Tuấn Minh (gt)
Thứ tư, 09 Tháng 10 2019 10:17
http://nghiencuubiendong.vn/nghien-cuu-nuoc-ngoai/7362-cach-thuc-ngan-chan-trung-quoc-tren-bien-dong
Mỹ và đồng minh phải sử dụng sức mạnh của họ trên mọi
lĩnh vực quân sự và phi quân sự. Theo đó, các hoạt động hộ tống bảo vệ hàng hải
sẽ đi kèm với các nỗ lực đồng thời nhằm giúp các chính phủ và nền kinh tế ở
Đông Nam Á vững vàng hơn trước ảnh hưởng xấu của Trung Quốc, cũng như việc phát
triển và triển khai các lực lượng chiến đấu tinh nhuệ với nhiệm vụ ngăn chặn
hành vi gây hấn quy mô lớn của Trung Quốc.
Việc quản lý một hệ thống quốc tế giúp duy trì
nguyên tắc pháp lý và triết học về quyền tự do trên biển là một trong những lợi
ích quốc gia quan trọng nhất của Mỹ dù không được công khai. Việc duy trì trật
tự hàng hải một cách tự do và cởi mở là nhu cầu cấp thiết đối với một quốc gia với khả
năng kết nối lên đến hơn 80% dân số thế giới hiện phụ thuộc vào vận tải hàng hải. Trong gần
4 thế kỷ qua, các đại dương được xác định theo nguyên tắc pháp lý (sau đó được
điển chế hóa trong Công ước Liên hợp quốc về Luật biển) là tài sản chung toàn cầu,
mà chủ quyền quốc gia đối với chúng bị giới hạn và hoàn toàn phụ thuộc vào các
vùng đất liền tiếp giáp. Tuy vậy, cơ chế mang ý nghĩa sống còn này lại đang
bị đe dọa nghiêm trọng ở Biển Đông. Trung Quốc đang hành động hung hăng không
chỉ để giành quyền kiểm soát về mặt quân sự, mà thậm chí còn quan trọng hơn là để áp đặt một chế
độ thống trị thay thế đối với tuyến đường cửa ngõ vô cùng quan trọng này, dựa trên luật pháp trong nước của Trung Quốc và quan điểm của Bắc Kinh về chủ
quyền trên biển. Cách tiếp cận hiện nay của Mỹ đối với vấn đề này không giải
quyết được khía cạnh cốt lõi trong hành vi gây hấn của Trung Quốc, vì sự phô
trương lực lượng một cách rời rạc và không được duy trì lâu dài trong các
hoạt động tự do hàng hải của Mỹ như có thể thấy hiện nay; do đó không tạo được tác động chiến
lược mang tính quyết định. Nhưng chiến thắng của Trung Quốc cho đến nay không
phải là chiến thắng chung cuộc. Để có thể phục hồi, Mỹ và các đồng minh cần phải
điều chỉnh lại sự hiểu biết của họ về chiến dịch của Trung Quốc ở Biển Đông, đồng thời định hướng lại
chiến lược nhằm ngăn chặn chiến dịch đó.
Cuộc chiến giữa các cơ chế pháp lý
Mấu chốt của thách thức ở Biển Đông không phải là một
cuộc đối đầu thông thường giữa các lực lượng. Đó chưa phải là một cuộc chiến tổng
lực mà cả Mỹ và Trung Quốc hiện đều tìm cách tránh né, mà thay vào đó là một cuộc
cạnh tranh về ý chí chính trị, thể hiện qua một cuộc đọ sức tay đôi giữa hai hệ
thống thẩm quyền pháp lý mang tính cạnh tranh, cụ thể là giữa một hệ thống luật
biển quốc tế hiện hành gần như được khắp nơi công nhận và một bên là quan điểm
theo chủ nghĩa xét lại của Trung Quốc về chủ quyền hàng hải, theo đó gọi các
vùng biển là các “vùng lãnh thổ xanh” và tuyên bố chủ quyền đối với chúng giống
như với đất liền để ngăn chặn sự xâm nhập của tàu thuyền và thủy thủ các nước
khác. Trong cuộc chiến giữa các cơ chế pháp lý này, phản ứng của các dân biển địa
phương ở các nước Đông Nam Á – trái ngược với hành động của cả hai bên tham chiến
– sẽ quyết định kết quả chung cuộc. Do đó, câu hỏi mang tính quyết định ở
đây không phải là “bên nào sẽ chiếm ưu thế trong cuộc chiến” mà là “người dân sẽ
tuân theo luật pháp của bên nào”.
Cuộc chiến giữa các cơ chế pháp lý diễn ra dưới hình thức cạnh
tranh ngầm nhằm giành được sự ủng hộ, trong đó ai đề xướng cơ chế nào sẽ tìm kiếm
trong dân chúng những người ủng hộ cho cơ chế đó. Quá trình này không hẳn là một
nỗ lực nhằm giành lấy “tình cảm và ý chí” vì đó là một cuộc đấu tranh để giành quyền kiểm
soát, bằng cách thuyết phục hoặc cưỡng ép người dân phải tuân theo một bộ luật
mà không phải của phe đối lập. Với quyền tự do lựa chọn mà không có bất kỳ biện
pháp gây sức ép nào từ hai phía, ngư dân địa phương ở các nước Đông Nam Á
gần như chắc chắn sẽ lựa chọn tuân thủ hệ thống luật pháp quốc tế hiện hành vốn
bảo vệ và thực thi quyền tự do hàng hải của tất cả các quốc gia. Lợi ích mà một trật tự cởi
mở và dựa trên quy tắc hiện hành mang lại càng trở nên rõ ràng hơn khi so sánh
với phương án đối lập – cơ chế ủng hộ một vùng biển lấy Trung Quốc làm trung
tâm, thiếu tự do và khép kín, trong đó tàu thuyền các nước khác ngoài Trung Quốc
chỉ có thể đi lại nếu được Bắc Kinh cho phép. Vì cơ chế do nước này đề xuất đối
với Biển Đông thiếu
hấp dẫn về mặt định tính, Trung Quốc đang tìm cách giành được sự ủng hộ thông
qua việc sử dụng các công cụ tiêu cực mang tính cưỡng chế thể hiện sức mạnh dân
tộc của mình. Theo đó, Trung Quốc đã hăm dọa và đe dọa sử dụng vũ lực thông qua
lực lượng cảnh sát biển và dân quân biển, đồng thời được lực lượng Hải quân Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc (PLAN) với năng lực
tác chiến tinh nhuệ hậu thuẫn, Trung Quốc có thể biến nơi này trở thành một khu vực
không an toàn đối với dân biển địa phương khi di chuyển qua những vùng biển mà
họ có quyền tiếp cận chính đáng theo luật pháp quốc tế.
Điều này không có nghĩa là Trung Quốc không có
phương tiện nào trong kho vũ khí chính trị của họ để giành được sự ủng hộ của
các nước Đông Nam Á một cách tích cực thay vì tiêu cực. Trái lại, ở cấp chính
phủ, Trung Quốc đã và đang sử dụng rất hiệu quả các biện pháp khích lệ - hứa hẹn
phát triển cơ sở hạ tầng, hối lộ và thu hút giới tinh hoa… - để thuyết phục các
mắt xích yếu ớt có vai trò then chốt tại các nước Đông Nam Á chấp nhận hành vi
trơ tráo của Trung Quốc trên biển. Trường hợp của Philippines trong 6 năm qua
là một ví dụ minh họa cho điều này. Năm 2012, dưới thời Tổng thống Philippines
Benigno Aquino III, Trung Quốc đã dùng các biện pháp đe dọa để trục
xuất Hải quân Philippines khỏi bãi cạn Scarborough. Sau khi vi phạm thỏa thuận
giảm tình trạng leo thang căng thẳng do Mỹ làm trung gian bằng cách đưa tàu quay trở lại rạn san hô hiện
không được bảo vệ này, Trung Quốc đã sử dụng các công cụ thực thi pháp luật
hàng hải trên danh nghĩa để quấy rối và áp đặt ý chí của mình đối với các ngư
dân Philippines, buộc họ phải rời bỏ khu vực này, từ đó để lại các ngư trường
trù phú quanh Scarborough cho các tàu Trung Quốc độc quyền khai thác. Khi
Rodrigo Duterte lên nắm quyền năm 2016, Trung Quốc đã dùng sức hấp dẫn của các
dự án đầu tư cơ sở hạ tầng để khuyến khích Duterte ngả hẳn sang hướng từ bỏ lập
trường chính trị-ngoại giao và pháp lý mạnh mẽ của đất nước ông trong các tranh
chấp trên Biển Đông. Khi điều này xảy
ra, Trung Quốc đã cho phép các tàu đánh cá của Philippines quay trở lại khu vực
đầm phá thuộc bãi cạn Scarborough, nghĩa là Trung Quốc hiện cho phép
Philippines tận hưởng thành quả từ EEZ của chính họ nhưng theo các điều kiện do
Bắc Kinh đặt ra.
Vì sao chiến dịch của Trung Quốc lại là một
cuộc nổi dậy trên biển?
Nếu so sánh với bất kỳ hình thức chiến tranh nào,
thì những hành động của Trung Quốc trên biển giống như một cuộc nổi dậy. Mặc dù
Clausewitz không sai khi tuyên bố rằng mọi cuộc chiến tranh đều là sự mở rộng của
hoạt động chính trị dưới các hình thức khác, nhưng không có bất kỳ hình thức
chiến tranh nào khác xét về bản chất mang tính chính trị và tập trung vào các vấn
đề về quản trị và luật pháp nhiều như một cuộc nổi dậy. Các cuộc nổi dậy thực
chất là các cuộc tranh cãi về việc ai là người cai trị trong một cộng đồng dân
cư và một không gian địa lý cụ thể, tức là các bên chiến đấu để xác định xem luật
pháp của bên nào có hiệu lực và do đó tìm kiếm đáp án cho câu hỏi được đặt ra
trước đó: Người dân phải thực thi luật pháp của ai?
Bắc Kinh tìm cách sử dụng sức mạnh dân tộc Trung Hoa
để áp đặt hệ thống thẩm quyền của riêng họ đối với dân chúng các nước láng giềng
Đông Nam Á, ép buộc họ phải tuân thủ bằng cách đe dọa sử dụng vũ lực. Đây là điều
các lực lượng nổi dậy đã làm từ xưa. Các tài liệu mang tính lý thuyết về sự nổi
dậy từ thời của T. E. Lawrence đến Mao Trạch Đông và xa hơn nữa thường nhắc tới
một thành tố có ý nghĩa sống còn là “sự ủng hộ của người dân”. Tuy nhiên, cách
diễn đạt như vậy có thể gây hiểu lầm vì nó dường như nói lên tình cảm tích cực
và sự cảm thông của dân chúng đối với lực lượng nổi dậy. Trên thực tế, động lực
ở đây là sự kiểm soát, vốn có thể được thiết lập bằng cách thuyết phục hoặc phổ
biến hơn là thông qua nỗi sợ hãi. Chẳng hạn, lực lượng Taliban đã tìm cách cấm trẻ em gái
Afghanistan đến trường và nên tấn công những người dám vi phạm mệnh lệnh đó.
Trong khi các cuộc tấn công như vậy nhằm vào các nữ sinh ở Mỹ thường được mô
tả là những hành vi vi phạm trắng trợn nhân quyền đúng với bản chất của chúng,
nhưng trong bối cảnh chiến lược, có thể coi những hành động tàn bạo này là cách
thức (đáng khinh về mặt đạo đức) để Taliban khẳng định thẩm quyền đối với cộng
đồng cư dân mà lực lượng này đang tìm cách kiểm soát.
Do đó, việc Trung Quốc sử dụng sức mạnh trên biển để
áp đặt luật pháp trong nước của họ đối với người dân vùng Biển Đông rất phù hợp với truyền
thống nổi dậy, cho dù trong trường hợp này, cuộc nổi dậy diễn ra trong môi trường
biển và cơ chế thịnh hành là hệ thống luật pháp quốc tế chứ không phải chính
quyền một quốc gia. Chính vì cách tiếp cận của Bắc Kinh đối với chủ quyền trên
biển khi cho rằng có thể tuyên bố chủ quyền đối với các vùng biển giống như
trên đất liền - có thể hiểu là một sự tiến triển so với lập trường địa
chính trị trong lịch sử của Trung Quốc với tư cách một đế quốc hám lợi trên đất
liền. Vậy nên không có gì ngạc nhiên khi Bắc Kinh đưa chiến lược nổi dậy của họ ra
biển, khi xét tới vai trò nổi bật của nhà lý luận mang tính nền tảng về các cuộc
nổi dậy Mao Trạch Đông trong kho tàng chiến lược của Trung Quốc. Cho đến nay,
cuộc nổi dậy của Trung Quốc ở trên biển vẫn tiếp diễn mà phần lớn không bị cản
trở do những nỗ lực khác đáng chú ý hơn của họ - chiếm giữ lãnh thổ và mở rộng
phạm vi chống tiếp cận/ngăn chặn xâm nhập khu vực - đã thu hút sự chú ý của Mỹ
và các đồng minh nhiều đến mức che đậy thành công nỗ lực mang tính quyết định
(ép buộc bằng vũ lực đối với dân biển) và mục tiêu chiến lược cuối cùng trong
chiến dịch của họ (áp đặt một hệ thống quản trị thay thế của Trung Quốc,
lật đổ hệ thống luật pháp quốc tế hiện hành trên biển và qua đó giúp Trung Quốc
có được chủ quyền hợp pháp đối với một vùng rộng lớn của Biển Đông nằm trong phạm vi
“đường 9 đoạn”).
Cách thức để Mỹ và đồng minh chiếm lấy ưu thế:
Chống nổi dậy trên biển
Một khi vấn đề chiến lược ở Biển Đông được xác định là
một cuộc nổi dậy, thì giải pháp chiến lược của Mỹ và đồng minh cần theo sự chỉ
đạo của chiến lược đối phó tự nhiên là chống nổi dậy. Cách tiếp cận “chống nổi
dậy trên biển” trong lĩnh vực hàng hải đòi hỏi sự bảo vệ đối với dân biển địa
phương cũng như sự bảo đảm an ninh cho họ trước những hoạt động quấy rối của
Trung Quốc để họ có thể thực hiện các quyền hợp pháp của mình một cách an toàn
theo cơ chế quốc tế hiện hành về quyền tự do trên biển, qua đó khiến người
dân cảm nhận được một sự bảo vệ hữu hình và một niềm tin cần thiết trước các thách thức sự và đe dọa của
Trung Quốc. Cần phải trấn an người dân rằng các quy tắc trên thực tế vẫn không
thay đổi. Chính vì điều này mà các hoạt động tự do hàng hải hiện tại của Mỹ là
chưa đủ - mặc dù các tàu khu trục quá cảnh trong phạm vi 12 hải lý tính từ các
cấu trúc địa hình riêng lẻ bị chiếm đóng trên biển có thể truyền đạt những
thông điệp mang tính pháp lý về việc Mỹ không công nhận các tuyên bố chủ quyền
cụ thể, nhưng những hoạt động như vậy không mang lại bất kỳ hiệu quả thực tế
nào vì chúng không kéo dài, và do đó không tác động được tới lòng tin của người
dân vào khả năng của chính họ trong việc thực thi các quyền hợp pháp quốc tế của
mình. Trung Quốc cũng như các nước ở Biển Đông đều biết rằng các hoạt
động tự do hàng hải của Mỹ chỉ là một động thái nhất
thời, vì như các nhà tuyên truyền Trung Quốc đã nhắc nhở với thế giới, rằng tàu
của Mỹ chắc chắn sẽ rời đi, và người dân sẽ bị đe dọa và quấy rối ngay khi
Hải quân Mỹ một lần nữa biến mất phía sau đường chân trời.
Chiến lược chống nổi dậy trên biển nhằm mục đích
mang lại chiến thắng trong cuộc chiến giữa các cơ chế pháp lý trên lĩnh vực
mang tính quyết định, cụ thể là ở sự tuân thủ và hành vi của ngư dân. Và giống
như các nỗ lực chống nổi dậy trên đất liền, chiến lược này đòi hỏi Mỹ và đồng
minh phải sử dụng sức mạnh của họ trên mọi lĩnh vực quân sự và phi quân sự.
Theo chiến lược chống nổi dậy trên biển, các hoạt động hộ tống bảo vệ hàng hải sẽ đi kèm với
các nỗ lực đồng thời nhằm giúp các chính phủ và nền kinh tế ở Đông Nam Á vững
vàng hơn trước ảnh hưởng xấu của Trung Quốc, cũng như việc phát triển và triển
khai các lực lượng chiến đấu tinh nhuệ với nhiệm vụ ngăn chặn hành vi gây hấn quy mô lớn của Trung Quốc đang nhằm vào
các đồng minh của Mỹ dọc theo chuỗi đảo thứ nhất.
Mục tiêu chính của chiến lược chống nổi dậy trên biển
là nhằm vô hiệu hóa các lực lượng của Trung Quốc ở Biển Đông trong những tình huống
chưa đến mức chiến tranh, như Trung Quốc từng làm đối với các lực lượng của Mỹ
trong vài năm trở lại đây. Nếu Mỹ và đồng minh có thể cân bằng thành công giữa
việc duy trì sự răn đe khi xung đột ở mức độ cao và việc thực hiện chống nổi dậy
trên biển khi xung đột ở mức độ thấp, thì những công cụ ép buộc mới và tốn kém
của Trung Quốc sẽ trở nên lỗi thời và vô dụng nếu người dân, dưới sự bảo vệ của
Mỹ và đồng minh, cảm thấy đủ tự tin để không phải bận tâm đến những lời cảnh
cáo và hăm dọa từ phía Trung Quốc.
Thách thức đối với Washington và thủ đô các nước đồng
minh là việc huy động sự tham gia của cộng đồng tri thức năng động vào lĩnh vực
này để xác định cách thức tiến hành tốt nhất sao cho hoạt động chống nổi dậy
trên biển có thể vận hành ở mức chi phí chấp nhận được trong một khoảng thời gian
dài. Nếu lịch sử mang tính chỉ dẫn, thì chiến dịch này cần phải được tiếp tục
cho tới khi ban lãnh đạo Trung Quốc nhận ra rằng cuộc nổi dậy trên biển của họ
không thể lật đổ sự cai trị của luật pháp quốc tế hiện hành bằng cách ép buộc,
cũng như những lợi ích thực sự mà Trung Quốc có thể nhận được khi chấp nhận và
tuân thủ hệ thống hiện tại dựa trên quyền tự do trên biển. Một khi các cộng đồng
chiến lược ở Mỹ và các nước đồng minh thành công trong việc tìm ra được giải pháp cho những vấn đề còn tồn tại về cách thức hoạt động, thì chiến
lược chống nổi dậy trên biển có khả năng mang lại một chiến thắng quyết định
và rất cần thiết cho Mỹ và đồng minh, cũng như cho một trật tự quốc
tế tự do dựa trên các quy tắc vốn được họ bảo vệ.
--------------
Tác giả bài viết là Hunter Stires, một học giả tại Học
viện Hải chiến Mỹ John B. Hattendorf- Trung tâm Nghiên cứu Lịch sử Hàng hải
Mỹ, đồng thời là một chuyên viên không thường trực tại Trung tâm An ninh mới của
Mỹ. Ông là đồng tác giả cho cuốn sách “China is Waging a Maritime Insurgency in
the South China Sea. It's Time for the United States to Counter It.”, xuất bản
lần đầu tiên vào tháng 11 năm 2018.
Bài viết trên được đăng tải trên trang The National Interest.
Tuấn
Minh (gt)
---------------------------------------
Nguồn
:
October 2, 2019
----------------------------------
XEM THÊM
Chừng nào sức mạnh của Trung Quốc vẫn đang phát triển,
ngay cả khi nước này tiếp tục hạn chế sử dụng sức mạnh, quân đội Mỹ vẫn sẽ tiếp
tục tăng cường bố trí lực lượng và hiện diện quân sự, tăng cường hoạt động “tự
do hàng hải” khiến Biển Đông trở thành “chiến trường”. Trong tương lai, lực lượng
quân đội Mỹ sẽ không ngừng tập trung ở Biển Đông, gia tăng cường độ hành động
hơn nữa.
*
"Người dân Trung Quốc đã học được giá trị của
hòa bình"..."Trung Quốc chưa bao giờ tiến hành bất kỳ cuộc chiến
tranh hay xung đột nào" hay "Trung Quốc luôn đi đầu trong việc hướng
tới hòa bình và ổn định khu vực"... Đây là những "Khẩu hiệu" mà
Trung Quốc thường rêu rao để đánh bóng hình ảnh của mình. Tuy nhiên, những gì
Trung Quốc làm hoàn toàn trái ngược với điều đó.
*
Mọi hành động đều có phản ứng khác nhau; các
quốc gia ở Đông Nam Á cũng như các quốc gia có lợi ích ở khu vực này chắc chắn
sẽ không khoanh tay đứng nhìn. Trên thực tế, Bắc Kinh đang “mời gọi" các
nước chống lại họ, và điều này không mang lại lợi ích cho Trung Quốc.
*
Học thuyết “Tam chiến” của Trung Quốc vạch ra bộ ba
phương pháp tấn công: chiến tranh thông tin, chiến tranh tâm lý và chiến tranh
pháp lý. Trong số này, chức năng của chiến tranh pháp lý là nhằm “thúc đẩy tính
hiệu quả của các cơ chế và quy trình pháp lý hiện hành để hạn chế hành vi đối địch,
đối phó trong các hoàn cảnh bất lợi, đảo ngược các án lệ, và tối đa hóa lợi thế
trong các tình huống liên quan đến các lợi ích cốt lõi của Trung Quốc”.
*
Hành vi và khát vọng bá quyền trên biển của Trung Quốc
đang khiến cả châu Á giận dữ. Qua nghiên cứu so sánh tư tưởng và ngoại giao,
bài phân tích sẽ giúp hiểu được viễn cảnh hình thành khát vọng bá quyền trên
biển của Trung Quốc và ảnh hưởng của các chính sách hải quân của nước này đến
các quốc gia khác trong việc sửa đổi hoặc hình thành các chiến lược biển mới.
No comments:
Post a Comment