09/10/2021
http://nhantuantruong.blogspot.com/2021/10/ai-loan-cong-hoa-quoc.html
Hôm qua 7 tháng 10 tại Đài bắc, Thượng nghị
sĩ Pháp Alain Richard, nguyên là cựu Bộ trưởng Bộ quốc phòng Pháp, trưởng
đoàn đại biểu Thượng nghị sĩ Pháp hiện đang có chuyến thăm viếng 5 ngày ở Đài
loan. Ông Alain Richard đã có phát biểu gây “sốc” cho Bắc kinh. Ông Thượng nghị
sĩ khen ngợi văn phòng đại diện Đài loan tại Paris “hoạt động rất hiệu quả
trong tư cách đại diện cho “NƯỚC” của quí vị”. Nguyên văn : "a
fait un très bon travail dans la représentation de votre pays”.
Ý kiến làm sốc Bắc kinh : Đài loan là một “nước
- pays”, tức “quốc” theo tiếng Hoa. Ý kiến phát biểu trong bối cảnh lục địa
đang làm áp lực tối đa lên Đài loan qua các đợt cho hàng trăm máy bay bay qua
vùng “nhận dạng phòng không ADIZ” của Đài loan. Các chuyên gia quốc tế tiên
đoán, từ nay cho đến 2030 TQ sẽ chiếm Đài loan. Nhưng tình hình năm tới 2022 đảng
CSTQ sẽ bầu lãnh đạo mới. Tập Cận Bình cần có một “chiến tích” để khẳng định vị
thế tổng bí thư kiêm chủ tịch nước của mình. Vì vậy không thể loại trừ khả năng
lục địa sẽ đánh Đài loan trong thời gian gần hơn.
Phát ngôn nhân Bộ ngoại giao TQ Triệu Lập Kiên
phản đối, cho rằng Pháp đã “vi
phạm trắng trợn sự đồng thuận chung của cộng đồng quốc tế”.
Vấn đề là những “đồng thuận chung của cộng đồng
quốc tế” không chắc đã ủng hộ lý lẽ của Bắc kinh.
Có lẽ ông Triệu Lập Kiên đã quên nội dung Tuyên
bố Caire (Cairo tháng 11 năm 1943). Thống chế Tưởng Giới Thạch tham gia Hội
nghị Caire, đàm phán với các lãnh tụ Đồng minh gồm Tổng thống Roosevelt của Mỹ và
Thủ tướng Churchill của Anh, về các điều kiện để Trung hoa gia nhập khối Đồng
minh tuyên bố chiến tranh với Nhật.
Các điều kiện đó là: Nhật phải trả lại cho
Trung hoa những vùng lãnh thổ mà đế quốc này đã “ăn cướp” của Trung hoa như Mãn
Châu, Đài loan và quần đảo Bành hồ.
Đúng như lời hứa, Tưởng Giới Thạch ra tuyên bố
Trung hoa trong tình trạng có chiến tranh với Nhật.
Sau khi Nhật đầu hàng, các vùng lãnh thổ đã
ghi trong Tuyên bố Cairo 1943 được quân Trung hoa chiếm lại trên thực tế.
“Đồng thuận quốc tế” về Đài loan (nói kiểu Triệu
Lập Kiên) - về mặt pháp lý “de jure” - được thể hiện qua (điều 2 khoản b) Hòa ước San
Francisco 1951. Điều ước này được trích dẫn nguyên văn và ghi lại trong hòa
ước Nhật-Trung 28 tháng Tư năm 1952. Trung hoa ký riêng hòa ước với Nhật, vì lý
do Trung hoa không có đại diện tham dự hội nghị San Francisco. Đồng thuận này
được tái khẳng định sau đó qua Hiệp ước Hòa
bình và Hữu nghị 12 tháng Tám 1978 ký giữa Tokyo và Bắc kinh.
Nội dung các kết ước quốc tế dẫn trên nhìn nhận
hiệu lực Tuyên bố Caire 1943, tức khẳng định Đài loan, Bành hồ và Mãn châu thuộc
về Trung hoa Dân quốc của
Tưởng Giới Thạch, vào thời điểm mà nước Cộng hòa nhân dân Trung quốc
chưa khai sinh. (Trung cộng khai sinh ngày 1 tháng Mười 1949). Các chính phủ
Trung hoa dân quốc cát cứ ở Đài loan sau này hiển nhiên có đủ tư cách kế
thừa chính đáng di sản về chủ quyền lãnh thổ của Trung hoa dân quốc.
Ý kiến của Thương nghị sĩ Alain Richard, cho rằng
Đài loan là một “nước”, trên phương diện “de jure” là đúng với thực tế và lịch
sử. Vì vậy ông Triệu Lập Kiên có vẻ lạc điệu khi “lên gân” với Pháp bằng lời lẽ
như vậy.
.
Tuyên bố Thượng hải
28 tháng Hai năm 1972.
Chúng ta đều biết Quốc gia (Etat - State) tên
gọi “Trung hoa Cộng hòa quốc” hay Trung hoa Dân quốc đã được thành lập sau ngày
“cách mạng Tân hợi”, còn gọi là “cách mạng Vũ xương”, bắt đầu từ ngày 10 tháng
Mười năm 1911. Cuộc cách mạng đã hạ bệ triều đình nhà Thanh và chấm dứt nền
quân chủ lâu đời 2000 năm của Trung hoa.
Nền cộng hòa ra đời, kế thừa một tấm “dư đồ”
rách nát để lại từ triều đình nhà Thanh. Những nơi phồn hoa đô hội, đô thị,
thành phố, hải cảng, hệ thống đường sắt, những quặng mỏ, ruộng lúa… đều nằm
trong tay nước ngoài, dưới danh xưng “nhượng địa”. Đất nước Trung hoa chìm ngập
vào nạn “sứ quân”. Người ta thống kê từ năm 1917 đến năm 1928, những vùng sâu
xa, gọi là “lục địa,” có tới 1200 sứ quân.
Chỉ đến năm 1928 Trung hoa lục địa được thống
nhứt dưới ngọn cờ “cách mạng quốc gia chủ nghĩa” của Thống chế Tưởng Giới Thạch.
Ông này kế thừa di sản Trung hoa dân quốc (và Tam dân chủ nghĩa) của Tôn Văn.
Ngày “Song thập”, tức ngày 10 tháng Mười được lấy làm ngày Quốc khánh của Trung
hoa dân quốc.
Như đã viết trên, Thống Chế Tưởng Giới Thạch đứng
vào phe Đồng minh và tuyên bố chiến tranh với Nhật. Trung Hoa dân quốc của Tưởng
Giới Thạch đứng về phe “chiến thắng”, được Mỹ hết lòng ủng hộ. Do vậy Trung hoa dân quốc trở thành
“thành viên khai sinh” ra tổ chức Liên hiệp quốc. Trung hoa dân quốc
cũng chiếm một ghế, là một trong năm thành viên có quyền “Veto” của hội đồng Bảo
an LHQ (4 thành viên kia là Mỹ, Nga, Anh và Pháp).
Đến khi thua trận Mao Trạch Đông 1949, Tưởng
giới Thạch cùng toàn bộ nội các (bao gồm các thành viên Quốc hội) của Trung hoa
Cộng hòa quốc di tản chiến thuật ra Đài loan. Cho đến cuối đời của Tưởng Giới
Thạch, mục tiêu của Trung hoa dân quốc là “tiễu trừ cộng phỉ - quang phục lục địa”.
Hàng năm ngày 10 tháng Mười Đài Bắc tổ chức
tưng bừng ngày “Quốc khánh” như là một “quốc gia độc lập có chủ quyền”.
Lập trường của Mỹ về Trung hoa dân quốc chỉ
thay đổi sau cuộc “ngoại giao bóng bàn” giữa Kissinger và Chu Ân Lai năm 1970.
Kết quả việc này Tổng thống Nixon thăm viếng Bắc kinh và hai bên Mỹ-Trung ra “Tuyên
bố Thượng Hải” ngày 27 tháng Hai 1972. Nội dung Mỹ nhìn nhận rằng “dân
chúng hai bờ eo biển Đài loan chủ trương một nước Trung hoa và Đài loan là một
phần của nước Trung hoa. Chính phủ Mỹ không phản đối lập trường này. Chính phủ
Mỹ tái khẳng định lợi ích của Mỹ về một giải pháp hòa bình, của người Hoa, cho
vấn đề Đài loan…”
Lập trường của
Mỹ từ đó thay đổi: Lục địa không thuộc về Trung hoa dân quốc mà Đài loan thuộc về Cộng
hòa Nhân dân Trung quốc của Mao Trạch Đông.
Trung hoa dân quốc mất ghế đại diện ở LHQ năm
1971 cho Trung cộng và đến năm 1979 Mỹ đoạn giao với Đài bắc để thiết lập ngoại
giao với Bắc kinh.
Trong chừng mực “Quốc gia-Etat-State” tên gọi
“Trung hoa cộng hòa quốc” (tức là Trung hoa dân quốc) đã bị Mỹ “khai tử” trên
giấy tờ từ lúc công nhận chính quyền cộng sản ở Bắc kinh.
Ngay
sau khi Tuyên bố Thượng hải ra đời 27 tháng Hai 1972, dân chúng ở Đài loan khai
sinh phong trào chủ trương một quốc gia Đài loan độc lập có chủ quyền.
.
Đài loan cộng hòa
quốc.
Quốc gia tên gọi “Đài loan cộng hòa quốc” được
tuyên bố thành lập ngay sau khi hiệp ước Shimonoseki 1895 ký kết giữa nhà Thanh
và Nhật. Nội dung hiệp ước nhà Thanh nhượng vĩnh viễn Đài loan cho Nhật.
Tái
dựng lại Đài loan cộng hòa quốc có thể là cái phao cứu vãn Đài loan để
không bị lục địa thôn tính.
Trong chừng mực về pháp lý, Đài loan khá giống
với Việt Nam Cộng hòa. Cả hai, trên thực tế, “hành sử “như là quốc gia”.
Hiến pháp của Quốc gia Trung hoa dân quốc qui
định lãnh thổ bao gồm Đài loan và lục địa. Dân chúng bao gồm tất cả dân chúng
sinh sống trên lãnh thổ Trung hoa.
Vấn đề là thẩm quyền về lãnh thổ của Trung hoa
dân quốc chỉ giới hạn ở Đài loan. Về dân chúng, dân lục địa đóng thuế cho Bắc
kinh chớ không đóng cho Đài bắc. Tức là, nếu Trung hoa dân quốc là “Quốc gia -
Etat - State”, thì đây là “quốc gia chưa hoàn tất”.
Quốc gia chưa hoàn tất không được gia nhập tổ
chức LHQ dó đó không được hưởng các quyền của một quốc gia thành viên.
Tương tự VNCH. Thẩm quyền lãnh thổ của VNCH chỉ
giới hạn ở các tỉnh miền Nam (dưới vĩ tuyến 17). VNCH cũng là một “quốc gia bị
phân chia” hoặc là “quốc gia chưa hoàn tất”.
Quốc gia “bị phân chia” là quốc gia trước khi
bị phân chia đã được nhìn nhận là “quốc gia”. Sau khi bị phân chia hai bên (hay
các bên) cùng có lập trường là thống nhứt đất nước.
Nếu Đài loan vẫn “dính liền” với lục địa, như
các kết ước quốc tế đã khẳng định, thì trước sau gì Đài loan cũng sẽ bị TQ thôn
tính, dưới danh nghĩa là “thống nhứt đất nước”.
Điều này tương tự VNCN. Không hóa giải hiệp định
Genève 1954 (và Hiệp định Paris 1973) để tách rời VNCH ra khỏi VNDCCH và tuyên
bố độc lập, trước sau gì VNCH cũng sẽ bị VNDCCH thôn tính, dưới chiêu bài “thống
nhứt đất nước”.
Về lịch sử, ngày 17 tháng 4 năm 1895 Thanh triều
phải ký hòa ước với Nhật tại Shimonoseki, nhượng cho Nhật đảo Đài Loan và bán đảo
Liêu Đông cũng như buộc nhà Thanh phải “trả” lại “độc lập” cho Triều tiên, vốn
trước đây thần phục Thanh triều. Hòa ước cũng buộc Trung Hoa phải bồi thường
chiến phí cho Nhật một số tiền là 200 triệu lạng bạc (trong khi ngân sách hàng
năm của Thanh triều chỉ có 89 triệu lạng bạc). Nhưng việc nhượng bán đảo Liêu
Đông cho Nhật đã bị các nước như Nga, Pháp và Đức phản đối. Theo các nước này,
việc chiếm bán đảo Liêu Đông sẽ đe dọa an ninh Bắc Kinh và không thể bảo đảm độc
lập cho Triều tiên. Cuối cùng Nhật nhưọng bộ, “bán” lại bán đảo Liêu Đông cho
nhà Thanh với giá tiền là 30 triệu lạng bạc.
Việc chuyển giao Đài Loan cho Nhật gặp sự chống
đối của dân bản xứ. Ngày 23 tháng 5 năm 1895, ông Tang Jingsong tuyên bố Đài
Loan độc lập : Đài
Loan cộng hòa quốc. Ông Tang được các nhân sĩ trên đảo bầu làm tổng thống.
Trên lý thuyết không có gì cấm cản Đài loan dựng
lại ngọn cờ “Đài loan cộng hòa quốc” để tuyên bố độc lập với lục địa.
Chỉ khi nào Đài loan trở thành một quốc gia độc
lập có chủ quyền, luật quốc tế về chiến tranh được áp dụng. Đài loan được Hiến
chương LHQ bảo vệ.
Tương tự trường hợp “phòng vệ đa phương” áp dụng
cho Koweit sau khi bị Irak xâm lăng. Liên quân 35 nước được thành lập dưới sự
lãnh đạo của Mỹ ngày 28 tháng Hai năm 1990, đánh Irak để “giải phóng”
Koweit.
Phải chăng ý kiến “nước Đài loan” của Thượng nghị
sĩ Pháp Alain Richard khai mở một lộ trình để “quốc tế hóa” vấn đề Đài loan
?
Bởi vì bất cứ một tuyên bố ly khai, qua trưng
cầu dân ý hay qua hình thức tuyên bố đơn phương, TQ có thể áp dụng luật Chống
ly khai để đánh Đài loan.
Lập trường của TQ, Đài loan là một "vấn đề
nội bộ của TQ". Mới đây TT Biden cũng tái khẳng định điều này.
No comments:
Post a Comment