĩ
với tên tuổi, nhạc của ông được ưa chuộng và hát khắp năm châu, tiền cachet của
ca sĩ hát nhạc Phạm Duy có thể cao, nhưng lại không có phần đền bù tương xứng
cho người nhạc sĩ sáng tác tài danh ấy. Có thể nói, ở hai thập niên đầu sau
1975, cuộc sống tỵ nạn của gia đình Phạm Duy khá chật vật, nhưng Phạm Duy vẫn
luôn luôn lạc quan, và không từ nan làm bất cứ công việc gì để cải thiện sinh kế
nuôi vợ là Thái Hằng và một đàn 8 đứa con. Hai năm đầu tỵ nạn sống ở Florida,
ngoài các tours trình diễn nhỏ, Phạm Duy còn viết sách nhạc dạy Tự Học
Đàn Guitare, in lại các băng cassette* cũ mà ông mang theo được theo lối thủ
công để bán và phát hành qua đường bưu điện… vậy mà ông “nuôi nổi cả
gia đình, một nửa ở Mỹ, một nửa ở Saigon”.
[*Trong Hồi
Ký PD Tập IV, Chương I, Phạm Duy kể: Khi vội vã ra đi, vợ chồng mang theo được
2 va li nhỏ, tới đảo Guam thì bị mất một va li đựng quần áo ấm, nhưng may mắn
còn chiếc va li thứ hai đựng nhiều kỷ vật vô giá như ảnh cũ, băng nhạc cũ.]
Bao nhiêu
tiền kiếm được Phạm Duy hết sức dành dụm để gửi về nuôi 4 người con trai còn kẹt
lại ở Việt Nam, và sau đó đủ tiền mua chỗ cho chúng vượt biển thành công sang
đoàn tụ với bố mẹ. Phạm Duy tiết kiệm tới mức, khi hai đứa con nhỏ xin
tiền bố mua đồ chơi và ông không cho, tụi nó gọi Phạm Duy là “Bố keo”.
Tính
“keo” của Phạm Duy là một đức tính của ông – nhưng lại bị nhiều người đem ra bỉ
thử. Phạm Duy có người vợ hiền là Thái Hằng, được nhiều người tôn vinh là bà
thánh. Bà đã hy sinh sự nghiệp ca hát rất sớm từ khi sinh đứa con cuối cùng là
Thái Hạnh, và để toàn thời gian chỉ để chăm sóc chồng và tám đứa con. Nhưng
Thái Hằng không phải là Bà Tú Xương:
Quanh
năm buôn bán ở ven sông,
Nuôi
đủ năm con với một chồng
Khác với
ông Tú, Phạm Duy một vợ và có tới 8 người con, chỉ có một mình ông
cáng đáng lo toan phần sinh kế gia đình. Ông không chỉ là một nghệ sĩ lớn
có sức sáng tác rất sung mãn, đi trình diễn khắp đó đây, khiến nhà thơ Nguyên
Sa đã gọi ông là “Phạm Duy Đại Lực Sĩ”, và cả ví von “Hình ảnh
Phạm Duy là một thanh niên ngàn năm hai mươi tuổi.” [trích Nghệ Sĩ Việt
Nam ở Hải Ngoại]. Không những thế ông còn là một người cha rất có trách nhiệm
và thương con. Có lần ông nói thẳng với người bạn thân: “Nếu
không như vậy thì ai là người nuôi đám con moa.” Biết được như vậy,
người ta chỉ có thể cảm phục Phạm Duy hơn.
Từ Florida
dọn về California, nơi có đông đảo cộng đồng người Việt, Phạm Duy vẫn phải lao
động cật lực nuôi một gia đình đông đúc 12 người: vợ chồng Phạm Duy, với 8 người
con và cả các cháu nội ngoại trong một căn nhà 3 buồng ở Midway City, mà Phạm
Duy đặt tên là Thị Trấn Giữa Đàng.
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2022/07/1-6-696x350.jpg
Hình 11: Gia
đình Phạm Duy đông đúc 12 người đoàn tụ trong một căn nhà 3 buồng nơi Thị Trấn
Giữa Đàng / Midway City. Tư liệu Phạm Duy, Hồi
Ký PD 4
Điều mà
không phải ai cũng biết là Phạm Duy đã từng có dự định: mở quán ăn hay làm nhân
viên địa ốc mua bán nhà cửa, và rồi ông nhận làm cả dịch vụ tài xế hàng
ngày lái xe đưa đón các bệnh nhân tới phòng mạch các bác sĩ ở Quận Cam. Cùng
một lúc ông vẫn dành tất cả thời giờ còn lại cho âm nhạc, cho niềm đam mê của
mình.
Phạm Duy viết trong Hồi Ký PD Tập 4:
“Trong
thời gian tôi gặp Nguyễn Chí Thiện, anh bạn của tôi là bác sĩ Trần
Ngọc Ninh đã từ Denver (Colorado) dọn về mở phòng mạch tại Santa Ana.
Tôi vừa mua được một căn nhà mới ở ngay cạnh căn nhà cũ để “cứu sống” mười hai
mạng người trong gia đình, bấy lâu nay vì ở chung một nhà chỉ có ba phòng ngủ
và một phòng vệ sinh độc nhất cho nên vào mỗi buổi sáng (nói đùa đấy nhé) phải
“giết” nhau mới làm được việc tiểu tiện, đại tiện, đánh răng, rửa mặt, tắm rửa! Bỏ thêm chút
tiền xây thêm phòng ngủ, phòng tắm cho cả hai căn nhà, từ nay trở đi gia đình
chúng tôi sống êm thắm như trong bài học của sách Quốc Văn Giáo Khoa Thư. Tôi
có đầy đủ sự yên tĩnh để làm hai công việc vừa khởi sự là soạn tài liệu cho bài
thuyết trình về Năm Mươi Năm Tân Nhạc và phổ một số bài thơ
của Nguyễn Chí Thiện thành 20 bài ngục ca.
Giải
quyết xong vấn đề ăn ở cho toàn thể gia đình, tôi rất rảnh rỗi, nhân anh chị
Ninh cần người đưa đón bệnh nhân (người già hoặc mới qua Mỹ chưa có xe hơi),
tôi không nề hà nhận làm việc này ngay. Tôi đã từng làm thợ rèn, thợ điện, nông
phu, thầy giáo trong thời niên thiếu. Qua Mỹ, đáng lẽ tôi cũng phải làm việc
chân tay nhưng tôi khéo xoay sở nên được làm công việc trí óc.
Bây giờ
tôi đang có phương tiện (xe hơi), sức khoẻ và thời giờ — lúc này chưa được nhiều
nơi mời tôi đi hát như trong những năm sau –, tại sao tôi không dùng nó để kiếm
tiền nhỉ? Dù chỉ là tiền “petty cash” cao hơn tiền xăng nhớt một chút
thôi! Nhưng công việc rất nhàn nhã này không kéo dài vì xảy ra vụ một số
y sĩ gian lận về medicare
bị đưa ra toà. Khi nhận giúp việc cho cả hai bên bệnh nhân và bác sĩ, rất ngây
thơ và ngay thẳng, tôi không biết tới chuyện lạm dụng này, bởi lẽ giản dị anh
Ninh không hề làm chuyện đó. Nay thấy cần phải tránh xa cái thế giới đang có
“sì căng đan” lớn nên tôi “sì tốp” ngay việc giúp bệnh nhân đi khám bệnh. Vả
lại tôi đã khởi sự được mời đi hát sau khi soạn xong 20 bài ngục ca.
Dù sao
đi nữa, tôi muốn cám ơn những ngày được làm nghề tài xế cao quý (giống như các
ông hoàng Nga trắng tị nạn Cộng Sản ở Paris) vì tôi có dịp tiếp xúc với người
dân thường, hoặc đã qua Mỹ từ 1975 hoặc vừa mới tới đây bằng đường vượt biên.
Tôi được
biết rõ tâm tình của người tị nạn, biết thêm những chuyện vui buồn thầm kín trong
xã hội lưu vong. Cuộc tiếp xúc thân mật với dân chúng lần này trong chiếc xe
hơi chẳng khác chi lúc tôi đi hát bằng xe lửa, ô tô buýt, bằng thuyền và thời
tôi đi bộ trong kháng chiến, đi tới đâu tôi cũng học hỏi rất nhiều ở người dân.
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2022/07/1-7.jpg
Hình 12: Nhạc
sĩ Phạm Duy và Bác sĩ Trần Ngọc Ninh, trong thập niên 1980. Bác sĩ Trần Ngọc
Ninh là thuyền nhân rất sớm từ 1977 tới được Mã Lai, rồi tỵ nạn ở Mỹ – sau
khi lấy lại bằng hành nghề y khoa xong, từ Denver (Colorado) dọn về
mở phòng mạch tại Santa Ana. Phạm Duy viết: “nhân anh chị Ninh cần người đưa
đón bệnh nhân (người già hoặc mới qua Mỹ chưa có xe hơi), tôi không nề hà nhận
làm việc này ngay.”
Ngoài
ra, đưa bệnh nhân tới phòng mạch phải ngồi chờ rất lâu rồi mới đưa bệnh nhân về
nhà, tôi có nhiều thời giờ để sáng tác. Tại phòng khám bệnh của bác sĩ Ninh,
trong khi anh bạn bắt bệnh nhân thè lưỡi ra coi hay xắn tay đo tension,
tôi ngồi cắn bút viết ngục ca bên cạnh những chai nước khử
trùng. Hèn gì ngục ca có mùi nhà thương trong nhạc, ngoài mùi nhà tù của thơ.
Có lúc rỗi rãi, chúng tôi ngồi nói chuyện văn nghệ văn gừng trong phòng mạch
hay trong quán ăn trưa ở gần đó. Có thể nói bác sĩ Trần Ngọc Ninh là thính giả
đầu tiên của những bài ngục ca.”
LÁ THƯ ĐẦU NĂM ẤT HỢI 1995
Mùng Một
Tết Ất Hợi, 31 February 1995
Hôm nay,
ngày đầu năm, tôi khai bút (đúng ra là khai máy vi tính) để báo cáo anh chị vài
tin mừng:
1. Gia
đình tôi vừa có thêm cháu ngoại, con gái của Thái Thảo/Tuấn Ngọc, ra đời vào
đúng ngày cuối năm, giống như bà ngoại cháu 65 năm về trước.
2. Tổ chức Phạm
Duy Foundation dự tính thành lập từ lâu, nay đã chính thức ra đời. Người
sáng lập là chị Phan Tú Khanh ở Los Altos, CA-USA. Hiện nay đã có bản điều
lệ (by-law) (1) để gửi tới những người mà tôi mời
vào Hội Đồng Quản Trị (Board of Trustees) (2) Lẽ
tất nhiên tôi kính mời bạn làm hội viên hoặc bảo trợ viên của foundation này.
Có thể foundation sẽ chính thức công bố (hay mở kỳ họp đầu tiên) vào tháng
4-1995 để đánh dấu 20 năm hải ngoại. Và một trong những công tác đầu tiên là tổ
chức một cuộc hội thảo (symposium) về Nhạc PD hay chỗ
đứng của PD trong lịch sử tân nhạc.
3. Dù chưa
chính thức hoạt động, foundation đang bảo trợ tinh thần việc thực hiện một CD
ROM về Nhạc PD. Tôi và kỹ sư Bùi Cương (là người nắm phần kỹ thuật) đã đồng ý
đưa nhạc phẩm CON ĐƯỜNG CÁI QUAN vào CD ROM này có thể hát phần Việt ngữ theo
kiểu karaoke. Hoặc cho con cháu hát theo để không quên tiếng Việt.
Vì là đĩa
audio-visual có tính chất multimedia, ngoài trọng tâm là âm nhạc ra, CD ROM này
còn có thêm những mục như:
a. mục giải
thích (bằng Anh, Việt ngữ) (3) những nhân vật hay sự
việc mang tính chất huyền sử, lịch sử trong trường ca.
b. mục viết
về trường ca ra đời trong hoàn cảnh nào, phổ biến ra sao…
c. mục giải
thích nhạc ngữ, lời ca của trường ca.
d. tất cả
những bài báo viết về trường ca này trong mấy chục năm qua đều được cho vào CD
ROM.
e. Rất nhiều
hình ảnh quê hương cũng hiện diện trong CD ROM.
Những tin
vui này đã đến với tôi trước khi chúng ta bước vào năm mới, một năm mà tôi tưởng
rằng sẽ chẳng còn gì để nói, để làm nữa. Tôi không ngờ rằng trước khi nhắm mắt
lại được thấy phần thưởng cao quý nhất đến với tôi, không phải đến từ chính quyền
trong nước hay một hàn lâm viện quốc tế… mà hoàn toàn đến từ những người yêu nhạc
mà chị Phan Tú Khanh là đại diện tích cực nhất. Phần thưởng không kém phần quý
báu là kỹ sư Bùi Minh Cương đã giúp tôi phổ biến tác phẩm qua hình thức CD ROM.
Trong tương lai gần, với sự giúp đỡ của bạn bè, tôi có thể dễ dàng cho phần văn
chương gồm cuốn NGÀN LỜI CA và 4 cuốn hồi ký, và phần âm nhạc với một số hoặc tất
cả trên dưới 1000 nhạc phẩm của tôi vào CD ROM.
Tôi nghĩ rằng,
vào ngày đầu của một năm mới, điều đẹp nhất đối với tôi là xin được chia vui
cùng bạn. Không tiêu cực như vào lúc đầu của kiếp lưu vong, hai mươi năm đã
trôi qua, được tiếp tục hành nghề hát rong và nhất là được sống ở một nước với
nền kỹ thuật cao nhất và biết đem kỹ thuật vào nghề mọn của mình, với kết quả
tích cực nhất… thật là đáng sống! Hoan hô cuộc đời.
Chúc bạn,
bước vào một năm mới, cũng vui như tôi. Rất thân ái ./.
—–
1. Trang đầu
đính kèm vào thư này. Xin coi mục đích của tổ chức nơi Article 2: Purposes
2. Tôi
trân trọng mời các bạn Đỗ Văn (Anh Quốc), Thuỵ Khuê (Pháp Quốc), Mộng Thường
(Úc), Đỗ Quý Toàn (Gia Nã Đại), Steve Addiss, Nguyễn Ngọc Bích, Đỗ Ngọc Yến, Phạm
Văn Kỳ Thanh (Mỹ)…
3. Ai là
người có thể giúp tôi Pháp Ngữ?
T.B._
Lê Hữu Khoá có đồ án về Symposium, đính kèm.
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2022/07/1-8-278x420.jpg
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2022/07/1-6-637x420.png
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2022/07/1-7-666x420.png
Hình 13: Trên,
thư viết tay Phạm Duy gửi Ngô Thế Vinh. Giữa, Khai bút đầu năm Ất Hợi 1995 của
Phạm Duy gửi bằng hữu. Từ trái dưới, trang phác thảo dự án cuộc hội thảo “nghiên
cứu về sự nghiệp âm nhạc của Phạm Duy” của Lê Hữu Khoá, Giám đốc Nhóm
Nghiên cứu về Di dân Đông Nam Á / GRISEA (Groupe de recherche sur l’Immigration
du sud-est asiatique) từ Paris; và bản điều lệ của Phạm Duy Foundation. Tư
liệu Ngô Thế Vinh
VỀ VIỆT NAM VÀ NHỮNG CHUYẾN ĐI THĂM DÒ
Nhiều người
vẫn nghĩ Phạm Duy chỉ có ý định về sống ở Việt Nam sau cái chết của Thái Hằng
1999, nhưng không hoàn toàn đúng như vậy.
Khá sớm từ
trước 1994, qua nhưng thư từ gửi về Việt Nam, và cho bằng hữu, Phạm Duy đã có
những ngỏ ý là muốn về sống ở Việt Nam, cả với hy vọng đòi lại được 3 căn nhà ở
Phú Nhuận mà ông bỏ lại khi vội vã bỏ nước ra đi năm 1975.
Trong một
thư riêng viết ngày 16/08/1994 gửi cho người bạn trẻ đang làm việc ở
Singapore là Võ Tá Hân, tốt nghiệp MIT, một chuyên gia kinh tế ngân
hàng, đang là Tổng Giám đốc của Singapore Finance, Võ Tá Hân cũng là tay đàn
guitare cổ điển có hạng và rất mê nhạc Phạm Duy và là cháu ruột gọi nhà văn
Linh Bảo là cô.
Phạm Duy
viết: “Anh Hân thừa biết tôi đang được dân chúng hải ngoại yêu mến
như thế nào rồi. Bây giờ mà tôi trở về với nhà nước vẫn còn là cộng sản, thì họ
sẽ tẩy chay ngay”.
Cũng trong
bức thư ấy, Phạm Duy viết tiếp: “Anh nên nhớ từ 1988, với 10 bài
Rong Ca, tôi đã chấm dứt cái thứ âm nhạc được gọi là “chống cộng” rồi. Rong Ca
là bỏ quên thế kỷ 20 đi, nhắm tới thế kỷ mới mà sống.” Rồi Thiền
Ca là gì? Là: Tròn như viên đạn đồng đen,
đã khô vết máu quên miền chiến tranh. Viên đạn sinh ra để giết
người, thế mà nó còn quên được chiến tranh huống chi con người. (Chính quyền
cũng đã quên được “lũ giặc lái Mỹ” ném bom cơ mà). Và nếu nghe Bầy Chim
Bỏ Xứ thì thấy tôi đưa ra chủ trương chim lành chim dữ đều có thể sống
chung với nhau được. Trong phần cuối bài tôi nói: diều hâu bạo dữ mời
đi giữ biên cương… có nghĩa là chúng ta cũng rất cần có người cộng sản để ngừa
Trung Hoa lúc nào cũng lăm le tràn xuống nước ta chứ!
Dầu sao
đi nữa, tôi sung sướng vô cùng khi thấy có một số người trẻ hiểu tôi như anh Đỗ
Trung Quân, Lưu Trọng văn (*con trai Lưu Trọng Lư). Hồi tôi gặp Trần Tiến ở
Pháp cũng nghe nói Dương Thụ hết lòng bênh vực tôi. Thế là đủ rồi! Chẳng
cần tới một hay hai vị quan chức “đoái thương” tới l’enfant prodigue — đứa con
hoang đàng này ! Tôi nghe anh Trần Văn Khê nói rằng trong ban thường vụ
chỉ có 2 người chống tôi thôi… (Thư Phạm Duy, 16/08/1994*)
HOÀNG THƯỢNG KHANH VÀ CA KHÚC VỀ MIỀN TRUNG
Qua nhà
văn Phan Lạc Tiếp từ San Diego, Phạm Duy mừng rỡ tìm lại được người bạn kháng
chiến từ Bình Trị Thiên hơn nửa thế kỷ trước, hiện đang sống ở Hà Nội, anh tên
Hoàng Thượng Khanh. Và tiếp ngay sau đó là những bức thư đầy cảm xúc của Phạm
Duy gửi cho Hoàng Thượng Khanh.
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2022/07/1-9-693x1024.jpg
Hình 14: Hình trên là bức thư thứ nhất,
Phạm Duy viết tay ngày 19/06/1994 gửi
qua máy Fax của Võ Tá Hân ở Singapore để được chuyển về Hà Nội. Tư liệu
của Võ Tá Hân
Bức thư
thứ hai,
Ngày
04/07/1994,
Anh
Hoàng Thượng Khanh,
Hai tuần
trước, khi Phan Lạc Tiếp gọi điện thoại cho tôi biết đã gặp Hoàng Thượng Khanh ở
Hà Nội thì tôi rất mừng và sau vài dòng chữ viết vội cho Khanh, tôi đã nhận được
thư Khanh. Thư vẫn là của con người super sensible mà tôi đã quen ở Huế hồi
1944 khi tôi là ca sĩ của gánh hát Đức Huy và hồi 1946 khi tôi hát ở Quán Nghệ
Sĩ, con người sau đó vào năm 1948, đã chia ngọt sẻ bùi với tôi trong một thời
gian khá lâu ở chiến khu Ba Lòng, Quảng Trị.
Trong một
nửa thế kỷ mà C.V. Gheorghiu và Günter Grass gọi là thời chó má, Camus gọi là
thời dịch hạch, Marquez gọi là thời thổ tả vì sự tung hoành của những guồng máy
quyền lực liên tiếp xô đẩy thế giới xuống chết chóc tan lìa (Việt Nam là nạn
nhân của mấy đế quốc này)… và nhất là sau gần nửa thế kỷ xa cách nhau, thế mà
anh và tôi vẫn còn sống sót để gặp nhau ngày hôm nay qua thư từ, và một ngày gần
gũi nào đó qua một cái ôm hôn “cười trong nước mắt, khóc trong nụ cười”… chao
ôi là hạnh phúc !
Tôi nhớ nhất
là những ngày cùng anh ngồi bên những con suối không tên ở chiến khu, lau rửa
những vết sâu quảng đỏ loét ở chân mình, đời sống lúc đó cực kỳ gian khổ mà tại
sao lòng mình thảnh thơi đến thế? Tại sao chỉ ăn cơm hẩm với mắm tôm, chịu đựng
một cơn bão rừng ghê gớm (Khanh còn nhớ trận bão đó không?) sống rất nguy nan
giữa lòng địch ở Đại Lược… thế mà tôi vẫn có thể soạn được những bài hát cao lớn
như Về Miền Trung, Bà Mẹ Gio Linh, Mười Hai Lời Ru? Câu
trả lời cũng giản dị: vào lúc đó chúng ta còn rất trẻ, chúng ta rất yêu
nước và riêng tôi thì được hưởng một tình bạn rất thân thiết mà anh đã
ban tặng cho tôi. Trong thư, anh viết” “không một lúc nào quên Duy”, trong thư
này tôi cũng xin viết như anh: “không một lúc nào quên Khanh”. Và xin viết
thêm: “không có Khanh, chưa chắc tôi đã có bài Về Miền Trung!
Với thư
này, tôi mong Khanh còn nhớ được kỷ niệm nào của chúng mình trong ba lần gặp
nhau đó thì viết vào giấy hay nói vào băng cassette rồi gửi cho tôi để giữ
làm tài liệu sống cho một bảo tàng viện về tôi (chắc chắn) phải có trong tương
lai. Ở hải ngoại, tôi đã có vài “PD Học Hội” được thành lập để người
yêu nhạc làm công việc sưu tập tài liệu và truyền bá nhạc PD. Nhạc của tôi như
Khanh sẽ thấy, không chỉ hoàn toàn là những hùng ca hay bi ca của một dĩ vãng vừa
huy hoàng, vừa bi đát hay là những dằn vặt về thân phận con người (nhất là con
người biệt xứ) hoặc những nỗi bất bình về tình hình đất nước… Nó còn mang dấu
tích tư liệu của một người chứng thời đại, chẳng hạn Rong Ca là
những trầm tư của một người Việt đã qua cầu thế kỷ 20, nay hát cho những năm
2000, nhưng nó không có cái nhìn khe khắt như các vị C.V. Gheorghiu và Günter
Grass gọi là thời chó má, Camus gọi là thời dịch hạch, Marquez gọi là thời thổ
tả kể trên.
Một nhà
phê bình về tôi đã cho rằng “Hát về thế kỷ, hát về những chiều kích
không gian thoáng rộng và thời gian dài không thể hát từ cõi tâm chật hẹp bị vướng
mắc trong những khoảng cách, phân biệt. Phải đủ sức bay của chim Bằng mới bay
khỏi tầm nhìn hữu hạn của thế gian mà có cái nhìn mênh mông hơn.” Đạo
Ca, Thiền Khúc của tôi cũng không là tiếng hát của thằng mõ trong làng
nữa, nó là tiếng ca vừa nhân hoà, vừa nhiên hoà của một bõ già chứng nhân của
thời đại. Có câu hát này tôi cho là đắc ý :
Tròn
như viên đạn đồng đen
Đã
khô vết máu quên miền chiến tranh
Lẽ tất
nhiên, Khanh cũng cho tôi biết Khanh đã sống ra sao trong một đất nước đã có
quá nhiều oan khiên mà sự giải oan không có thể được giải quyết trong một năm,
một tháng hay một ngày được. Chúng ta sẽ tránh không nói chuyện chính trị.
Chúng ta chỉ trao nhau những lời tâm sự của hai thằng bạn già. Đúng như Khanh
nói: “thì giờ còn lại ít lắm”! Và tôi cũng đã từng hát: “còn một
ngày, vui muôn nỗi vui”! Vậy viết thư dài nhé, nên nhờ người bạn của
tôi là chị Văn Dương Thành – mà chắc anh đã gặp — gửi đi cho đỡ tốn tiền tem.
Cuối cùng,
vì được hân hạnh biết Tố Uyên, là bạn của Băng Thanh [là em gái nhà văn Linh Bảo,
ghi chú cùa người viết], xin cho tôi gửi lời chào thân mến tới cô gái Huế họ
Võ, người đã cùng em gái và tôi – trong một tiền kiếp nào đó — rảo bộ trên một
con đường Vỹ Dạ, có nắng hạ có gió hè, xiết bao êm ấm.
Rất thân
ái,
Phạm Duy
Kèm theo bức
thư này, là một thư viết tay 3 ngày sau 7/7/94 gửi Võ Tá Hân:
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2022/07/1-10-210x300.jpg
Ngày
15/08/1994, Phạm
Duy cũng từ Thị Trấn Giữa Đàng fax cho Võ Tá Hân, một bức thư thứ ba viết
cho Hoàng Thượng Khanh, người bạn cố tri đang sống ở Hà Nội. Trong
bức thư gửi bạn, Phạm Duy muốn bộc lộ hết tâm can:
Anh Hân,
Tôi vừa nhận
được thư của Hoàng Thượng Khanh. Vội fax thư sau đây nhờ Hân chuyển cho ông ta.
Cám ơn nhiều./.
Bức thư thứ ba
15
tháng 8, 1994
Anh
Hoàng Thượng Khanh,
Hôm nay
bà Nguyễn trở về Mỹ, đem theo thư của Khanh và ảnh Khanh do bà ta chụp. Khanh
có vẻ bình tĩnh hơn trong ảnh do anh Võ Tá Hân chụp tháng trước. Bravo!
Vì Khanh
muốn biết “gia cảnh” của mình nên xin “báo cáo”:
“Tới
tháng 10 này, Duy vừa đúng 75 tuổi. Là người có nhiều tình nhân nhất trong đám
văn nghệ sĩ lãng mạn thời 45, vậy mà Duy là người chồng ngoan nhất, vẫn cứ thờ
một bà Thái Hằng mà tướng Nguyễn Sơn làm mối và chủ hôn, (này, nếu Khanh gặp bà
Nguyễn Sơn thì hỏi có còn giữ tấm ảnh đám cưới của Duy-Hằng không?). Vợ chồng
nhà này sống với nhau gần nửa thế kỷ rồi, có 8 con (5 trai, 3 gái và 6 cháu nội
ngoại) hầu hết đã có vợ có chồng nhưng vẫn còn ở chung với cha mẹ trong ba căn
nhà ở cùng phố. Tụi này ở nước Mỹ đã 20 năm, trước kia đi làm có đóng thuế đầy
đủ nên từ ngày về hưu (từ 1985 – PD nghỉ hưu ở tuổi 64) được lĩnh tiền vừa đủ để
sống mà không cần nhờ vả tới các con. Nói chung, từ ngày rời miền Bắc vào Nam
(1951) gia đình này lúc nào cũng đủ ăn và trước khi đi Mỹ, có 3 căn nhà ở Phú
Nhuận. Qua Mỹ với 20 dollars trong túi, tụi này làm lại cuộc đời và cuối cùng
cũng có được 3 căn nhà như xưa.
Trong
mấy năm qua, tình hình thay đổi, Duy ngỡ rằng có thể bán nhà ở Mỹ đem tiền về sống
nốt những ngày còn lại ở quê nhà… Thế
nhưng vào tháng 4 năm nay 1994, vợ con Duy về Việt Nam rồi khi họ trở về Mỹ,
thì Duy thấy rằng sự trở về của Duy chưa thuận tiện chút nào cả. Thôi thì đành ở
lại cái đất “tạm dung” này vậy! Nói cho ngay, Duy cũng đã quá
quen với đời sống Mỹ Quốc rồi, về già, vấn đề sức khoẻ rất quan trọng, ở đây y
học rất tối tân mình đỡ lo hơn (Duy đã 2 lần mổ rồi, ở phổi và ở bọng đái).
Voilà! Vì Khanh hỏi nên phải khai ra là
như vậy, chứ không dám khoe khoang gì đâu nhé…
Khanh
nhắc tới trường Hàng Vôi, 16 Carreau, Hưng Yên… làm Duy cảm động. Nhưng nếu có
ngày nào Duy trở về đường xưa lối cũ, liệu có còn dư hương của kỷ niệm xưa hay
không?
Có
người* đã viết về Duy như sau: “PD cảm nhận được khúc ngoặt to lớn của dân tộc, viết Tình
Hoài Hương như một tổng kết, rằng từ nay không chỉ xa quê nhà trong
không gian mà là xa mãi trong thời gian, tình cảm kết tinh thành một nostalgie
như là chứng liệu một thời. Nước Việt Nam sau 1945 đã bước vào một thời đại mới
của cuộc diện thế giới, vĩnh viễn xoá bỏ ý niệm “cố hương” theo kiểu cũ. Cho
nên Duy mô tả quê hương với tất cả các nét đằm thắm một thời của nó, đồng ruộng,
luỹ tre, làn khói, con sông, cây đa, con trâu, bà mẹ… nhưng không một lời mơ ước
là sẽ trở về. Còn đâu nữa mà
về! Ông không mang ảo tưởng quay về cái cũ của những ngày đầu kháng chiến, ông
cảm nhận được cú định mệnh đang giáng xuống Việt Nam bắt buộc đi vào một thời đại
hoàn toàn mới, từ tình hoài hương ông kịp chuyển qua các báo hiệu cho một tâm cảm
mới:
Chiều xoay hướng!
Sống vui trong mối tình muôn đường
Tình ngàn phương!
Biết yêu nhau như lòng đại dương
Thời đó ông chỉ có thể hát lên cung bậc chuyển tiếp cho một dự cảm.
Người Việt Nam buộc phải ra khỏi cái nôi ấm áp thôn dã hàng ngàn năm của mình,
cái bước đi đã được ý thức và được thực tập từ thời Đông Kinh Nghĩa Thục, thời
Đông Du nhưng chưa bao giờ thật sự thành hiện thực. Sau cuộc chiến chín năm thì
giấc mơ của Hoàng Giác:
Về quê xưa để đời sống êm đềm giấc mơ
Về quê xưa tìm bóng những ngày đã qua…
… rõ ràng không bao giờ thực hiện được nữa, “bóng những ngày đã
qua” đã bay luôn. Phạm Duy đã nhìn ra những buổi chiều đã xoay hướng, chẳng có
gì bắt phải nhìn mãi về phía quê nhà, và cũng đã chuyển làn khói ấm hương thôn
ra thành tình ngàn phương, biến tình yêu đất nước thành tình đại dương rộng
rãi. Con người thành người phiêu lãng, chứ không còn của một mảnh đất thân yêu
cố định. Phiêu lãng là phiêu lãng đối với quê hương đã mất…”
[*Người
viết ấy chính là nhà văn nhà báo Phạm Xuân Đài, tác giả bài Giấc Hương Quan (trong
cuốn tùy bút Hà Nội trong mắt tôi xb 1994) mà Phạm Duy
trích dẫn trong bức thư này. Và PXĐ cũng. đã viết bài “Cái
Chết Trong Ca Khúc Phạm Duy” đăng trên báo Thế Kỷ 21 khiến Phạm Duy cảm
hứng làm một chuỗi video giới thiệu và diễn giải các ca khúc của Phạm Duy liên
quan tới chủ đề này:
https://www.youtube.com/watch?v=8uzseMiSGOo.
PXĐ là
người yêu mến và ngưỡng mộ nhạc Phạm Duy từ lâu. Khi nghe tôi đang viết về Chân
Dung Phạm Duy, PXĐ đã cung
cấp cho tôi tài liệu và anh cũng khuyên tôi chỉ nên viết những điều lớn lao của
Phạm Duy, hãy quên đi những chi tiết đời thường của ông. Ghi chú của người viết]
Duy mượn
những lời trên để nói với Khanh về một vấn đề dễ làm ta mủi lòng: quê hương!
Quê hương không chỉ là chùm khế ngọt mà thôi, quê hương trước hết là con người,
là bạn bè, là người tình… Con người Việt Nam bây giờ ra sao? Bạn bè của Duy còn
ai nữa đâu, nếu không tình cờ tìm ra Khanh thì có lẽ chỉ còn có Văn Cao là người
bạn duy nhất. Người tình (hiểu theo nghĩa là người yêu nhạc PD), thì họ đâu được
tự do nghe nhạc? Do đó, nếu chẳng bao giờ được trở về Việt Nam (vì lý do này nọ),
thì Duy cũng đã chọn làm người của ngàn phương từ lâu rồi.
Thôi
nhé, thư đã dài, hẹn thư sau. Mong thư Khanh. Chào Tố Uyên, Băng Thanh. Chúc
quý bà tất cả những điều tươi tốt./.
Phạm
Duy
…
Ba bức
thư Phạm Duy gửi người bạn kháng chiến Hoàng Thượng Khanh — cả hai nay đã là
người trăm năm cũ, không những là áng văn chương mà còn ghi lại những diễn biến
nội tâm rất trung thực và phức tạp của con người yêu nước là Phạm Duy.
Cũng qua mấy
bức thư ấy, để thấy rằng một Phạm Duy tuy nói thì như dỗi vậy thôi, nhưng ông vẫn
kiên nhẫn tìm cách “vượt mọi cửa ải”, mong chờ ngày được trở về Việt Nam. Phải
đến năm 2000, lần đầu tiên Phạm Duy mới được phép về thăm Việt Nam — để tự thân
ông quan sát thực địa. Và như kỷ niệm cho chuyến đi đó, khi Phạm Duy trở
về Mỹ, ông có ký tặng tôi bức ảnh khi ông đang đổ rượu trên mộ
nhạc sĩ Văn Cao, người bạn kháng chiến thân thiết của Phạm Duy thuở
nào.
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2022/07/1-11-312x420.jpg
Hình
15: trái,
Phạm Duy thăm mộ nhạc sĩ Văn Cao Mùa Xuân Năm 2000 với chai rượu
muộn màng: trong hình Phạm Duy đang đổ rượu trên mộ Văn Cao trong chuyến trở về
thăm Việt Nam lần đầu tiên. (Tư
liệu Ngô Thế Vinh)
Với tất cả
thận trọng và dĩ nhiên cả sự khôn ngoan – như một bản năng sinh tồn, trong suốt
5 năm sau đó, Phạm Duy tiếp tục các chuyến đi thăm dò, và sau khi có Nghị Quyết
36, và nhất là khi ký được một Hợp Đồng 20 năm [2005-2025] với Phan Thị
Lệ Giám đốc Công Ty Sách Phương Nam, Phạm Duy thấy có thể về sống được ở Việt
Nam, ông đã chính thức ngỏ lời xin về Việt Nam từ năm 2000. Câu trả lời từ Hà Nội
là phải chờ tới năm 2005. Và rồi thời điểm ấy cũng đã đến với Phạm Duy và gia
đình.
TIỄN PHẠM DUY HỒI HƯƠNG 01.05.2005
Sau ba
mươi năm sống ở Mỹ, tới tuổi 84, với chuẩn bị rất chu đáo cho một chọn lựa cuối
đời, Phạm Duy về sống hẳn ở Việt Nam. Trước ngày về của Phạm Duy, nhà báo Đỗ Việt
Anh, người rất yêu mến nhạc tâm linh của Phạm Duy – lúc đó đang là chủ nhiệm nhật
báo Người Việt, đã cùng bạn hữu tổ chức một buổi họp mặt ấm áp tiễn đưa Phạm
Duy.
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2022/07/1-12-630x420.jpg
Hình 16a: Thái Thanh, giọng ca vượt thời
gian, trong bao năm đã chắp cánh cho nhạc Phạm Duy bay bổng. Có thể nói, Thái
Thanh – Phạm Duy là một cặp đôi nghệ sĩ hoàn hảo. Thái Thanh với bó hoa đang
nói lời giã từ, tiễn nhạc sĩ Phạm Duy trước ngày hồi hương. (Photo by Huỳnh Tuấn Kiệt, tư liệu Đỗ
Việt Anh)
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2022/07/1-13-631x420.jpg
Hình
16b: Ban
tứ ca: Thái Thanh, Quỳnh Giao, Lệ Thu, Mai Hương hát tiễn đưa Phạm Duy trước
khi về Việt Nam ngày 01.05.2005 tại quán Nghệ Sĩ, Little Saigon và nay
thì Phạm Duy và toàn ban tứ ca đã là những người trăm năm cũ. [photo by Huỳnh Tuấn Kiệt, tư liệu Đỗ
Việt Anh]
PHẠM DUY “NGÀY TRỞ VỀ”
Thời tuổi
trẻ, có thể nói Phạm Duy đã có một cuộc sống hào hùng của một thanh niên dấn
thân yêu nước, ông đặt chân tới khắp miền đất nước từ Bắc vô Nam. Rồi với ba
mươi năm sống ở Mỹ, Phạm Duy đã có dịp đi trình diễn khắp 5 châu. Tới tuổi
84, Le Repos du Guerrier, Phạm Duy đã dứt khoát có một
chọn lựa không phải là không khó khăn với cả nhiều vật vã nội tâm: Phạm
Duy từ bỏ một cộng đồng Việt Nam hải ngoại yêu mến ông và chọn về sống những
năm cuối đời ở Việt Nam.
Khi đã an cư
lạc nghiệp nơi quê nhà từ 2005, Phạm Duy đã thích thú hồi tưởng lại “những
ngày sau 1975, đã có một tấm ảnh Phạm Duy “to tổ bố” — vẫn chữ của Phạm
Duy, được trưng bày trong khu bảo tàng Tội Ác Mỹ Nguỵ”, 28 Trần
Quý Cáp – cũng là địa chỉ trường Đại học Y Khoa Sài Gòn cũ năm nào. Chính quyền
mới lúc đó đã xem ông như kẻ phản bội kháng chiến và là biểu tượng cho nọc độc
của “Văn hoá Mỹ Nguỵ”.
[Riêng
với người viết, cuốn Vòng Đai Xanh viết về các sắc dân Thượng cũng bị kể là thứ
rác rưởi của tàn dư văn hoá Mỹ Nguỵ nên cũng “được” trưng bày trong đó.]
Nhưng rất
may mắn là mấy ngày cuối tháng Tư 1975, Phạm Duy có tên trong danh sách được
nhân viên CIA Ed Jones giúp di tản, qua Mỹ kịp thời. Và hơn ai hết, Phạm Duy hiểu
rất rõ rằng nếu kẹt ở lại, bị lùa vào trong các trại tù cải tạo cùng với bao
nhiêu ngàn văn nghệ sĩ miền Nam khác, thì Phạm Duy sẽ “đi đoong” — vẫn chữ của
Phạm Duy và chắc chắn là sẽ không có “Ngày Về” như hôm nay.
Như một
flashback, tưởng cũng nên trích dẫn trong bài viết này: mấy dòng bút ký của Phạm
Duy từ Guam một hòn đảo Mỹ trên Thái Bình Dương rất xa Việt Nam, và là chứng
nhân cho những giờ phút sụp đổ của Sài Gòn:
“Ngày
hôm nay cũng là ngày Saigon vừa được Bắc quân gọi là giải phóng. Giờ lịch sử đã
điểm. Một ông nằm cạnh tôi đang dò đài Saigon với cái máy radio nhỏ tí. Mọi người
trong phòng lặng lẽ kéo tới, khi nghe thấy có chương trình phát thanh về cuộc
thắng của Bắc quân và cái thua của Cộng Hoà Việt Nam. Tôi cảm thấy buồn bã vô
cùng! Chẳng nhẽ nằm đó và bịt tai lại, tôi vùng dậy, xuống thang ra khỏi chung
cư.
Bây giờ
tôi mới ý thức được rằng Guam là một hòn đảo. Tôi lững thững bước ra bãi biển.
Đứng trước cảnh trùng dương bát ngát, lòng tôi rất im lặng, dửng dưng. Tôi
không còn một chút rung động nào nữa trước cảnh biển cả mênh mông như những
ngày trước đây. Tôi không còn là tôi nữa rồi ! Quay lưng lại
biển, tôi lặng lẽ bước về chung cư.
Đi qua
phòng thông tin của trại, bỗng nghe từ các loa lớn phóng ra tiếng nói của một
xướng ngôn viên: — Tổng Thống Dương Văn Minh kêu gọi binh sĩ Cộng Hoà đầu hàng.
Tôi
càng buồn rầu hơn nữa, rảo bước về chung cư, ngồi bệt xuống sàn gỗ. Mọi người vẫn
vây quanh cái radio để nghe những tin tức liên quan tới ngày Bắc quân tiến vào
Saigon. Trong radio bỗng có tiếng Trịnh Công Sơn hát bài Nối Vòng Tay Lớn
với giọng hát thất thanh và với tiếng đệm đàn guitare rất là sai dây. Tôi chạnh
lòng nghĩ tới thân phận mình, nếu bị kẹt lại liệu mình có phải hành động như thế
không? [ngưng
trích dẫn, Hồi Ký PD tập 4]
Cũng
trong Hồi Ký PD tập 4 Phạm Duy viết:
“Từ trước
tới nay ‘người ta’ thường dùng đủ mọi cách để chia rẽ tôi và Trịnh Công Sơn,
nhưng không ai ngăn được tình đồng nghiệp giữa chúng tôi, dù có khi hai người
không có chung một quan điểm. Năm
1988, tình cờ Phạm Duy gặp lại Trịnh Công Sơn ở Paris, cùng Đặng Tiến,
chúng tôi rong chơi trên vỉa hè hay ngồi quán café tán gẫu. Tuyệt nhiên chúng
tôi không nói chuyện chính trị chính em, văn nghệ văn gừng gì cả… nhưng khi tôi
nhờ “người tình trẻ” mang về Việt Nam một cassette Mười Bài Rong Ca tôi vừa thực
hiện xong thì Sơn OK ngay. Do đó tâm sự “người tình già” đã được phổ biến ở
trong nước. Mùa Hè 2001, tôi có việc phải về Saigon, vài ngày sau đám tang Sơn,
tôi rủ Trần Văn Khê tới thắp hương trước bàn thờ anh, riêng tôi đã khấn ơn anh
ngày nào, thay mặt tôi đem Rong Ca về quê hương.” [Hết trích dẫn, Hồi
Ký PD 4]
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2022/07/1-14-673x420.jpg
Hình
17: Năm
1988, ngẫu nhiên Phạm Duy gặp lại Trịnh Công Sơn tại Paris, từ trái: Trịnh Công
Sơn, Phạm Duy, Đặng Tiến. Tư
liệu Phạm Duy
…
Bây giờ Khu
bảo tàng Tội Ác Mỹ Nguỵ đã đổi tên, là nhà Bảo tàng Chứng tích
Chiến tranh (War Remnants Museum), nơi vẫn còn trưng bày với các cỗ đại
bác, bom mìn, đạn dược trong đó có cả bom 7 tấn, bom CBU, cả xe tăng, máy bay
trực thăng, của Đế quốc Mỹ bỏ lại và cả những chuồng cọp kẽm gai biểu tượng cho
tội ác Mỹ Nguỵ đầy ải các chiến sĩ cách mạng, được mang về từ Côn Đảo và Phú Quốc,
đã trở thành một “tụ điểm nóng” của du lịch và tuyên truyền, với hàng trăm ngàn
khách thăm viếng mỗi năm.
PHẠM DUY VỚI NHỮNG ĐIỀU VIẾT VÀ NÓI RA
Từ Việt
Nam, qua các cuộc phỏng vấn, khi được hỏi về động cơ nào khiến Phạm Duy chọn về
sống ở Việt Nam, ông đã nói rất hùng biện và thuyết phục, Phạm Duy nhấn mạnh
ông lúc nào cũng là người Việt Nam nên chọn lựa đó chỉ là: lá rụng về
cội, cá lội về nguồn. Ông đem theo 1000 lời ca về tặng cho quê hương và sống
với những người yêu nhạc của ông bấy lâu.
Với đôi
chút dè dặt ban đầu, Phạm Duy nói về đây, ông sẽ chọn “làm thinh”, và nếu
có “ồn ào” thì chỉ là làm thương mại, ông làm theo yêu cầu của Công Ty Phương
Nam chỉ để bán CDs và bán sách.
Nhưng rồi
sau đó ông đã “không còn làm thinh” nữa mà mạnh dạn nói tới
nhiều điều. Người viết trích dẫn ra đây đôi lời của Phạm Duy từ hai cuộc phỏng
vấn cùng vào tháng Giêng 2012, để thấy một Phạm Duy rất nhất quán về những điều
ông nói ra, và không đưa ra thêm lời bình luận nào.
_ (1)
Cuộc phỏng vấn của TS Nguyễn Nhã với nhạc sĩ Phạm Duy ngày 12/01/2012, https://www.youtube.com/watch?v=9mS22Qu71EI
_ (2)
Cuộc phỏng vấn của 2 ký giả Eccetera và Vũ Hoàng Lân PhốBolsaTV.com với nhạc sĩ
Phạm Duy ngày 28/01/2012
https://www.youtube.com/watch?v=TBaGpXMqihQ
https://www.youtube.com/watch?v=0gMKBykyp8Y
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2022/07/1-15-696x511.jpg
Hình
18a: Chân
dung Phạm Duy 91 tuổi trong cuộc phỏng vấn của TS Nguyễn Nhã ngày 12/01/2012.
Phạm Duy đã chuẩn bị rất kỹ cho cuộc phỏng vấn này và đã đọc những điều đã được
ông ghi trước trên giấy.
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2022/07/1-16-696x464.jpg
Hình
18b: Phạm
Duy 91 tuổi trong một cuộc phỏng vấn khác của 2 ký giả Eccetera và Vũ Hoàng Lân
ngày 29/01/2012. Phạm Duy khen ngợi và cũng cho biết ông là khán giả thường
xuyên của đài PhốBolsaTV.com từ ngày về sống ở Việt Nam.
[Ghi
Chú của Người viết: Hai
cuộc phỏng vấn Phạm Duy, với thời lượng đã hơn hai tiếng đồng hồ, chỉ làm công việc trích dẫn đôi câu nói của Phạm
Duy có thể không hoàn toàn đúng với ngữ cảnh, khiến có thể có những suy diễn bất
lợi và cả không công bằng với Phạm Duy, vậy đề nghị với bạn đọc bỏ ra thời gian
để xem / nghe trọn vẹn từng lời nói của Phạm Duy từ hai cuộc phỏng vấn ấy – tiếng
Anh gọi đó là: Phạm Duy In His Own Words – trên cả hai YouTube với đường dẫn /
links đã ghi ở trên.].
Đôi Dòng trích dẫn:
_ Nói về
người Việt tỵ nạn đang sống ở hải ngoại
Phạm Duy
khi nói về người Việt Nam hải ngoại, về sự chia rẽ của cộng đồng tỵ nạn ấy,
cũng là nơi Phạm Duy chung sống với họ 30 năm. Và nay từ căn nhà ba tầng
trong cư xá Lê Đại Hành, Quận 11 được Công Ty Phương Nam cung cấp, ông nói về họ
như sau: “Đúng là chưa đỗ ông nghè đã đe hàng tổng, họ mới tới Mỹ,
không một xu dính túi, còn ăn tiền trợ cấp mà đòi chống cộng cái gì, có tổ chức
hội đoàn nào có được tới 4 người đâu, 3 là cùng.”
Với những
người còn giữ trong lòng mối hận thù cộng sản, Phạm Duy nói với họ như một lời
khuyên là: “Phải biết cám ơn, phải biết xin lỗi, và phải biết quên!”
Với tướng Nguyễn Cao Kỳ từng là thông gia của Phạm Duy, ông khen: “Ông Kỳ can đảm,
đã từng là Phó Tổng Thống mà biết hạ mình khi quyết định về Việt Nam”. Phạm Duy
còn nói tới khả năng là nếu một chính phủ “hoà hợp” trong tương lai và ông Kỳ
có thể sẽ đại diện cho cộng đồng hải ngoại tham gia chính phủ ấy.” [sic]
Đọc lại
Tập 4 Hồi Ký Phạm Duy để thấy: một Phạm Duy trong suốt 2 thập niên đầu sống ở hải
ngoại, ông đã rất tích cực hoà mình tham gia các phong trào chống Cộng cùng với
cộng đồng người Việt tỵ nạn, ông phổ nhạc các bài thơ của Cao Tần Lê Tất Điều,
phổ 20 bài Ngục Ca rất nổi tiếng của “ngục sĩ” Nguyễn Chí Thiện, hợp tác với
Phong trào Kháng Chiến Hoàng Cơ Minh đi trình diễn văn nghệ khắp năm châu.
[PhamDuyHoiKyIV.pdf]
_ Nói về
Nghị Quyết 36 và chính sách hoà hợp hoà giải của Hà Nội
Phạm Duy
nhắc tới NQ36, ông tâm đắc với Thứ trưởng Ngoại Giao Nguyễn Thanh Sơn về chính
sách hoà hợp hoà giải, và đó cũng chính là động lực khiến ông tin tưởng quyết định
xin về sống ở Việt Nam. Ông xin hồi tịch, và hãnh diện với tấm thẻ CMND (Chứng
Minh Nhân Dân) và Hộ khẩu mà ông được cấp một năm sau, và ông sung sướng với mỗi
bài hát của ông khi được nhà nước cho phép hát.
Ra thăm Hà
Nội, Phạm Duy ca ngợi một Hà Nội đời sống hết sức tiến bộ, nhà cửa nguy
nga, “đó là điều tôi rất vui”; [2] và cả
với một Sài Gòn phát triển, ông khen khu Sài Gòn Mới như Phú Mỹ Hưng với nhà cửa
đẹp hơn cả ở bên Mỹ, khen một đất nước mà nay người dân đã được ăn no mặc đủ và
cách tiêu tiền ở Việt Nam còn hơn cả ở Mỹ. [sic] Và người ta cũng được biết là
sinh nhật của ông đã có lần được tổ chức ở nhà ông Lê Thành Ân, người Mỹ gốc Việt
từng là Tổng Lãnh Sự Sứ Quán Mỹ ở Sài Gòn. Môi trường sống của Phạm Duy ngày
nay đã không còn là với Bà Mẹ Quê, Em Bé Quê mà là với xã hội
trên cao.
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2022/07/1-8-768x347.png
Hình 19: Phạm
Duy và gia đình được tuyên thệ vào quốc tịch Mỹ từ cuối 1984. Về Việt Nam năm
2005, ông xin hồi tịch, và chính nhà thơ Nguyễn Quốc Thái, rất yêu Phạm Duy đã
giúp nhạc sĩ Phạm Duy đi làm sổ Hộ khẩu và thẻ CMND một năm sau đó. Nhưng Phạm
Duy vẫn giữ “passport” với quốc tịch Mỹ, nên ông đã “nói đùa” với TS Nguyễn
Nhã, người phỏng vấn ông ngày 12/01/2012 là: “Nếu Trung Cộng có đánh tới Nha
Trang, thì ông vẫn có thể trốn vào Toà Đại Sứ Mỹ vì ông vẫn còn là công dân Mỹ. [sic]
[nguồn: Hồi Ký PD Tập 4, và tư liệu Nguyễn Quốc Thái]
_ Nói về
mối đe doạ từ Trung Quốc và đại hoạ Biển Đông
Phạm Duy
khen chính sách ngoại giao khôn ngoan của nhà nước cộng sản khi Việt Nam phải sống
“dưới nách” của Trung Quốc. Theo ông, hiểm hoạ Việt Nam trở thành thuộc quốc và
mất các quần đảo Hoàng Sa – Trường Sa qua cuộc chiến tranh là không có và ông
tin vào các hội nghị thương thuyết giữa các nước. Nếu ai vội vã chống đối có thể
gây trở ngại cho giải pháp hoà bình và Phạm Duy có nhắc tới phản ứng “nóng nảy”
của Cù Huy Hà Vũ*, con trai của Huy Cận bạn ông thuở nào.
[*Cù
Huy Hà Vũ 2011 đã công khai lên tiếng phản đối đường lưỡi bò 9 đoạn của Trung
Quốc trong đó bao gồm cả Hoàng Sa – Trường Sa, ghi chú của người viết]
Rồi bằng một
giọng nói khinh bạc / cynical Phạm Duy còn nói thêm với Nguyễn Nhã, người đang
phỏng vấn ông: “Giả sử như Trung Quốc có đánh đến Nha Trang, thì tôi —
Phạm Duy vẫn còn có thể trốn vào toà Đại Sứ Mỹ, vì tôi vẫn còn Passport với quốc
tịch Mỹ.” [sic] [1]
_ Nói về
Tạ Tỵ người bạn chí cốt chí thân 42 năm sau
Mùa Thu
năm 1970, khi được biết Tạ Tỵ viết một cuốn sách về Phạm Duy, ông đã có một bức
thư viết tay hai trang gửi Tạ Tỵ, nói lên nỗi xúc động của mình. Trích dẫn:
“Gửi Tạ
Tỵ thân mến,
Thật là
cảm động và cũng thật là ngượng ngùng khi biết rằng Tỵ sẽ dành một cuốn sách
cho cái mặt mẹt này, sau khi đã viết xong 10 khuôn mặt cao quý của làng văn nghệ
nước ta.
Cảm động
vì trong cơn hoả mù hiện tại, ít ra cũng có một người muốn soi sáng đến tận
cùng con người và sự nghiệp Duy, nhất là người đó lại là Tỵ, từ thuở tiền kháng
chiến, trong kháng chiến, hậu kháng chiến và trong những ngày sắp tàn cuộc chiến
này, lúc nào cũng gần mình, hiểu biết mình, kể cả cái hay lẫn cái dở…” [Phạm Duy Còn Đó Nỗi Buồn, do
Văn Sử Học của Nguyễn Nhã xuất bản, 1971]
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2022/07/1-9-768x368.png
Hình 20a: trái,
bìa sách Phạm Duy Còn Đó Nỗi Buồn của Tạ Tỵ (Nxb Văn Sử Học,
1971), giữa: chân dung Tạ Tỵ tự hoạ; phải, bìa sách Phạm Duy Đã Chết
Như Thế Nào của Nguyễn Trọng Văn (Nxb Văn Mới,1971). Tư
liệu của Thành Tôn
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2022/07/1-10-768x350.png
Hình 20b: từ
trái, Ký hoạ Phạm Duy qua Tạ Tỵ 1970; Phạm Duy với hai trang thư viết tay cảm
ơn Tạ Tỵ đã viết cuốn sách Phạm Duy Còn Đó Nỗi Buồn. Trích
từ cuốn sách Phạm Duy Còn Đó Nỗi Buồn, do Văn Sử Học của Nguyễn Nhã
xuất bản,1971
Nhưng rồi
42 năm sau lần xuất bản đầu tiên cuốn Phạm Duy Còn Đó Nỗi Buồn,
7 năm sau ngày Phạm Duy trở về sống ở Sài Gòn – ở tuổi 91, ông đã nói rất khác
về Tạ Tỵ, người bạn chí cốt chí thân của ông từ tuổi thanh xuân thuở nào. Khi
TS Nguyễn Nhã cầm trên tay cuốn sách Tạ Tỵ viết về Phạm Duy do chính Nxb Văn Sử
Học của Nguyễn Nhã xuất bản 1971, thì Phạm Duy với giọng bỉ thử gọi đó là Nỗi
Buồn Cười hay Nỗi Buồn Nôn, và rồi nhận định: Cuốn sách ấy viết
quá dở, không trách được vì ông ấy làm Tâm lý chiến, nên chỉ viết được thế
thôi.
Cũng vẫn từ
miệng Phạm Duy nói với Nguyễn Nhã: Tạ Tỵ là người nói láo khi kể lại
những ngày đi tù cải tạo khi viết cuốn sách… *[Phạm Duy thì không
nhớ tên cuốn sách ấy, nhưng ai cũng biết đó là cuốn hồi ký Đáy Địa Ngục,
Thằng Mõ xuất bản, 1985] [1]
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2022/07/1-17-696x543.jpg
Hình 21: Hình
bìa cuốn sách Đáy Địa Ngục, Thằng Mõ xuất bản ở hải ngoại 1986. Là
cuốn hồi ký viết về 6 năm tù cải tạo của của Tạ Tỵ. Không rõ Phạm Duy có đọc cuốn
sách này chưa nhưng Phạm Duy đã lên án: Tạ Tỵ là người nói láo khi kể lại
những ngày đi tù cải tạo khi viết cuốn sách… Tạ
Tỵ là bạn cố tri của Phạm Duy và đã mất trước đó 7 năm (2004).
Sau 1975,
Tạ Tỵ không được may mắn như Phạm Duy được CIA đưa đi, ông bị bắt đi tù cải tạo
6 năm, hồi ký Đáy Địa Ngục ghi lại kinh nghiệm Tạ Tỵ đã trải
qua trong những năm tháng nghiệt ngã tù đày với lao động khổ sai “ăn
không đủ no, đói không đủ chết.” Ra tù 1981, khi gặp lại Lê Ngộ Châu tại
toà soạn Bách Khoa cũ, Tạ Tỵ chỉ còn là một hình hài tàn tạ với đầu bạc răng
long. Tạ Tỵ sau đó đã can đảm vượt biên, lần thứ hai mới tới được đảo Pulau Bidong,
Mã Lai và cuốn hồi ký Đáy Địa Ngục đã được Tạ Ty viết ngay từ ngày đặt chân
trên đảo. [Tuyển Tập II Chân Dung Văn Học, Ngô Thế Vinh, Việt Ecology Press
2022]
Lịch sử
cận đại Việt Nam, rồi ra vẫn còn đó một “cuốn sách trắng” về quần đảo
ngục tù Việt Nam từ Nam ra Bắc sau 1975, nơi đày ải bao nhiêu nhà văn,
nhà báo, nghệ sĩ miền Nam, và không thiếu người là bạn hoặc nếu không cũng đồng
trang lứa với Phạm Duy, họ đã bị chết rũ trong tù như
Hiếu Chân Nguyễn Hoạt,
Nguyễn Mạnh Côn, Hoàng Vĩnh Lộc, Phạm Văn Sơn, Trần Văn Tuyên, Trần Việt Sơn,
Vũ Ngọc Các, Anh Tuấn Trần Tuấn Phát, Dương Hùng Cường… hay vừa ra khỏi tù thì
chết như Vũ Hoàng Chương, Hồ Hữu Tường.
Và nay,
trên báo chí trong nước, lại thấy ảnh Phạm Duy cùng mấy người con đang trở lại
quê nhà, để một lần nữa đi trên Con Đường Cái Quan ngày nào.
Và từ trên những sân khấu chói loà ánh sáng từ Sài Gòn ra tới Hà Nội, là hình ảnh
Phạm Duy hoàn toàn khác, vẫn với mái tóc bạc phơ, khi nói thì cầm giấy đọc, và
rồi tay ôm những bó hoa nhiều màu giữa những tiếng vỗ tay của khán giả.
PHẠM DUY: MỘT TÀI NĂNG LỚN VÀ NHÂN CÁCH
Sau 30 năm
sống ở Mỹ, trong tình yêu thương của cộng đồng người Việt ở hải ngoại, nay Phạm
Duy chọn về sống ở Việt Nam, đó là quyền của ông, cần được mọi người tôn trọng.
Và như ước nguyện, ông được sống và chết ở Việt Nam.
Sự nghiệp
âm nhạc lớn lao của Phạm Duy thấm đẫm “Tình Quê Hương” đã
in sâu vào tâm khảm nhiều thế hệ. Phạm Duy hiện diện như một tượng đài uy nghi
trong nền âm nhạc cận đại của Việt Nam. Thế hệ này và cả những thế hệ sau sẽ vẫn
hát một số những bài ca của Phạm Duy.
Giới trẻ
thì muốn tìm tới Phạm Duy như một thần tượng, họ không chỉ ngưỡng mộ tài năng lớn
của Phạm Duy, họ còn ao ước thấy một nhân cách lớn nơi ông. Nhưng rồi họ ngộ ra
rằng Phạm Duy không có được cả hai.
Cùng với
nhiều văn nghệ sĩ khác, Phạm Duy đã rất sớm rời bỏ kháng chiến để về
thành, với lý do chính đáng là không chấp nhận một nền văn nghệ chỉ huy của những
người cộng sản, và bảo vệ quyền tự do sáng tạo.
Với cảm
hứng và có tự do, Phạm Duy đã sáng tác những bài ca bất hủ từ nốt nhạc tới ca từ. Nhưng rồi qua thời gian, qua từng
thời kỳ, người yêu nhạc Phạm Duy không tránh khỏi ngạc nhiên khi thấy “ông
đã tự kiểm duyệt mình”, ông sửa lời ca gốc của những bài hát viết trong thời
gian kháng chiến sao cho hợp cảnh hợp thời. Ai đã từng theo dõi từng
bước chân đi của Phạm Duy, không thể không rất lấy làm tiếc nhiều khi họ cũng
đã bị lạc lối.
Nhạc sĩ Phạm
Duy có đủ tuổi thọ để sống qua hai thế kỷ, trải qua mọi hoàn cảnh, “khóc
cười theo vận nước nổi trôi”.
Không ai
có thể nghĩ Phạm Duy không hiểu cộng sản, chỉ có thể nghĩ ở những năm cuối đời
với tuổi tác, sự phán đoán của ông không còn sắc bén nữa. Để rồi vẫn thấy đó, một
Phạm Duy của đời thường, theo tất cả cái nghĩa “trần ai” của một kiếp nhân
sinh. Không nói tới cuộc đời tình ái đa đoan của Phạm Duy vì đó là phần đời tư
của ông cần được tôn trọng, người viết chỉ đề cập tới ở đây một Phạm
Duy của quần chúng và những gì liên quan tới sự nghiệp sáng tạo của ông.
Khi viết về
chân dung Phạm Duy, để thấy rằng một Phạm Duy có nhiều chân dung trong
các giai đoạn cuộc đời nghệ sĩ của ông. Phạm Duy luôn luôn khẳng định ông là một
nhạc sĩ, một người Việt Nam, không quan tâm tới chuyện chính trị. Nhưng
điều rất nghịch lý là vào giai đoạn cuối đời, với sự nghiệp đã to tát đến như
thế Phạm Duy lại chọn trở về sống trong một đất nước vẫn chưa có tự do, vẫn có
đó một nền văn nghệ chỉ huy – Phạm Duy đã chọn một cuộc sống an phận với cảnh “chim
hót trong lồng”. Không ai ép buộc ông, nhưng ông đã tự nguyện nhiều
lần có những phát biểu mang màu sắc chính trị, mang tính cách “xuôi dòng”, khiến
ngay cả những người vốn yêu mến và luôn luôn bênh vực ông cũng đã phải sượng
sùng đến chau mày.
Sau khi Phạm
Duy mất, không ít những bài nhạc của Phạm Duy vẫn còn bị cấm kỵ. Việt
Nam Việt Nam là bài rất tâm đắc của Phạm Duy — được ông nhắc tới
năm 2012, tuy đã xin phép nhưng lúc đó vẫn chưa được phê duyệt. Lý do thầm kín,
mà “bên thắng cuộc” không bao giờ muốn nghe, là đã có nhiều người nghĩ tới là
bài hát này có thể được chọn làm bài quốc ca cho một đất nước Việt Nam tương
lai có dân chủ.
Phạm Duy đã chết, con bài Phạm Duy, một sản phẩm của
NQ36 đã chết theo ông.
Tuy không có văn bản chính thức, nhưng dường như đã có một chỉ đạo từ trên cao
là từ nay tên tuổi Phạm Duy không còn được ồn ào nhắc tới nữa, sách của Phạm
Duy / bộ Hồi Ký đồ sộ 4 tập hay các sách viết về Phạm Duy cũng không dễ dàng có
được giấy phép xuất bản sau khi Phạm Duy mất.
CUỐN SÁCH ẢNH PHẠM DUY NGÀY VỀ (2005-2013)
Một ví dụ
điển hình là cuốn sách ảnh của nhiếp ảnh gia Nguyễn Phong Quang, với nhan đề Phạm
Duy Ngày Về, cho dù trước đó đã được Nxb Trẻ nhận in, và
dự định phát hành nhân kỷ niệm ngày giỗ đầu của Phạm Duy 28/01/2014 nhưng cho đến
nay, tám năm sau (2022) sách vẫn không được cấp phép xuất bản mà không nêu
bất kỳ lý do nào.
Nguyễn
Phong Quang tuy là nhiếp ảnh gia tài tử, nhưng chụp hình rất đẹp, do anh rất
ngưỡng mộ và có niềm say mê âm nhạc của Phạm Duy, nên ngay khi Phạm Duy trở về
Việt Nam Nguyễn Phong Quang đã theo sát bước chân Phạm Duy và có thể nói Nguyễn
Phong Quang là người duy nhất sở hữu một bộ ảnh đầy đủ về 13 năm cuối đời của
nhạc sĩ Phạm Duy từ khi đặt chân trở lại Việt Nam cho tới khi Phạm Duy mất trên
giường bệnh.
Người am
hiểu tình hình trong nước đã đưa ra nhận định: “Những năm sau
ngày Phạm Duy mất, có một chủ trương không qua văn bản,
là không cho phép xuất bản các tác phẩm mới nào
liên quan đến Phạm Duy! Dường như họ “dùng Phạm Duy” cho
một giai đoạn gọi là “cởi mở” đã đủ, nay không cần nữa nên thôi! Bên
cạnh đó, còn có vài nhân vật lãnh đạo văn hoá thành phố vẫn
không muốn các tác phẩm của Phạm Duy đứng bên cạnh tác phẩm của họ,
không muốn mọi người tung hô, xưng tụng Phạm Duy nhiều hơn họ…”
PHẠM DUY VÀ NHỮNG CHÂN DUNG
Phác thảo
chân dung một con người sống động như Phạm Duy không phải là điều dễ dàng. Sẽ
không thể thụ động quan sát Phạm Duy chỉ ở một góc nhìn mà phải qua nhiều góc cạnh
để thấy được những khuôn mặt khác nhau của ông. Các mảng khác nhau ấy nếu kết hợp
có thể tạo ra được hơn một bức chân dung có thần. Nói theo ngôn từ hội hoạ của
Tạ Tỵ thì đó là: “chiều thứ tư / 4ème dimension”
còn gọi chiều động trong kỹ thuật tạo hình của trường phái lập thể. Theo nghĩa
đó, sẽ không có duy nhất một chân dung Phạm Duy – mà có những chân dung Phạm
Duy luôn luôn biến dạng và cả đổi màu theo thời gian.
Một Phạm
Duy đã sống qua hai thế kỷ, ông cưu mang tất cả sức nặng của tấn thảm kịch đất
nước bốn ngàn năm thăng trầm — cả tấn bi kịch của một con người Việt Nam: vừa lớn
lao và nhỏ nhoi, vừa đẹp đẽ và cả xấu xí.
Phạm Duy mất
ở tuổi 92, qua câu thơ của thi hào Nguyễn Du: “thác là thể phách còn là
tinh anh,” tinh anh ấy là gia tài âm nhạc đồ sộ của Phạm Duy, để rồi
qua đãi lọc của thời gian, của “tam bách dư niên hậu”, sẽ chỉ
còn lại những giai điệu bất tử, thanh thoát bay bổng với thấm đẫm tình
quê hương, mang theo cả một phần hồn của dân tộc. Chúc ông an nghỉ
ngàn thu trong lòng đất mẹ có tên thiêng liêng là Việt Nam – hay còn gọi là quê
nhà.
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2022/07/1-11-696x308.png
Hình 22: trái, Tượng
đồng nhạc sĩ Phạm Duy do điêu khắc gia Nguyễn Văn Anh, sáng tác dựa
trên bộ hình của nhiếp ảnh gia Nguyễn Phong
Quang và với chỉ dẫn của Duy Cường, con trai Phạm Duy; phải, chữ viết của
Phạm Duy được khắc trên tấm bia mộ là câu mở đầu của bản Tình Ca: “Tôi
yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời người ơi.” Photo by Nguyễn
Phong Quang
THAY CHO MỘT KẾT TỪ
Ngày mất
của Phạm Duy 27/01/2013, nhà thơ Trần Mộng Tú trong niềm cảm xúc đã viết “Lời
Cám Ơn Nhạc sĩ Phạm Duy”, tuyệt vời như một bài thơ, gói ghém toàn sự nghiệp của
Phạm Duy. Nay được phép của Chị Trần Mộng Tú, người viết xin trích đăng ở đây
bài thơ xuôi ấy, như một Kết Từ cho bài viết Chân Dung Phạm Duy.
Trần Mộng Tú – Lời Cám Ơn Nhạc sĩ Phạm Duy
Trên mười
ngón tay anh chẩy xuống ngàn ngàn dòng lệ long lanh ngũ sắc, bật lên những tiếng
cười hoan ca cho dân tộc Việt.
Anh viết những dòng sử Việt bằng âm nhạc, anh bắn những nốt nhạc thay đạn vào
suốt chiều dài của cuộc chiến ngoại xâm.
Anh nhắc
nhở công ơn tổ tiên, anh hùng dân tộc mỗi ngày trên môi người Việt.
Anh
khóc cười bằng nốt nhạc lời ca cho tình yêu, con người, quê hương, dân tộc,
Anh
băng bó vết thương trong chiến tranh, anh đốt lửa tìm kiếm hòa bình.
Anh
vung tay, mây trôi như lụa giũ, nước như thủy tinh vỡ, anh khắc hình cha Lạc
Long Quân vào núi, núi không còn là đá, anh thả tình mẹ Âu Cơ xuống biển, biển
không còn là đại dương.
Ngôn ngữ
trong những ca khúc của anh trong suốt, lãng mạn, bát ngát tình tự dân tộc, đẹp
như những viên ngọc trắng, trong như những giọt nước mưa.
Anh lên
rừng, rừng thay lá, anh xuống suối, suối khóc òa. Bằng âm nhạc, bằng tình tự
dân tộc anh đi từ Ải Nam Quan đến mũi Cà Mau suốt cuộc đời mình không ngơi nghỉ.
Tình
yêu quê hương trong ca từ của anh làm cho cả người hát và người nghe ứa lệ.
Ở những
vết thương anh cho máu chẩy thành mật ong, đám khói là hơi thở của mái nhà, em
bé là con trâu, cái áo rách, cái bếp lửa là mẹ, củ khoai, bát nước chè là những
người con.
Ngôn ngữ
Việt dưới ngón tay anh trở thành Tiếng Nước Tôi thiêng liêng của dân tộc. Anh
mang những tinh hoa của ngôn ngữ Việt tặng cho người Việt.
Âm nhạc
lời ca của anh ngập tràn tình yêu thương người Việt, nước Việt.
Trong
tình yêu đôi lứa của nhân gian anh cho cô tiên hiện xuống giữa đời, cỏ hồng mọc
trên những sườn non không bao giờ úa, anh rùng mình hạnh phúc bằng âm giai.
Anh
thanh, anh tục, anh thiền, anh đập phá bằng âm nhạc.
Anh uống,
anh ăn, anh thở, giữa âm điệu và lời ca.
Anh sống
đời mình trong mỗi phân vuông của cuộc đời bằng âm nhạc, anh chưa để lãng phí một
giây phút nào của cuộc sống.
Anh để
lại cho đồng chủng anh, cho kho tàng âm nhạc của dân tộc Việt một khối gia tài
không một ngoại bang nào chiếm đoạt được.
Anh là
một món quà quý giá mà cuộc tiến hóa của bao đời tổ tiên Việt Nam đã đúc kết
nên và trao cho dân tộc vào thế kỷ 20.
Anh
sinh ra và nằm xuống trên quê hương mình, nước Việt Nam.
Xin gửi
anh một lời Cám Ơn Trân Quý.
TRẦN MỘNG TÚ 27/01/2013
*
NGÔ
THẾ VINH
Little
Saigon, 04/07/2022
-----------------------
THAM
KHẢO:
1/ Hồi
Ký Phạm Duy, Tập I, II, III. Nxb Phạm Duy Cường, [Tập IV bản PDF]
2/ Phạm
Duy Còn Đó Nỗi Buồn. Tạ Tỵ. Nxb Văn Sử Học, Saigon, 1970
3/ Ngàn
Lời Ca. Phạm Duy. Phạm Duy Cường Musica Production, 1987
4/ Vang
Vọng Một Thời. Phạm Duy. Công ty Sách Phương Nam, 2015
No comments:
Post a Comment