Từ
AUKUS nói về liên minh quân sự: Liệu Việt Nam đã bỏ diễn ngôn “không liên kết”?
CÁI LƯ HƯƠNG - LUẬT KHOA
24/10/2021
Các liên minh quân
sự không những chưa hết thời mà còn có dấu hiệu nở rộ.
Minh họa: Trend Research.
“Thứ duy nhất tồi tệ hơn việc xung đột vũ trang với
đồng minh là tham gia vào một cuộc xung đột vũ trang mà không có họ.”
(Winston Churchill)
[1]
*
Đồng minh quân sự và vấn đề đối tác chiến lược
giữa các quốc gia – dân tộc có chủ quyền luôn là một chủ đề khó kiểm soát. Từ
các thảo luận và tranh chấp chính trị nội địa, vấn đề chia sẻ trách nhiệm và
gánh nặng giữa các đồng minh, cho đến các mong muốn và tham vọng chiến lược
khác nhau, có vô vàn những yếu tố có thể làm ảnh hưởng và cản trở hệ thống đồng
minh đến mức khiến chúng đổ vỡ.
Hoa Kỳ là quốc gia tiên phong của North
Atlantic Treaty Organization (NATO – hay Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương),
khối liên minh quân sự to lớn và có tiềm lực nhất thế giới. Thời gian qua, nước
này tiếp tục dẫn đầu thành lập nên khối quân sự mới AUKUS (gồm Mỹ, Anh, Úc) tại
Ấn Độ – Thái Bình Dương. Sự ra đời của AUKUS cho thấy các nỗ lực và chính sách
quốc phòng của Hoa Kỳ luôn đi kèm với sự đồng thuận và ủng hộ tuyệt đối từ các
quốc gia đồng minh trong một khu vực địa lý cụ thể.
Trong bối cảnh đó, có lẽ đã đến lúc Việt Nam cần
xem xét và đánh giá lại chính sách “không liên kết”, vốn là tôn chỉ ngoại giao
lâu nay của Việt Nam. Bài viết bàn về các mặt lợi – hại của chủ trương này trên
lý thuyết.
Lợi ích quốc gia
trên hết? Học thuyết Washington về những “liên minh bất ổn”
Một trong những diễn ngôn thường được xướng
lên tại Việt Nam khi nói về vấn đề đồng minh trong ngoại giao là “không có kẻ
thù hay bạn bè mãi mãi, chỉ có lợi ích dân tộc là mãi mãi”. Ở một mặt nào đó,
đây có thể được xem là nền tảng cho tư duy không liên kết, không gắn chặt lợi
ích của Việt Nam với bất kỳ phe phái quốc tế nào.
Công bằng mà nói, không chỉ giới lãnh đạo Việt
Nam mới có cách nghĩ như vậy.
https://2xjs7y10oiyz26vqxu2hok6y-wpengine.netdna-ssl.com/wp-content/uploads/2021/10/image-36.jpeg
Ảnh minh họa: Ngoại
trưởng Mỹ Hillary Clinton và Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Phạm Bình Minh trong
một cuộc họp báo nhân chuyến thăm Việt Nam của bà Clinton năm 2012. Ảnh:
EPA/KHAM/POOL.
Các nhà lập quốc Hoa Kỳ, cách đây gần ba thế kỷ,
đã cảnh báo rằng những mối quan hệ đồng minh dây
mơ rễ má (entangling alliances) sẽ cuốn Hoa Kỳ vào những tranh chấp không hồi kết
dù chúng không phục vụ tối đa cho lợi ích quốc dân. [2] Đây là một trong những
lý do mà cựu Tổng thống Donald Trump liên tục đe dọa xét lại các mối quan hệ đồng minh với
toàn bộ châu Âu (qua NATO), với Nhật, với Hàn Quốc cũng như với Philippines.
[3] Ông này cho rằng Hoa Kỳ đang nhận quá nhiều phần thiệt chỉ để bảo đảm “an
toàn” cho các quốc gia đồng minh.
Chưa phán xét đến tính đúng đắn của cách tiếp
cận này, Donald Trump là một ví dụ điển hình cho thấy xung đột và tranh cãi
chính trị nội địa có thể đe dọa đến tính ổn định của hệ thống đồng minh trong
ngoại giao và quân sự quốc tế.
Quan điểm này cũng được thể hiện trong chính
sách được gọi là “The Washington Doctrine of Unstable Alliance” do Tổng
thống George Washington đề xuất. [4] Đúng như tên gọi, “học thuyết về liên minh
bất ổn”, ông cho rằng Hoa Kỳ không nên đầu tư quá sâu vào bất kỳ mối quan hệ
ngoại giao hay liên minh chính trị – quân sự nào, mà chỉ nên xem chúng là các
công cụ tạm thời và tự do rời bỏ chúng khi cần đặt lợi ích quốc gia lên trên.
Trong thư cáo biệt chính quyền liên bang, [5]
Washington để lại những gợi ý rõ ràng và đáng tham khảo về chính sách ngoại
giao và góc nhìn về các liên minh dù là quân sự, kinh tế hay chính trị:
1. Tránh việc xây dựng các liên minh bền vững (permanent alliance) với bất
kỳ phần nào của thế giới;
2. Luôn cẩn trọng “giữ mình” phòng thủ trong các liên minh tạm thời dù
chúng có thể có lợi cho quốc dân trong các tình thế khẩn cấp đặc biệt;
3. Sự đại đồng, hòa hợp và các liên hệ trên tinh thần cấp tiến với mọi quốc
gia – dân tộc nên được đề cao không chỉ về mặt lợi ích chính sách, mà còn vì
nhân loại nói chung.
Trong một thời gian dài, các nguyên tắc này được
các đời chính phủ Hoa Kỳ thực hiện qua chính sách không can thiệp
(non-interventionism) tương đối nhất quán, đặc biệt trong các vấn đề có liên
quan đến chính trị châu Âu trong suốt thế kỷ 19 đến tận đầu thế kỷ 20, bao gồm
cả thời gian đầu của hai cuộc đại chiến thế giới.
Hành vi này có thể mang lại lợi ích cho Hoa Kỳ,
tuy nhiên, nó cũng cho thấy mặt trái của các liên minh tạm bợ vì lợi ích riêng
– không giá trị chung nào của nhân loại được bảo vệ. Điều này hoàn toàn ngược lại
với những gì mà Washington kỳ vọng.
Từ học thuyết liên minh bất ổn, chính trị thế
giới sản sinh thêm nhiều các hành vi khác như “hoán đổi liên minh” (reversal of
alliances) mà theo đó, các cựu đồng minh hoàn toàn có thể rời bỏ các giá trị,
tôn chỉ và lợi ích chung để theo đuổi các lợi ích riêng biệt vốn có thể có hại
lớn cho viễn cảnh bảo vệ quyền và lợi ích chung của các cộng đồng và toàn thể
nhân loại. Molotov–Ribbentrop
Pact (1939), hay Hitler-Stalin Pact, nhắm đến việc hòa hoãn giữa
Liên Xô và Đức Quốc xã và chia chác ảnh hưởng lãnh thổ tại Bắc Âu là một trong
những ví dụ điển hình thường được nhắc đến của “hoán đổi liên minh”. [6]
“Đường lối” của Washington ở một mức độ nào đó
dường như không còn hợp lý.
Đặt trong bối cảnh pháp luật quốc tế ngày một
phát triển, các giá trị phổ quát ngày càng được hiểu và được tiếp nhận trên
toàn thế giới, những liên minh quân sự nay không đơn thuần là vì lợi ích, mà
còn là nền tảng để bảo vệ các giá trị chung.
Và đối với các quốc gia nhỏ, bảo vệ được các
giá trị cấp tiến chung mới là bảo vệ chính mình.
Thời đại của liên
minh: hết thời hay cờ tới?
Trước tiên, người viết thừa nhận rằng hệ thống
liên minh quân sự chính trị đang áp đảo ngày nay vẫn có lợi cho một trật tự thế
giới thân phương Tây.
Sự bao phủ của NATO ở châu Âu và vùng Trung
Đông – Tây Á, và đến nay là AUKUS với kỳ vọng kết nối an ninh Đại Tây Dương –
Thái Bình Dương – Ấn Độ Dương, là một lời nhắc nhở cho
cả thế lực chính trị cựu thù (như Nga) hay mới nổi (như Trung Quốc), rằng họ đừng
làm điều gì dại dột bằng vũ lực với kỳ vọng hoán chuyển trật tự và thay đổi mô
hình “dĩ Âu vi trung”. [7]
Đây là một trật tự có lợi rõ ràng cho Hoa Kỳ
và các đồng minh thân thiết của họ.
Nhưng nó cũng không hẳn bất lợi cho Việt Nam.
Tổng thống Mỹ Joe
Biden, Thủ tướng Úc Scott Morrison và Thủ tướng Anh Boris Johnson cùng công bố
thành lập liên minh AUKUS vào ngày 15/9/2021. Ảnh: Getty Images.
Hệ thống các chuỗi cung ứng và lợi ích kinh tế
mà đồng minh Hoa Kỳ lẫn Hoa Kỳ đổ vào Việt Nam là động lực lớn nhất tiếp sức
cho sự phát triển của đời sống kinh tế lẫn xã hội Việt Nam.
Các can thiệp nhân quyền vừa phải và thông qua
con đường ngoại giao của Hoa Kỳ và các thiết chế nhân quyền phương Tây cũng từng
bước giúp nhiều nhóm quyền tại Việt Nam được thảo luận, được mở rộng và xem trọng
hơn, dù đó là quyền phụ nữ, quyền người đồng tính, quyền trẻ em hay các quyền
dân sự – chính trị nói chung.
Cũng cần nhớ, chính hệ thống “dĩ Âu vi trung”
này đã mang lại tiền bạc, kiến thức và các lợi ích thiết thực tạo nên sự trỗi dậy
của Trung Quốc từ thập niên 1980.
Công bằng mà nói, trật tự chính trị do phương
Tây dẫn đầu rõ ràng không loại trừ sự phát triển của các quốc gia Đông Á, Đông
Nam Á nói riêng và châu Á nói chung.
Mặt khác, các dự đoán về sự chấm dứt của thời
đại liên minh từ nhiều chuyên gia chính trị – quân sự thế giới dường như không
hề chính xác.
Ví dụ, trong nghiên cứu của nhà khoa học chính
trị người Pháp Bruno Tertrais có tên gọi “The Changing Nature of Military Alliances”, ông khẳng
định chắc nịch rằng các liên minh quân sự – chính trị đã lỗi thời, không còn chỗ
đứng. [8]
Theo ông, các quốc gia trong quá trình toàn cầu
hóa kinh tế đã không cần Hoa Kỳ như họ từng cần đến nước này trong quá khứ.
Tertrais cũng tranh biện rằng xung đột tại
Afghanistan, Iraq và Cuộc chiến chống khủng bố (War on Terror) là một trong các
nỗ lực của Hoa Kỳ nhằm duy trì vị trí dẫn đầu của mình trên mặt trận quân sự.
Và ông cũng bổ sung rằng bản thân chính quyền
Hoa Kỳ đang bắt đầu ưa thích các “liên minh mùa vụ” hơn (ad hoc alliance
– ý chỉ các liên minh quân sự được kêu gọi và hình thành trong từng mục tiêu cụ
thể).
Nhưng có vẻ các dự đoán của Tertrais đều không
như kỳ vọng.
Sự trỗi dậy kinh tế của Nga và Trung Quốc chỉ
đẩy mạnh thêm khát vọng chính trị toàn cầu của họ.
Nga tiếp tục quân sự hóa và đã tiến hành nhiều
chiến dịch quân sự tước đoạt lãnh thổ của các quốc gia liền kề, thổi hơi vào
gáy một châu Âu tưởng rằng họ rất bình an.
Trung Quốc thì chưa bao giờ thôi mộng tưởng về
một thế giới Đại Hán mới.
Từ sáng kiến Vành đai – Con đường, rồi đến
hàng loạt tham vọng lãnh thổ – chính trị (đã dẫn đến xung đột đổ máu) tại biển
Đông, tại Ấn Độ, v.v. hầu hết quốc gia láng giềng của người bạn lớn này có đầy
đủ lý do để phải lo lắng. Đây không phải lần đầu tiên trong lịch sử họ sống
chung với một anh Trung Quốc nhà giàu, và họ biết “anh ta” sẽ lại mơ mộng về một
thiên triều Đại Hán ra sao.
Trong bối cảnh đó, các liên minh quân sự và
chính trị ổn định, có hệ thống và theo đuổi những tôn chỉ chung do Hoa Kỳ dẫn đầu
lại trở thành thời thượng, thậm chí được cho là cần thiết.
NATO ngày càng mở rộng với nhiều dự án và thành viên mới. [9]
Trong khi đó, liên minh AUKUS vừa thành lập cũng đã được nhiều quốc gia trong
khu vực Ấn Độ – Thái Bình Dương, mà đặc biệt là Đông Á và Đông Nam Á, chào đón
nồng hậu.
***
Thật khó để nói chính quyền Việt Nam đương đại
có còn giữ nguyên tắc “không liên kết” của mình hay không.
Một mặt, họ liên tục trấn an Trung Quốc (và cả
thế giới rằng) Việt Nam sẽ không dùng lãnh thổ của mình làm bàn đạp để tấn
công nước khác, sẽ không tham gia các liên minh quân sự để đạt được mục tiêu quốc
phòng. [10]
Tuy nhiên, mặt khác, Việt Nam cũng tích cực
tham gia vào hàng loạt các hoạt động an ninh khu vực do Hoa Kỳ khởi xướng, gần
đây nhất là ký các thỏa thuận hợp tác quốc phòng song phương với đồng minh của
Hoa Kỳ trong khu vực, như thỏa thuận vừa ký với Nhật Bản vào tháng 9/2021 vừa qua. [11]
Chú thích
1. Forbes Quotes / https://www.forbes.com/quotes/10322/
2. The Competitive Advantages and
Risks of Alliances. (2019). The Heritage Foundation.
3. Holland, S. L. W. (2019, April
3). Trump says NATO countries’ burden-sharing improving, wants more.
U.S.
https://www.reuters.com/article/us-usa-nato-trump-idUSKCN1RE23P
4. Washington Doctrine of Unstable
Alliances. The Washington Doctrine of Unstable Alliances, sometimes called the
caution against entangling alliances, was an earl. (2020).
Ww.En.Freejournal.Org.
https://amp.ww.en.freejournal.org/47654341/1/washington-doctrine-of-unstable-alliances.html
5. Washington’s Farewell Address, 06TH
CONGRESS 2ND SESSION SENATE DOCUMENT NO. 106—21, WASHINGTON, 2000,
https://www.govinfo.gov/content/pkg/GPO-CDOC-106sdoc21/pdf/GPO-CDOC-106sdoc21.pdf
6. Roberts, G. (1992). The Soviet
Decision for a Pact with Nazi Germany. Soviet Studies, 44(1),
57–78.
http://www.jstor.org/stable/152247
7. BBC News. (2021, September 16). Aukus:
UK, US and Australia launch pact to counter China.
https://www.bbc.com/news/world-58564837
8. Bruno Tertrais (2004) The changing
nature of military alliances, The Washington Quarterly, 27:2, 133-150, DOI:
10.1162/016366004773097759
9. Widakuswara, P., & Herman, S.
(2021, September 2). NATO Reaffirms Strength of Alliance, Calls Out
Russia, China. VOA.
10. Phê phán ý kiến kêu gọi Việt Nam
liên minh quân sự để bảo vệ Tổ quốc – Tạp chí Quốc phòng toàn dân. (2020).
Tạp Chí Quốc Phòng Toàn Dân.
11. Japan, Vietnam sign defense
transfer deal amid China worries. (2021, September
12). AP NEWS.
No comments:
Post a Comment