Nghĩ vụn bên cốc cà phê sáng:
THOÁT MẶC CẢM HÁN-VIỆT
Nguyễn Hữu Nghĩa
Chữ và tiếng hán-việt là chữ Việt gốc Hán. Nhiều
vị chủ trương nên bỏ quách tất cả các chữ gốc Hán đi để giữ cho văn hóa Việt được
“độc lập”, ít nhất trong giai đoạn cần thoát Trung. Nghe thì rất phải, rất
đúng, rất yêu nước, nhưng có cần phải làm vậy không, làm được không và làm tới
mức nào?
Có cần phải loại trừ chữ và tiếng Việt gốc Hán
trong văn tự và ngôn ngữ Việt Nam không? Tôi nghĩ, chắc chắn là không. Lý do là
tuy gốc Hán nhưng nó đã trở thành chữ Việt, tiếng Việt, đọc theo lối Việt và chỉ
có người Việt mới hiểu được. Thí dụ tên tôi, Nghĩa, nếu tôi viết 義 theo phức thể hay 义 theo giản thể và đọc là
/yì/ theo quan thoại thì hầu hết người Tàu hiểu; nhưng nếu tôi viết “Nghĩa” và
đọc là /nghĩa/ thì chỉ có người Việt hiểu và người Tàu không thể hiểu. “Nghĩa”
đã là chữ Việt, không ai có thể đòi tại sao phải “trả” hay bỏ đi? Đa nghi một
chút, tôi có thể đặt hỏi: hay có âm mưu gì chăng? Mượn cớ yêu nước để huỷ hoại
phần lớn chữ và tiếng Việt hiện tại để dọn đường cho mai sau, thay vì “nghĩa”
thì phải viết义và đọc là /yì/ chăng?
Một lý do nữa để không cần bỏ chữ và tiếng
hán-việt, vì sẽ làm nghèo đi, rất nghèo, tiếng Việt. Các dân tộc trên thế giới,
từ những nước giàu mạnh đến những nước nhỏ yếu, đều du nhập tiếng nước ngoài để
làm giàu cho kho ngữ vựng. Người Nhật đã dùng “pasokon” để nhập “personal
computer”, intanetto để nhập “internet” hay “kamera” để nhập “camera”,.. họ có
mặc cảm gì đâu!
Có người nói, bỏ hết hán-việt để giữ cho văn
hóa Việt Nam được độc lập hoàn toàn.
“Để giữ cho văn hóa Việt Nam được độc lập hoàn
toàn”? Bỏ quách các chữ hán-việt đi thì câu này còn lại bốn chữ: “để, giữ, cho,
được” và phải tìm chữ nôm để thay “văn hóa”, “Việt Nam”, “độc lập”, “hoàn
toàn”.
Thay “độc lập” bằng “đứng một mình” thì tàm tạm
được; nhưng còn “văn hóa”? Văn học và giáo hóa? Học chữ và dạy chữ? “Văn hóa” rộng
hơn thế rất nhiều. Nếu phải cắt nghĩa cho đầy đủ e phải một câu dài, và nếu
trong khi không thể cắt nghĩa thật ngắn và không được dùng bất cứ một chữ
hán-việt nào thì tôi chịu thua! Lại còn “hoàn toàn” nữa, đã hết đâu! Chỉ riêng
một việc thay chữ “giải thích” bằng “cắt nghĩa”, tôi đã phạm lỗi hán-việt tới
phân nửa: còn vướng chữ “nghĩa” trong “cắt nghĩa”!
Nếu bỏ quách tất cả chữ hán-việt thì ngay cả
tên nước Việt Nam cũng sẽ không còn, và khoảng 95% tên người Việt cũng biến mất.
Tên họ tôi (Nguyễn Hữu Nghĩa) có thể tạm thay bằng “Gốc Có Phải”, nhưng tên của
rất nhiều vị khác có thể sẽ rất khó thay, thí dụ ký giả Sơn Tùng, thay “sơn” bằng
“núi” thì dễ, nhưng “tùng” (cây tùng) không có trong tiếng thuần Việt, làm sao
thay? “Sơn Tùng” thành ra “Cây …Gì Ấy Trên Núi” chăng? Dài quá, nghe không
xuôi!
Tên họ người Việt, bỏ bớt cái họ phiền phức
đi, chỉ giữ mỗi cái tên nôm như Tèo, Thơm, Bông, Được, Đủ, Giàu, Phải,.. cũng
không sao, đó là chuyện riêng của từng người; nhưng còn cả một kho văn học Việt
viết bằng chữ Hán và Nôm do người xưa để lại, sẽ ra tro ra khói! Cái kho đó lớn
lắm, có tới 20 thế kỷ xây dựng và hiện tại dân tộc Việt có thể là dân tộc duy
nhất phải đọc văn học cổ của nước mình qua bản dịch, chuyển ngữ từ hán nôm sang
chữ viết bằng mẫu tự la-tinh (và ngay trong mẫu tự la-tinh cũng có chữ /y/ của
Hi Lạp, ai đô hộ ai đây?) Chúng ta đã chuyển đổi được bao nhiêu phần trăm từ
cái kho đó để hiểu rõ hơn về văn hóa, bản sắc dân tộc? Và bây giờ làm giùm giặc
Tàu xâm lược cái việc phế bỏ tất cả chăng?
Trước kia, mỗi khi cướp được nước ta, giặc Tàu
vừa đốt vừa khuân về nước họ khá nhiều; đó là tội ác nhân văn của giặc. Khi cộng
sản thoạt đầu chiếm được nửa nước, rồi chiếm luôn cả nước Việt Nam, đã dùng
nhãn hiệu “bài trừ văn hóa đồi trụy, phản động” để đốt thêm một mớ nữa. Nay tới
phiên chúng ta, khêu gợi lòng yêu nước và lòng tự hào dân tộc để đốt tiếp những
gì còn sót lại chăng? Chắc chắn là không!
Nên nhớ, văn hoá của nhân loại ngoài tính cách
tự phát, còn do sự giao lưu giữa các sắc tộc, các vùng địa lý và quốc gia.
Trong tiếng Việt hiện dùng, có bao nhiêu tiếng gốc Quảng Đông (vùng biên giới
phía Bắc), Triều Châu (cực Nam), tiếng Mường, Mèo, Thái, Chàm, Miên, Pháp, Mỹ
và bây giờ Hàn, Nhật.
Chúng ta thoải mái dùng a xít (acide), ba tê
(pâté), ban công (balcon), (nhà) băng (banque), bê tông (béton), bi da
(billard), bia, la ve (bière), bơ (beurre), búp bê (poupée), ca cao (cacao), cà
nông (canon), cà phê (café), cà rốt (carotte), cà vạt (cravate), kem (crème), mỏ
lết (molette), xúc xích (saussisse), ra dô (radio), xe tăng (tank), tắc xi
(taxi), tôn (tôle), rượu vang (vin), xà lách (salade), xà phòng, xà bông
(savon), xích lô (cyclo), xì líp (slip), xăng (essence), găng tay (gants), áo
sơ mi (chemise), (áo) vét (veste, veston),.. mà không cần để ý tới gốc Pháp của
nó.
Chúng ta hồn nhiên dùng bồi (boy), cao bồi
(cow boy), câu lạc bộ (club), cúp (cup), phim (film), phông (fond), ti vi
(TV),.. mà không có mặc cảm thần phục người Anh, Mỹ.
Ở miền Tây Nam phần, chúng ta nói “tía, số,
hia, chế,..” mà không để ý kỳ thị các chữ “gia, tẩu, huynh, tỷ,..” phát âm theo
Triều Châu.
Trong bộ chữ mà người Nhật dùng hiện nay vẫn
có 1945 chữ Hán. Người Hàn sáng chế ra bộ mẫu tự Hàn, nhưng trong đó vẫn có
2000 chữ hán-hàn (chữ Hàn gốc Hán). Đó là hiện tượng giao lưu văn hóa.
Có khá nhiều từ (hơn một chữ) rõ ràng là hán-việt,
tách ra từng chữ mà tra thì là chữ hán, nhưng ghép thành đôi thì tra mờ mắt
trong các từ điển Hán, không thấy. Hóa ra phần lớn đó là chữ hán-việt, do người
Việt lấy chữ Hán ghép lại mà dùng, như vô tuyến truyền hình (Tàu nói là điện thị),
thủ tướng (Tàu nói là tổng lý), thành phố (Tàu nói là đô thị); còn phi công, sĩ
diện,.. viết ra chữ Tàu đưa cho họ coi, họ lắc đầu, chẳng hiểu mô tê chi cả! Một
số chữ khác, sau khi đi qua ải Nam quan thì dần dần biến nghĩa. Tàu nói “phương
phi”, nghĩa là “thơm tho” thì ta dùng với nghĩa “béo tốt”; Tàu nói “bồi hồi” với
nghĩa “đi đi lại lại” thì ta dùng với nghĩa “bồn chồn, xúc động”. Kiểu này thì
ngôn ngữ đã bất đồng mà bút đàm cũng chẳng thông!
Lấy chữ Hán ghép lại mà dùng thì người Nhật có
vẻ giỏi hơn ta. Chúng ta nói và viết hàng ngày những “bi kịch, ca kịch, cải
biên, diễn xuất, đạo cụ, đăng tải, giao hưởng, nghệ thuật, nguyên tác, sáng
tác, tác giả, tác phẩm, tạp chí, triển lãm, văn hóa, xuất bản,..” mà không để ý
đó là tiếng …Nhật, do người Nhật ứng dụng từ chữ Hán, một số được phổ biến trở
lại Trung Hoa rồi truyền sang Việt Nam, một số truyền thẳng vào nước ta thời đệ
nhị Thế chiến.
Nói về mặc cảm thần phục qua chữ nghĩa, nhìn
qua phương tây, các nước Âu Mỹ, nhất là người Anh, không hề có mặc cảm khi dùng
mẫu tự La-Hi (24 La, 1 Hi), và trong tiếng Anh có rất nhiều tiếng cổ La Mã
trong ngữ vựng pháp luật và tiếng Hi Lạp trong ngữ vựng y khoa, bên cạnh những
tiếng ngoại nhập khác, trong số đó có cả “ao dai” (áo dài), “pho” (phở) hay
“cha gio” (chả giò)!
Người Anh còn du nhập rất nhiều chữ la-tinh
như “ad hoc” (đặc nhiệm), bona fide (nguyên thủy, thực chất); chữ Ý “al dente”
(của thức ăn), alfrexso (thoáng đãng), dolce vita (cuộc sống nhung lụa); chữ
Pháp: agent (nhân viên), amour propre (tự trọng), beau geste (cử chỉ đẹp); chữ
Đức, blitzkrieg (dự định),.. Nếu kể ra cho hết những tiếng Anh gốc ngoại, có
khi phải cần cả một cuốn tự điển mong mỏng. Đó là hiện tượng giao lưu văn hóa,
giúp họ làm giàu kho ngữ vựng và họ chẳng những không hề có mặc cảm về chuyện
đó mà ngược lại, còn tự hào.
Người Nhật cũng vậy. Supu là súp, sarada là
xà-lách, hamu là giò tây (ham), masshurumu làm nấm (mushroom), radisshu là củ cải
đỏ (radishes), shoppingu senta là trung tâm thương mại (shopping center),..
Bạn có thể nói, người ta không có mặc cảm vì
người ta là nước lớn, người ta chiếm lấy để dùng chứ không bị đồng hóa. “Chiếm
để dùng”, ý hay đấy. Thế, ông bà ta chẳng có câu “lấy giáo tàu đâm chệt” đó
sao? Cũng là chiếm để dùng? Hay là dùng trong chiến tranh thì chẳng những được
tha mà còn được tuyên dương, nhưng mượn để dùng trong văn học thì bị mắng!
Có một điều nên nói thêm, trong khi mượn chữ
Hán để dùng, người Việt đôi khi tạo ra một nghĩa mới. Có nhiều chữ được dùng
theo nghĩa mới, và đôi khi gây ra xung đột. Thí dụ, chúng ta có thể bảo một phụ
nữ Việt Nam là “cô ấy, bà ấy rất lịch sự” thì đó là lời khen, nhưng nói với một
người Tàu rằng mẹ hay vợ ông ấy “lịch sự” thì sinh chuyện lớn ngay, có khi đổ
máu! “Lịch sự” trong tiếng hán-việt là “đẹp đẻ” hay “lễ phép”, trong tiếng Tàu
đã biến nghĩa là “trải đời, thập thành” từ lâu! Đó là hiện tượng giao lưu và hiện
tượng biến đổi.
Tại miền Nam trước năm 1975, báo chí đã tạo
ra, hay dùng khá nhiều chữ mới phát xuất từ dân gian. Từ vụ bắt giữ dân biểu Trần
Ngọc Châu nằm vùng tại Hạ viện, miền Nam có thêm chữ “dàn chào” trong ngoặc
kép. Sau cuộc hành quân Lam Sơn tại Hạ Lào, miền Nam du nhập thêm động từ “bề”
(nghĩa là giao hợp) từ tiếng Lào. Rồi “sức mấy”, từ ngôn ngữ dân gian trở thành
bút hiệu viết biếm văn của một ký giả có tiếng tăm; tiếp theo là những “bỏ đi
tám, ghế, ghế mẫu, khứa lão, xế, quái xế,..” ào ào xâm nhập chữ Việt và từ từ
đi ra êm thắm. Đó là sức sống tự nhiên của ngôn ngữ, cái gì hay thì tồn tại,
cái gì có tính cách trào lưu thì cứ tự nhiên lên cao rồi xuống thấp và tan biến.
Ngôn ngữ của bất cứ dân tộc nào cũng có sức sống
như loài san hô, biến đổi từng ngày, một số tiếng mới hiện ra, một số chữ có sẵn
bị quên lãng, tuy vẫn còn đó nhưng rất hiếm khi dùng. Khi tôi dùng chữ “thúc phọc”,
nhiều bạn văn tròn mắt bảo: “Quái thế! Sao không nói ngay là ràng buộc hay trói
buộc, ai cũng hiểu?” Quả vậy. Chuyện “thê tróc tử phọc”, xưa quá rồi, bây giờ
người ta nói “vợ con đùm đề”! “Bức thúc” cũng vậy. Bây giờ người ta nói trại ra
thành “bức xúc”!
Nói về tiếng Việt gốc nọ gốc kia thì cũng nên
nói về tiếng Việt lai nọ lai kia, gọi cho văn hoa và gọn gàng thì là “hỗn chủng”.
Chữ hỗn chủng có hai cách: Cách thứ nhất là một chữ Việt đi cùng một chữ nước
khác, láo nháo như cháo trộn cơm. Thí dụ như “vôi hóa, trẻ hóa” (Nôm ghép Hán),
“ôm kế” (máy đo điện trở, ohm – Việt ghép Đức), “nhà băng” (Việt ghép Pháp),
“game thủ” (Anh ghép Việt).
Cách thứ hai là chữ Hán ghép với một chữ Việt
đồng nghĩa. Hiện tượng này rất phổ thông sau khi Ngô Thì Nhậm đưa ra bộ Tam
thiên tự giải âm (Tự học toản yếu), coi như là bộ tự điển hán nôm đầu tiên của
Việt Nam vào năm 1831, sau này được chuyển sang mẫu tự Việt la-tinh năm 1915:
Thiên trời, địa đất, cử cất, tồn còn, tử con, tôn cháu, lục sáu, tam ba, gia
nhà, quốc nước, tiền trước, hậu sau, ngưu trâu, mã ngựa, cự cựa, nha răng, vô
chăng, hữu có, khuyển chó, dương dê, qui về, tẩu chạy,... Cứ như vậy mà học cho
dễ nhớ, chữ hán đi trước, chữ thuần Việt thích nghĩa đi liền theo sau. Điều lạ
lùng là khi đã nhớ rồi thì có người dùng luôn… cả hai. Trong đời sống hàng ngày,
chúng ta vẫn nói và viết: bao gồm, sống động, sinh đẻ một cách hồn nhiên. Đọc
sách báo trong nước, tôi vẫn thấy người ta viết “vụ việc, in ấn” khi mà vụ là
việc, ấn là in, cứ một Hán một Việt kè kè theo nhau rất gắn bó! Chính đây mới
là trường hợp cần phải “thoát trung”, vì bỏ bớt chữ hán đi, câu văn vẫn đủ
nghĩa: “Bác ấy in 10 nghìn cuốn sách” (bỏ chữ “ấn) hay “Việc ấy xảy ra như thế
nào?” (bỏ chữ “vụ”).
Nói về việc chuyển Hán thành Nôm, vào thập
niên 60, miền Bắc đã làm, trở thành quốc sách. Có khi họ chuyển cả câu hay cả
nhóm chữ: “hỏa tiễn” thành “tên lửa”; “phi cơ trực thăng” thành “máy bay lên thẳng”.
Có khi chuyển dở chừng, nửa nạc nữa mỡ: “thủy quân lục chiến” thành “lính thủy
đánh bộ” thay vì “lính nước đánh cạn”!..
Lan man nãy giờ cả buổi, tôi muốn nói hai điều.
Thứ nhất, việc giao lưu văn hóa, đặc biệt là chữ viết và tiếng nói, là hiện tượng
tự nhiên, không nên có mặc cảm thấp kém hay tội lỗi. Thứ hai, tiếng hán-việt tự
nó đắc dụng trong một số trường hợp, giúp cho nói và viết gọn hơn, mạnh hơn, trực
tiếp hơn trong một bài diễn văn, nghị luận hay luật pháp, y như một số từ ngữ
la-tinh trong văn chương Âu Mỹ, khi bàn về pháp luật, hay chữ Hi Lạp khi nói về
y khoa. Mặt khác, ngược lại, trong đời sống hàng ngày, trong văn nói và tiểu
thuyết, nếu chuyển chữ Hán thành chữ thuần Việt một cách thoải mái, thì lại đắc
thế hơn. Thí dụ, chúng ta có thể nói: “Chính phủ cho thiết quân luật và ban bố
tình trạng khẩn trương trên toàn quốc” nhưng không nói: “Nào, khẩn trương lên
xe!” mà nói: “Lên xe ngay!” Ngược lại, không nên nói “Xưởng đẻ Từ Dũ” hay “Nhà ỉa
chung” mà nói “Nhà bảo sinh Từ Dũ”, “Phòng vệ sinh chung” hay ít nhất: “Cầu
tiêu công cộng.”
Trong mọi trường hợp khác, nếu dùng được chữ
thuần Việt một cách lịch sự, giản dị, trôi chảy, ý nghĩa đại khái tương tự mà
không quá dài dòng, kệch cỡm thì nên dùng. Thí dụ, cứ nói “mài sắt nên kim”
thay vì “ma chử thành châm”; “Chưa thấy quan tài chưa đổ lệ” thay vì “bất kiến
quan tài, bất lưu nhân lệ”, “Không đội trời chung” thay vì “bất cộng đái
thiên”, “Có bệnh thì vái tứ phương” thay vì “bệnh cấp loạn đầu y”, “Một cây làm
chẳng nên non” thay vì “Cô thụ bất thành lâm”, “Lá rụng về cội” thay vì “diệp lạc
qui căn”, “Hùm dữ không ăn thịt con” thay vì “hổ độc bất cật tử”, “Lòng lang dạ
sói” thay vì “lang tâm cẩu phế”, “Cây có cội, nước có nguồn” thay vì “mộc hữu bản,
thủy hữu nguyên”, “Sống gửi thác về” thay vì “sinh ký tử qui”, “Bới lông tìm vết”
thay vì “xuy mao cầu tì”, v.v.
Gặp trường hợp bắt buộc phải dùng chữ Hán, cứ
thẳng thắn mà dùng.
Tôi nhớ, khi Phong Trào Hưng Ca Việt Nam in áo
thun với hàng chữ chống Trung Cộng xâm lược biển đảo Việt Nam, bên cạnh các chữ
Anh, Pháp, Việt, anh chị em đã dùng chữ Hán, đúng cú pháp và dụng ngữ Hán:
“Hoàn Ngã Hà Sơn” (trả ta sông núi), và mặc áo ấy đi vào các thương xá, siêu thị
của người Hoa lục. Không một chút mặc cảm. Tất nhiên!
(nhn)
-------------------------------------
Xin giải thích với một số các bạn trẻ về câu hỏi:
“Tại sao trong các bài tôi viết, tên quốc gia đôi khi lại viết chữ thường? Do cố
ý hay sơ ý hay lỗi đánh máy?” Xin trả lời:
- Danh từ riêng, như tên người, tên đơn vị
hành chánh (thành phố, tỉnh, quận, xã,..), tên quốc gia: viết hoa. Thí dụ: chú
Hai, Nguyễn Văn Tèo, Đà Nẵng, hoặc Tây Ninh, Việt Nam.
- Danh từ riêng được dùng như tính từ, đứng
trước một danh từ: viết thường. Thí dụ: mỹ kim (tiền Mỹ), anh văn (chữ Anh),
anh ngữ (tiếng Anh), chữ hán-việt (chữ Việt gốc Hán).
- Danh từ riêng được dùng như danh từ chung,
nên viết thường: chữ/tiếng hán-việt, nhưng viết hoa (tiếng Hán Việt, tiếng Anh,
tiếng Việt,..) để dễ nhận ra, tránh lẫn lộn, cũng không hại gì, xin các nhà ngữ
học đại xá!
.
No comments:
Post a Comment