Sunday, October 31, 2021

PHẢN BIỆN “ĐIỀU KHÔNG ĐƯỢC LÀM” CỦA ĐẢNG (Nguyễn Đình Cống)

 


Phản biện “điều không được làm” của Đảng

Nguyễn Đình Cống

31/10/2021

https://baotiengdan.com/2021/10/31/phan-bien-dieu-khong-duoc-lam-cua-dang/

 

Đó là Quy định về những điều đảng viên không được làm, gọi tắt là lệnh cấm, vừa được ban hành bởi QĐ 37 do Tổng Bí thư BCHTW Đảng CSVN ký ngày 25 tháng 10 năm 2021.

 

Đảng có điều lệ, quốc gia có luật pháp. Những thứ đó đủ để hướng dẫn và khống chế hoạt động và hành vi của đảng viên khi Đảng là tổ chức bình thường và lãnh đạo đúng đắn. Thế mà phải ban hành thêm rất nhiều lệnh cấm. Việc đó chứng tỏ tổ chức của đảng đang rệu rã, sự lãnh đạo sai hoặc nhầm phương hướng. Đúng là “Lạy ông tôi ở bụi này”.

 

Bình thường Đảng phải dùng chất keo về lý tưởng và sự tự giác để tạo nên tổ chức, nhưng rồi phải dùng đến biện pháp cấm đoán, đó là kế sách thấp nhất mà hình như ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam ra, không có đảng chính trị nào khác trên toàn thế giới dùng đến.

 

Trong Điều lệ Đảng trước năm 2006 không có những điều cấm. Sau Đại hội X, khi công nhận đảng viên có quyền làm kinh tế tư nhân thì phát sinh yêu cầu cấm đảng viên bóc lột. Vào tháng 12 năm 2007, Bộ chính trị ra QĐ 115, cấm đảng viên làm một số việc. Đại hội XI thông qua điều lệ mới, trong điều 2, ngoài nhiệm vụ thông thường còn thêm: “Chấp hành quy định của BCH TƯ về những điều đảng viên không được làm”. Tháng 11 năm 2011, BCH TƯ ra Quy định 47 QĐ/TƯ thay thế QĐ 115 của BCT.

 

QĐ 47 nêu 19 điều đảng viên không được làm, đã gây ra một làn sóng lo lắng, sợ sệt trong một số các tổ chức đảng ở cơ sở. Các đảng viên hỏi nhau, liệu việc như thế này, như thế kia có vi phạm 19 điều cấm hay không. Người ta còn lợi dụng 19 điều để dọa nhau, ngăn cản nhau làm một số việc nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng hoặc giúp đỡ người khác, để tố cáo nhau lên cấp trên với ý đồ lập thành tích ngầm.

 

QĐ 47 là một văn bản phạm nhiều lỗi logic. Một số trang mạng, trong đó có Bauxitvn, vào cuối tháng 7/2015 đăng bài “Bàn về những điều cấm đảng viên” (*). Hình như một vài góp ý trong bài đó đã được tham khảo khi soạn thảo QĐ 37.

 

Mười năm thực hiên QĐ 47, tưởng rằng Đảng sẽ trong sạch hơn, vững mạnh hơn, nhưng ngược lại, nó càng rệu rã hơn. Vì thế, lãnh đạo đảng lại phải bổ sung thêm vài điều cấm. Tuy bổ sung nhưng nội dung được ghép vào nhau nên vẫn giữ 19 điều với trên 1300 chữ. Tại sao 19? Chắc rằng muốn giữ nguyên con số như trong QĐ 47. Với nội dung trong 1300 chữ thì có thể biên soạn thành từ 1 cho đến trên 100 điều. Phải chăng 19 điều của QĐ 47 chỉ là ngẫu nhiên chứ không phải số 19 có gì đó linh thiêng.

 

Đã có nhiều bài bình luận về QĐ 37 với các quan điểm khác nhau. Lề Đảng hết lời ca ngợi, thì bộ máy đã rất sẵn sàng. Vừa nghe tiếng có gì đó do TBT phát ra là vội ca ngợi ngay mà chưa biết hay dở thế nào. Lề Dân chủ yếu là phân tích, phê phán, trong đó có ba ý chính. Một là, chuyến này ông Trọng xiết lại quá ghê. Hai là, tăng cường cấm đoán chỉ chứng tỏ đang bất lực. Ba là, ra văn bản chủ yếu để lên gân, dọa nhau chứ rồi chẳng giải quyết được việc gì đáng kể.

 

Thí dụ: 1- Cấm bản thân đảng viên nhập quốc tịch nước ngoài, mua bán tài sản nước ngoài chứ không cấm con và vợ/chồng làm chuyện đó. Thế thì lách điều này dễ ợt. 2- Cấm dùng bằng giả. Điều này thì dân thường cũng bị cấm chứ riêng gì đảng viên, mà bằng giả ít nguy hại hơn bằng thật với kiến thức giả, việc này đang lan tràn mà không sao cấm được.

 

Viết bài này tôi chỉ phản biện một vài điểm về hình thức (Về nội dung đã có một số người bàn đến).

 

Người làm lãnh đạo, quản lý, giáo dục khi ra lệnh cấm ai làm việc gì đó, phải hết sức thận trọng, cân nhắc. Dùng lệnh cấm trong đời sống giống như “Dùng độc trị độc” trong chữa bệnh. Một tổ chức thấy cần dùng nhiều lệnh cấm chứng tỏ đã và đang phạm sai lầm nghiêm trọng về đường lối mà không thể khắc phục được bằng những biện pháp giáo dục thông thường. Cấm chỉ là biện pháp thô bạo ở đầu ngọn. Điều cần và quan trọng bậc nhất là tìm đúng nguyên nhân cơ bản và có biện pháp chữa từ gốc rễ. Không giải quyết vấn đề từ gốc mà chỉ thô bạo xử lý việc đầu ngọn là cách làm của kẻ hung hăng, không những kém trí tuệ mà kém cả đạo lý.

 

Trong tổ chức, trong xã hội cần duy trì kỷ luật. Cao nhất là kỷ luật tự giác. Người xưa hay dùng từ “Vô vi” nhằm ca ngợi sự quản lý xã hội để cho mọi người tự giác tuân theo tự nhiên, theo đúng Đạo, đúng luật Trời. Để có được tự giác của mọi người thì bề trên phải có đường lối, có cách hành xử đúng đạo lý, gương mẫu, quần chúng bên dưới có lòng tin cậy và được bảo vệ bằng luật pháp nghiêm minh. Khi bề trên vì kém trí tuệ, phạm khuyết điểm thì đó là “Nhà dột từ nóc”, còn vì u mê mà tham quyền cố vị thì không chỉ dột mà hỏng nát, lại thêm quần chúng mất lòng tin vì cảm thấy bị lừa dối thì không cách gì tạo lập được sự tự giác cần có.

 

Về lệnh ‘cấm’, hoặc ‘không được làm’. Theo ngữ pháp và logic thì có thể ra lệnh: “Cấm làm việc X” hoặc “Không được làm việc X” chứ không có ý nghĩa thực tế khi ra lệnh: “Không được không làm việc X”. Thay cho “Không được không làm”, phải dùng “Bắt buộc phải làm”. Thông thường ở một vài biển cấm người ta còn thêm từ “không được”, như là để nhấn mạnh. Hãy phân biệt nội dung, ý nghĩa ba lệnh sau: 1- Cấm xả rác (ở đây); 2- Cấm không được xả rác (ở đây); 3- Cấm không xả rác (ở đây). Câu 1 và 2 có cùng nội dung, từ cấm hoặc không được ở 2, thêm vào là thừa, chỉ là để nhấn mạnh. Câu 3 là một lệnh vô nghĩa. “Cấm không” tuy là phủ định của phủ định nhưng dùng trong câu mệnh lệnh sẽ vô nghĩa.

 

Hãy xem một số diễn tả của QĐ 37. Trong QĐ, cụm từ “Không được” đã đặt thành “thừa số chung” cho mọi điều, dưới đây khai triển nó ra cho từng ý.

 

Điều 2- Không được không chấp hành các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng.

 

Điều 3- Không được không thực hiện trách nhiệm nêu gương. Không được không bảo vệ khi thấy đúng, không được không đấu tranh khi thấy sai.

 

Điều 5- Không được không đăng tải ý kiến phản hồi.

 

Điều 6- Không được không thực hiện các quy định của Đảng và pháp luật về bảo vệ người tố cáo,

 

Điều 11- Không được không báo cáo, không được không xử lý các hành vi tham nhũng, lãng phí.

 

Điều 16- Không được không thực hành tiết kiệm.

 

Những việc vừa kể trên là cần thiết, quan trọng, phải làm. Hãy ghi chúng vào mục nhiệm vụ ở văn bản khác. Ghi chúng vào trong các điều không được làm nghe quá lạ. Không những lạ mà sai về ngữ pháp và logic.

 

Một số điều ghi ở QĐ 47 cũng như ở QĐ 37 là thừa, vì Hiến pháp và Luật đã có quy định cho công dân, như vậy cũng đã quy định cho đảng viên. Đó là các việc như:

 

Làm những việc mà pháp luật không cho phép (điều 1); Tố cáo có nội dung mang tính bịa đặt, xúi giục, mua chuộc, cưỡng ép người khác khiếu nại, tố cáo. (điều 6). Đả kích, vu cáo, xúc phạm, nhận xét, đánh giá tùy tiện đối với tổ chức, cá nhân (điều 8). Sử dụng văn bằng, chứng chỉ, chứng nhận giả (điều 9). Tham ô, đưa, nhận, môi giới hối lộ, hoạt động rửa tiền (điều 14). Đánh bạc, hành vi bạo lực (điều 18).

 

Không được tự ứng cử, nhận đề cử và đề cử các chức danh của tổ chức nhà nước, Mặt trận Tổ quốc… khi chưa được tổ chức Đảng có thẩm quyền cho phép (điều 2) là hạn chế quyền dân chủ. Theo Điều lệ Đảng thì đảng viên có quyền ứng cử, đề cử và bầu cử cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng. Đó là quyền đương nhiên, không cần thêm điều kiện “được tổ chức đảng có thẩm quyền cho phép”.

 

Điều 3 với nội dung mới như sau: (Không được) Phản bác, phủ nhận, xuyên tạc chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; không thực hiện trách nhiệm nêu gương; chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, vụ lợi; “tư duy nhiệm kỳ”, đoàn kết xuôi chiều, dân chủ hình thức, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh; độc đoán, chuyên quyền, quan liêu, xa rời quần chủng.

 

Nội dung trên có một số điểm tù mù, dễ lẫn lộn. Chủ nghĩa Mác- Lê nin là một khái niệm rất rộng. Thí dụ 1- Tuyên ngôn cộng sản năm 1848 có thuộc Chủ nghĩa đó không. Trong Tuyên ngôn đó viết rằng, phải xóa bỏ mọi tư hữu. Thế thì ĐCS đang khuyến khích kinh tế tư nhân có phản bác CN Mác-Lê không. Hay là không được phản bác bằng bài viết hoặc lời nói còn làm thực thì được, hay là chỉ cấm đảng viên thường, còn toàn đảng thì được. Thí dụ 2- Có người phát hiện rằng, lý thuyết đấu tranh giai cấp, định nghĩa bản chất con người của Mác, quan điểm về nhà nước của Lê-nin là không đúng với thực tế, họ muốn nêu ra và thảo luận để nhận thức chân lý. Việc này có bị cho là vi phạm điều cấm hay không.

 

Về trách nhiệm nêu gương: Cán bộ, đảng viên làm tròn trách nhiệm là theo nghĩa vụ và lương tâm, khi làm tốt sẽ có tác dụng nêu gương. Còn làm việc gì mà chăm chăm vào trách nhiệm nêu gương thì đã bị lệch lạc trong động cơ.

 

Về chủ nghĩa cá nhân: Trên thế giới chủ nghĩa này vốn có nhiều tích cực, nhưng rồi ở Việt Nam, có người đã gán cho nó toàn những thứ xấu xa, vì vậy nên chăng viết rõ: Chủ nghĩa cá nhân theo định hướng XHCN của VN, để khỏi nhầm với cách hiểu thông thường.

 

                                                        ***

 

Nhân đây, tôi xin kê ra vài điều QĐ 37 có sửa so với QĐ 47 nhưng nửa vời. Những sửa chữa ấy không biết là ban soạn thảo tự nghĩ ra hay là theo góp ý của bài đã dẫn (*)

 

Ở QĐ 47 tại các điều 8, 11 và 16 có quy định “Cấm việc để cho bố, mẹ, vợ (chồng), con, anh chị em ruột thực hiện một số điều như làm dự án, kinh doanh, lợi dụng chức vụ, đi du lịch tham quan… trái quy định.

 

Bài (*) viết: Theo lôgic thì không cấm việc để cho những người khác ngoài các người đã kể (như chú bác cô cậu, anh chị em họ, bạn bè, người quen…) làm trái quy định. Thí dụ có đảng viên cao cấp để cho ông cậu lợi dụng chức vụ của mình nhằm trục lợi, không thể kết luận đảng viên đó vi phạm điều 11, vì ông cậu không thuộc những người đã được liệt kê trong điều đó. Như vậy để xem xét hoặc xử phạt việc để cho ông cậu lợi dụng trục lợi phải vận dụng điều luật khác. Mà đã có điều luật khác bao quát hơn thì còn cần soạn thêm điều cấm 11 làm gì.

 

Ở QĐ 37 sửa lại như sau: Can thiệp, tác động hoặc để vợ (chồng), con, bố, mẹ, anh, chị, em ruột mình, bên vợ (chồng) và người khác lợi dụng chức vụ, vị trí công tác của mình để trục lợi… đi du lịch, học tập, chữa bệnh (điều 11 và 17).

 

Ở QĐ 47 viết: Tổ chức tiệc cưới, việc tang, các ngày lễ, tết, sinh nhật, kỷ niệm ngày cưới; mừng thọ, mừng nhà mới, lên chức, lên cấp, chuyển công tác xa hoa, lãng phí hoặc nhằm trục lợi” (điều 19).

 

Bài (*) phân tích: Quy định như vậy tưởng là hết sức chặt chẽ nhưng nếu tổ chức ăn mừng khỏi ốm, ăn mừng tránh được tai nạn (của bất kỳ người nào trong gia đình) nhằm trục lợi thì rõ ràng không vi phạm điều cấm vừa kể.

 

Ở QĐ 37 đã chữa như sau: Tổ chức việc cưới, việc tang và các sự kiện khác của cá nhân, gia đình xa hoa, lãng phí hoặc nhằm mục đích vụ lợi.

 

Thêm vào các từ ‘và người khác’ hoặc ‘các sự kiện khác’ có chặt chẽ hơn, nhưng vẫn rườm rà, có thể viết ngắn gọn hoặc sáng sủa hơn.

 

_______

 

Ghi chú: (*) Tôi không tìm được Link của bài này, nhưng giữ được văn bản. Vị nào, bạn nào cần tham khảo xin gửi email cho ndcong37@gmail.com để nhận nó.

 

=================================

 

BÀN VỀ NHỮNG ĐIỀU CẤM ĐẢNG VIÊN   

Nguyễn Đình Cống

29/07/2015

https://namphuongquetoi.blogspot.com/2015/07/ban-ve-nhung-ieu-cam-ang-vien.html

 

Trong những Điều lệ Đảng trước đây không thấy qui định những điều đảng viên không được làm. Sau Đại hội X, khi công nhận đảng viên có quyền làm kinh tế tư nhân thì phát sinh vấn đề  cấm đảng viên bóc lột. Sau đó, vào tháng 12 năm 2007 Bộ Chính trị ra QĐ 115, cấm đảng viên làm một số việc. Đại hội XI thông qua điều lệ mới, trong điều 2 về nhiệm vụ đảng viên , ngoài các việc như chấp hành nghiêm chỉnh nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước, không ngừng nâng cao trình độ và đạo đức, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, cục bộ, quan liêu, tham nhũng, lãng phí v.v…(như các điều lệ trước ), thì còn thêm : “chấp hành quy định của BCH TƯ về những điều đảng viên không được làm”. Thế rồi tháng 11 năm 2011, BCH TƯ ra Quy định  47 QĐ/TƯ nêu 19 điều đảng viên không được làm, thay thế QĐ 115 của BCT.

 

QĐ 47 đã gây ra một làn sóng lo lắng, sợ sệt trong một số các tổ chức đảng ở cơ sở. Tôi đã chứng kiến cảnh các đảng viên hỏi nhau, liệu việc làm như thế này, như thế kia có vi phạm 19 điều cấm hay không. Người ta còn dùng 19 điều cấm để dọa nhau, ngăn cản nhau làm một số việc để bảo vệ quyền lợi chính đáng hoặc giúp đỡ người khác . Tôi đã bỏ công tìm hiểu và ngạc nhiên thấy một văn bản  vi phạm nhiều lỗi lôgic. Trước đây tôi chậc lưỡi cho qua, nhưng sau khi nghe lời kêu gọi phản biện của TBT Nguyễn Phú Trọng nên mạnh dạn nêu vài ý kiến để trao đổi với những ai quan tâm và hy vọng ý kiến đến được những người có trách nhiệm để có thể đem ra thảo luận tại Đại hội XII sắp tới.

 

1- Về lệnh cấm nói chung

 

Một tổ chức bình thường nên bao gồm các thành viên hiểu rõ những việc mà họ nên và không nên làm, được phép và không được phép làm. Để được như vậy thì cần tạo ra môi trường văn hóa lành mạnh và những người đứng đầu gương mẫu trong thực hiện. Khi phải đề ra nhiều điều cấm đoán chứng tỏ tổ chức đang suy yếu và tiềm ẩn sự rối loạn. Ngay cả việc thưởng và phạt, chỉ vừa phải thôi và  công bằng thì mới có tác dụng tốt, còn nếu nhiều quá sẽ trở nên nhàm chán và phản tác dụng. Tuy vậy khi mà trong tổ chức có những lúc xuất hiện các thói hư tật xấu  thì phải làm thế nào? Lúc này người lãnh đạo sáng suốt sẽ kịp thời phát hiện, tìm nguyên nhân sâu xa, nguyên nhân gốc để kịp thời khắc phục, và trước hết họ nêu gương trong việc thực hiện. Với những người đứng đầu kém tài và đặc biệt là những kẻ thiển cận, độc đoán, họ chỉ thấy được hiện tượng khi đã trở thành phổ biến, chỉ thấy được nguyên nhân gần, trực tiếp, chỉ nghĩ ra được những biện pháp trừng phạt và ngăn cấm, nhưng như thế chỉ xử lý được một số hiện tượng ở ngọn, dẹp được chỗ này sẽ mọc ra chỗ khác tinh vi hơn, thâm độc hơn, không ngăn cản và xóa bỏ được tật xấu  từ gốc.

 

Xin kể chuyện cũ viết lại. Ngày xưa ở nước Tấn, Cảnh Công là ông vua kém tài, dùng một số quan nịnh hót và tham nhũng, dân bị áp bức, bóc lột, lại gặp năm mất mùa, sinh ra nhiều trộm cắp. Vua tin dùng Khước Ung là người có tài bắt trộm, mỗi ngày bắt được vài chục tên. Triều đình quả quyết rằng chẳng mấy chốc sẽ dẹp tan hết nạn trộm cắp. Bọn trộm đã liên kết lại, giết chết Khước Ung và hoành hành mạnh hơn. Chỉ đến khi được Dương Thạch Chức hiến kế, phân tích tình hình, vua tỉnh ngộ ra, dùng được Sĩ Hội là người giỏi và thanh liêm đứng đầu triều đình, loại bỏ các quan lại chuyên quyền độc đoán,  giảm bớt sưu thuế, mở rộng sản xuất, nâng cao đời sống của toàn dân, đề cao đức tính liêm sĩ trong quan lại và nhân dân thì nạn trộm cắp tự nhiên giảm rồi mất hẳn.

 

Có một hiện tượng khá phổ biến ở Việt Nam. Tại hầu khắp trụ sở công và tư, kể cả khách sạn đều có nội quy, ghi rõ mọi người  phải làm việc này việc nọ, không được làm việc ấy việc kia. Tôi thấy phần lớn chỉ là hình thức  và nó chỉ thích hợp cho trình độ dân trí quá thấp. Ở các nước văn minh, tiên tiến rất ít thấy các nội quy kiểu ấy.

 

Thông thường, ở một tổ chức mà có quá nhiều điều cấm, nhiều hình phạt  thì bên ngoài thấy là  nghiêm túc, là kỷ cương, nhưng bên trong chứa nhiều bất ổn, nhiều rối loạn.  Nguyên nhân gần, trực tiếp của những điều bất ổn và rối loạn là sự  thoái hóa, biến chất của các thành viên, sự kém hiệu quả của luật pháp, còn nguyên nhân gốc, nguyên nhân sâu xa phải tìm ở nền văn hóa và sự lãnh đạo  hoặc cai trị  từ cấp cao nhất.

 

2- Phân tích lệnh cấm về mặt lôgic

 

Lệnh “cấm…” hoặc “không được làm…” thường có giá trị và ý nghĩa như nhau. Đôi khi để nhấn mạnh người ta ghép thành “cấm không được làm…”. Trong một lệnh như vậy thường có từ 2 đến 4 yếu tố sau : đối tượng , việc bị cấm, không gian , thời gian, ngoài ra có thể thêm một vài yếu tố phụ khác. Thí dụ : Cấm xe tải chạy trong thành phố từ 6 đến 10 giờ sáng. Trong  lệnh trên không cấm xe ô tô con hoặc xe khách vào bất kỳ lúc nào, không cấm xe tải chạy trong thành phố từ 10 giờ sáng ngày hôm trước đến 6 giờ sáng hôm sau , và từ 6 đến 10 giờ  không cấm xe tải đỗ trong thành phố, không cấm xe tải chạy ngoài thành phố.

 

Trong xã hội Việt Nam, Đảng CS chia mọi người  thành đảng viên  và quần chúng ngoài đảng . Tập hợp đảng viên nằm trong tập hợp lớn hơn là công  dân. Như vậy một điều nào đó đã cấm công dân thì đương nhiên là đảng viên cũng bị cấm, trừ khi viết rõ là cấm công dân ngoài đảng. Trong điều lệ Đảng đã ghi : đảng viên phải nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật của Nhà nước. Như vậy một điều mà pháp luật đã cấm công dân thì Đảng không cần ra thêm quy định cấm đảng viên nữa.  Theo lôgic thì một việc  mà cấm đảng viên  thì người ngoài đảng có quyền làm, dù cho  là dân thường hay quan chức cao cấp. Việc Đảng quy định cấm đảng viên  vi phạm những điều đã có trong luật pháp hoặc những điều phổ thông về đạo đức và đạo lý làm người chỉ làm rối loạn và mâu thuẩn trong nhận thức. Điều lệ đã quy định đảng viên phải nghiêm chỉnh chấp hành chỉ thị, nghị quyết của Đảng. Khi lãnh đạo Đảng thấy, ngoài pháp luật Nhà nước, đạo đức và đạo lý làm người, chỉ thị nghị quyết của Đảng đã có, mà cần cấm đảng viên làm một việc gì đó do tình hình đột xuất gây ra thì chỉ nên ban hành thành một chỉ thị mới, ngắn gọn. Việc đưa vào Điều lệ  và ban hành một danh sách dài 19 điều cấm, mà mỗi điều lại gồm nhiều nội dung, báo hiệu bên trong đang chứa nhiều bất ổn, đến lúc Đảng phải chấn chỉnh lại nhiều thứ từ gốc rễ, nghĩa là từ tổ chức và luận thuyết chứ không phải chỉ ra những lệnh cấm mà giải quyết được vấn đề.

 

Có lập luận cho rằng phải kể ra những điều cụ thể bị cấm thì đảng viên mới biết để chấp hành. Đó là một kiểu lập luận ngụy biện, phiến diện, coi thường trình độ đảng viên. Có một điều cần nhận thức đúng là : “quy định càng cụ thể thì càng thiếu”. Thí dụ  với quy định “cấm xả rác nơi công cộng”, muốn cụ thể hóa rác là những thứ gì ( vỏ hoa quả, lá gói bánh, túi ni lông….), càng kể càng thấy thiếu, nơi công cộng là nơi nào ( phòng đợi ở bệnh viện, nhà ga, sân trường, đường phố…), càng kể càng thiếu, kể sao cho hết.

 

Một vài thí dụ trong 19 điều đảng viên không được làm: Điều 9 “Làm trái quy định trong những việc: quản lý nhà, đất, tài sản, vốn, tài chính của Đảng và Nhà nước; huy động vốn và cho vay vốn tín dụng; thẩm định, phê duyệt, đấu thầu dự án; thực hiện chính sách an sinh xã hội, cứu trợ, cứu nạn; công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, các quy định trong hoạt động tố tụng”.

 

Tưởng rằng quy định như thế là cụ thể, nhưng theo lôgic thì những việc không thuộc điều 9 kể trên  đảng viên có thể làm trái, như là kiểm lâm, bảo vệ môi trường, tài chính của tư nhân v.v…

 

ĐIều 19- “Tổ chức việc cưới, việc tang, các ngày lễ, tết, sinh nhật, kỷ niệm ngày cưới; mừng thọ, mừng nhà mới, lên chức, lên cấp, chuyển công tác xa hoa, lãng phí hoặc nhằm trục lợi”. Quy định như vậy tưởng là hết sức chặt chẽ nhưng nếu tổ chức ăn mừng khỏi ốm, ăn mừng tránh được tai nạn ( của bất kỳ người nào trong gia đình) nhằm trục lợi thì rõ ràng không vi phạm điều cấm vừa kể.

 

3- Bình luận thêm một vài điều

 

Ngoài 2 điều 9 và 19 vừa kể, xin bình luận thêm vài điều không chặt chẽ về lôgic. Trong các điều 8, 11 và 16 có quy định là “cấm việc để cho bố, mẹ, vợ ( chồng ), con, anh chị em ruột thực hiện một số điều như làm dự án, kinh doanh, lợi dụng chức vụ, đi du lịch tham quan… trái quy định. Theo lôgic thì không cấm việc để cho những người khác ngoài các người đã kể (không cấm việc để cho chú bác cô cậu, anh chị em họ, bạn bè, người quen…) làm trái quy định. Thí dụ có đảng viên cao cấp để cho ông cậu lợi dụng chức vụ của minh nhằm trục lợi, không thể kết luận đảng viên đó vi phạm điều 11, vì ông cậu không thuộc những người đã được liệt kê trong điều đó. Như vậy để xem xét hoặc xử phạt việc để cho ông cậu lợi dụng trục lợi  phải vận dụng điều luật khác. Mà đã có điều luật khác bao quát hơn thì còn cần soạn  thêm  điều cấm 11 làm gì.

 

Xét điều 7: Cấm “đảng viên  tự ứng cử, nhận đề cử và đề cử các chức danh của tổ chức nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội (theo quy định phải do tổ chức Đảng giới thiệu) khi chưa được tổ chức Đảng có thẩm quyền cho phép”. Điều cấm này là một sự hạn chế dân chủ trong Đảng, đúng là chỉ có đảng viên bị cấm còn dân thường thì không. Theo mục 2, điều 3 của điều lệ Đảng  thì đảng viên có quyền ứng cử, đề cử và bầu cử cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng. Đó là quyền đương nhiên, không cần thêm điều kiện “được tổ chức đảng có thẩm quyền cho phép”. Hay là BCH TƯ cho rằng người được đề cử vào Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội cần tiêu chuẩn cao hơn người vào cơ quan lãnh đạo của Đảng. Hay là BCH TƯ sợ rằng những thành viên của Mặt trận và tổ chức chính trị-xã hội không đủ trình độ, không đủ sáng suốt để lựa chọn người đảng viên để bầu mà phải “được tổ chức đảng có thẩm quyền cho phép” mới bảo đảm chất lượng.

 

Còn một số điều khác mới đọc qua thì thấy bình thường, hợp lý, khi phân tích kỹ mới phát hiện ra sự thiếu chặt chẽ về lôgic, tuy vậy bài viết đã hơi dài, xin tạm dừng ở đây.

N.Đ.C.

 

Tác giả gửi BVN

Được đăng bởi bauxitevn vào lúc 08:30

 




No comments: