Có
nơi nào trên trái đất này
Mật
độ đắng cay như ở đây?
Chín
người – mười cuộc đời rạn vỡ.
Bị
ruồng bỏ và bị lưu đầy…
Có
nơi nào trên trái đất này
Mật
độ yêu thương như ở đây?
Mỗi
tấc đất có một người qùi gối
Dâng
trái tim và nước mắt
Cho
nỗi đau của cả loài người…
Phùng
Quán
*
Tôi
chưa bao giờ đến Hà Nội, và cũng chưa bao giờ cảm thấy có chút xíu nào hào hứng
khi nghĩ đến chuyện phiêu lưu tới một nơi xa xôi, lôi thôi và tai tiếng (tùm
lum) như thế. Đã thế, đường thì xa, vé tầu thì mắc, thủ tục thì lôi thôi rườm
rà, và lỡ mà kẹt luôn thì… chết mẹ!
Tôi
sinh trưởng ở miền Nam, nghĩ sao là nói vậy. Và cứ như vậy mà nói, chắc chắn,
sẽ làm mích lòng cả đống người. Tôi biết vậy nhưng không thể nào nói khác vì những
điều mà tôi được nghe kể về Hà Nội (thường) không có gì là đàng hoàng hay tử tế
– đại loại như:
“Lời
ăn tiếng nói lễ độ cũng khó gặp, chứ đừng nói gì đến văn vẻ… Một cô gái có thể
nói oang oang giữa chợ:
-
Nó rủ tao đi nhưng tao đ… đi.
-
Sáng nay mẹ mày qua xin lửa bố tao, bố tao đ… cho…”
“Một
cái gì đó đã phá vỡ lòng tin của con người rằng xã hội luôn luôn cố gắng đem lại
sự tốt đẹp cho mình, và chính mình phải có bổn phận phải gìn giữ các công trình
xã hội để mình và mọi người cùng hưởng. Người ta thẳng tay cắt dây điện để bán
lấy chút tiền, có thể đốt hết một kho hàng hoá để phi tang cho một vật ăn cắp
không đáng là bao… con người đối xử với xã hội thô bạo như vậy chỉ vì xã hội đã
đối xử với họ tệ quá. (Phạm Xuân Đài. Hà Nội trong mắt tôi. Thế Kỷ: Hoa Kỳ
1994, 32-33).
Trời
đất, đó là chuyện nhỏ và chuyện cũ (rích) rồi – từ hồi thế kỷ trước lận – bới
móc ra làm chi nữa, cha nội ?
Thì
rành rành là chuyện bây giờ, thế kỷ XXI đây nè, Hà Nội vẫn cứ y chang như hồi
đó – chớ có khác (mẹ) gì đâu:
“Những
đứa bé trai và gái bưng thức ăn cho khách vẫn là những đứa bé đã được mô tả
trong tiểu thuyết Nam Cao hay Trương Tửu cách đây năm sáu thập niên, còm cõi,
nhọc nhằn, cơ cực, chỉ biết cúi đầu vâng dạ và sống quen với lo âu, sợ hãi….”
“Những
anh chị phu hồ vẫn làm việc bằng những cung cách từ nửa thế kỷ trước. Họ chuyền
tay nhau mọi thứ vật liệu. Cát, đá và sạn đựng trong những cái rổ, đà gỗ vác
trên vai. Một ngày dầm mưa hay đổ mồ hôi như thế của một người phu hồ trị giá một
đô la và một bữa ăn trưa thanh đạm. Hơn một phần tư thế kỷ thực hiện ‘chủ nghĩa
xã hội ưu việt’ trong nước, hơn một phần tư thế kỷ kêu gào tự do và nhân quyền
của khối người việt lưu vong hải ngoại, chẳng có chút ánh sáng nào rọi vào những
góc đời phiền muộn tối tăm này” (Bùi Bích Hà, “Nhìn lại quê hương,” Thế Kỷ 21,
Sep. 2003:63-65).
Phạm
Xuân Đài và Bùi Bích Hà, nói nào ngay, không phải là người Hà Nội. Họ là dân bá
vơ, tha phương cầu thực, cù bơ cù bất, ở tận California hay đâu đâu đó. Cả hai
chỉ tạt ngang, ghé chơi Hà Nội năm ba ngày hay vài ba tuần lễ gì thôi. Biết (khỉ
mốc) gì đâu mà nói hành nói tỏi (nghe thấy ghét) dữ vậy chớ?
Nguyễn
Huy Thiệp thì khác à nha. Ông ta là niềm hãnh diện của Hà Nội (nói riêng) và của
cả nước Việt (nói chung). Ổng có dư thẩm quyền và thừa tư cách để nói về thủ đô
“mến yêu của ta.” Trong tác phẩm Tuổi hai mươi yêu dấu,
nhà văn đã mượn lời một nhân vật để tuyên bố như sau:
“Thời
của tôi đang sống là thời chó má. Tin tôi đi, một trăm phần trăm là như thế đấy.”
Ý,
trời đất, quỉ thần, thiên địa ơi! Giữa Thời đại Hồ Chí Minh (quang vinh), và
trong lòng thủ đô Hà Nội – nơi mà cách đây chưa lâu người ta vẫn còn phải nhai
rón rén khi ăn – mà thằng chả nói năng ồn ào, lạng quạng và bạt mạng (quá cỡ)
như vậy thì kể như là… hết thuốc!
Và
Hà Nội không phải là nơi duy nhất hết thuốc (chữa) như thế trên thế giới này.
Tôi nghe kể là ở thủ đô của Cuba – một nước anh em xã hội chủ nghĩa – tình trạng
cũng bết bát, và bệ rạc không kém:
“Ở
La Havanne vài ngày dần dần bạn hiểu cái khang trang, sầm uất ở những nơi có du
khách chỉ là bộ mặt bên ngoài che không nổi một xã hội lở lói, mệt mỏi… Cuba có
hai thế giới, thế giới tưng bừng náo nhiệt của du khách, của những người có tiền
xanh, bên cạnh thế giới mệt nhoài của dân địa phương. Sau 50 năm cách mạng, cái
mơ của đa số dân Cuba là vượt biển qua Miami hay có bà con thỉnh thoảng gởi về
một cái ngân phiếu” (Trần Công Sung,” Cuba Sí, Cuba No,” Thế Kỷ 21, Dec.
2003:78).
Đó
cũng là cái ước mơ thê thảm, vượt quá tầm tay, của rất nhiều người dân Việt –
bây giờ! Trong quá khứ, Cuba và Việt Nam cũng có rất nhiều điểm (bất hạnh)
tương tự như nhau. Hai quốc gia này đều có thời gian dài là thuộc địa, và cả
hai đều đã tin tưởng rằng sẽ giành lại được độc lập và tự do bằng con đường…
cách mạng! Chung cuộc, cả hai đều sống dở (và chết dở) trong lòng cách mạng!
Ví
von mà nói thì Havana và Hà Nội như hai cô bé lọ lem, song sinh, trong một gia
đình khánh tận. Cả hai cùng có chung ước mơ là lấy được một tấm chồng đàng
hoàng, lương thiện nhưng (chả may) đều phải lòng đúng đồ phải gió, và đã trao
duyên lầm… tướng cướp! Và quí vị tướng cướp này đang làm cái công việc mà họ mệnh
danh giữ hoà bình cho thế giới – nếu trích theo nguyên văn lời của ông Nguyễn
Minh Triết, nguyên chủ tịch nước Việt Nam:
“Có
người ví von, Việt Nam – Cuba như là trời đất sinh ra. Một anh ở phía Đông, một
anh ở phía Tây. Chúng ta thay nhau canh giữ hòa bình cho thế giới! Cuba thức
thì Việt Nam ngủ, Việt Nam gác thì Cuba nghỉ…”
Havana,
tuy thế, vẫn còn “có phước” hơn Hà Nội. Bi kịch của La Havanne chỉ xẩy ra vào
lúc có mặt trời – theo lời của Trần Công Sung:
“Đêm
xuống, dân Cuba quên cái cực nhọc ban ngày, đổ ra đường nhộn nhịp… Quên
dollars, quên cách mạng, quên những bài diễn văn dài tám giờ, quên embargo, người
ta đàn hát nhẩy múa náo nhiệt. Không phải chỉ ở những khu du khách, ngay cả ở
những khu bình dân, đen tối, trong những tiệm cà phê rẻ tiền…, đâu đâu cũng có
tiếng nhạc, giọng hát…”
Nói
cách khác là ban đêm thì dù Việt Nam có gác hay không, Cuba vẫn nghỉ.
Cho
nó khoẻ!
Vẫn
theo như nhận xét của Trần Công Sung thì ở Havana “có một cái gọi là cái hồn
(“âme”). Cái hồn này đang nâng đỡ cho mọi người sống qua những ngày tháng cơ cực,
đắng cay của thời mạt kiếp. Tôi còn tin rằng nó cũng sẽ giúp cho dân tộc Cuba hồi
sinh chóng vánh, sau khi họ chôn xong cái Chủ nghĩa Xã hội (đang muốn “chuyển
qua từ trần”) ở đất nước này.
Hà
Nội (dường như) không có một cái hồn như thế để chuẩn bị hồi sinh, dù CNXH cũng
chỉ còn sống thoi thóp ở nơi này. Tôi chưa bao giờ nghe ai nói đến có một đêm
nào đó (dù chỉ một đêm thôi) người dân Hà Nội đã đổ ra đường, đàn hát, nhẩy múa
nhộn nhịp, một cách hồn nhiên và vô tư như vậy cả.
Tình
trạng của Hà Nội có vẻ tuyệt vọng hơn, theo như nhận xét của nhà văn Bùi Bích
Hà – qua bài báo thượng dẫn: “Người ta chỉ cần một hai thập niên để vực dậy một
nền kinh tế sa sút nhưng để xây dựng lại niềm tin cho cả dân tộc, cụ thể như
dân tộc tôi, nay chỉ còn cầu phép lạ gieo xuống thưở đất hoang hoá này những hạt
giống mới để bắt đầu lại.”
Cách
đây không lâu – trên diễn đàn talawas –
khi được hỏi “phải hình dung thế nào về văn hiến Thăng Long,” giáo sư Nguyễn Huệ
Chi đã (rơm rớm nước mắt, tôi đoán thế) kể lại rằng: “Gần đây có một vị viện sĩ
định nghĩa văn hiến là văn học để hiến dâng cho Đảng.”
Thiệt,
nghe mà… hết hồn luôn! Havana là một thành phố non trẻ, mới có mặt từ đầu thế kỷ
thứ XVI mà khí phách và hồn phách vẫn còn lai láng qua từng bước chân nhún nhẩy
của người dân – dù nơi đây công an (chắc) không ít hơn Hà Nội. Không lẽ mảnh đất
ngàn năm văn vật, lừng lẫy cỡ như Thăng Long, mới đụng chuyện với cường quyền
và bạo lực (có vài chục năm) mà đã “mất hồn mất vía” và “chết tiệt” hết thế
sao?
Tôi
không tin như vậy đâu. Và tôi cũng không chịu như vậy nữa. Đảng CSVN quả thực
đã hớp được hồn của một mớ “viện sĩ” ở Bắc Hà nhưng những chú lính gác cửa của
Bắc Kinh (hay còn có tên gọi mới, dễ thương hơn, là “những kẻ canh giữ cho hoà
bình thế giới”) chưa bao giờ thực sự nhìn ra được cái hồn của đất Thăng Long,
chớ đừng nói chi đến chuyện họ “đụng” được tới nó.
T.B.T
Nguyễn Phú Trọng tại Cuba. Ảnh: progresoweekly
Do
tình cờ, tôi có lần (may mắn) cảm thấy được cái hồn của Hà Nội trong một căn hộ
nhỏ – ở ngõ Ánh Hồng, cạnh một nhà xí công cộng, luôn luôn ngập ngụa cứt đái –
của một người đàn bà tên Sợi.
Chị
Sợi có một mẹt hàng ở đầu ngõ, bầy bán các thứ linh tinh: ấm nước chè, gói thuốc
lào, bao thuốc lá, lọ ô mai, gói bánh bích qui. Chị không có vốn nên hàng hoá
lèo tèo, thảm hại.
Chị
Sợi bán hàng không đủ thu nhập để nuôi mình, và nuôi người mẹ bệnh đang nằm chờ
chết nên – đôi lúc – buộc phải bán cả thân. Mẹt hàng, cũng như thân xác “xuống
cấp” của người đàn bà đã quá thời xuân sắc này, chỉ hấp dẫn được một loại khách
hàng duy nhất: đám ăn mày.
“Trong
số những người chồng hờ ấy, chị đặc biệt yêu quý một anh ăn mày trẻ, còn ít tuổi
hơn chị. Anh ta đến với chị không như người đến với gái làng chơi.
Anh
đã kể cho chị nghe chuyện chân anh. Còn chị kể cho anh chuyện mẹ chị. Khi bị
ngã gẫy xương hông, nằm liệt, ba năm đầu cụ hát. Ba năm sau cụ chửi. Và một năm
nay cụ yên lặng. Mỗi khi có khách lên gác lửng cùng chị, cụ nhắm mắt giả cách
ngủ.
Anh
thương chị. Chị thương anh. Chính anh đã mượn cưa, bào ở đâu về cưa, bào, đo, cắt
mộng mấy tấm gỗ cốp pha, ráp thành cái áo quan cho cụ. Và cũng chính anh, dù
què một chân cũng đã bắc ghế trèo lên, xây thêm hai hàng gạch quanh tường bao
cho nó cao thêm, chắn bớt cái hơi nhà xí tạt vào.
Người
thứ hai chị Sợi yêu quý là một phụ nữ. Một bà già. Bà cụ Mít. Đó là một bà già
thấp bé, lại còng, mặt chằng chịt vết nhăn, chẳng biết bao nhiêu tuổi nữa.
Chính bà Mít cũng không biết mình bao nhiêu tuổi…
Bà
ở vùng Hà Nam, Phong Cốc. Anh con trai duy nhất của bà a dua với bọn xấu trong
làng đi ăn trộm lợn. Án xử hai năm. Trong tù bị bọn đầu gấu đánh chết. Người
con dâu bỏ đi lấy chồng, để lại cho bà hai đứa cháu gái, đứa chín tuổi, đứa bảy
tuổi.
-
Bây giờ một đứa lên tám, một đứa lên mười rồi cô ạ. Vài năm nữa, chúng nó lớn
khôn là tôi không lo gì nữa. Tôi có chết cũng không ân hận.
Một
lần bà Mít đến, nắm lấy bàn tay chị:
-
Em ơi. Chị nhờ em một cái này được không.
Bà
ngập ngừng. Chị Sợi không hiểu chuyện gì. Nhưng rõ ràng là một việc hệ trọng, rất
hệ trọng đối với bà.
-
Giúp chị với em nhé. Chị tin ở em.
Thì
ra bà muốn gửi chị tiền. Tiền là vàng, là cuộc sống của hai đứa cháu côi cút của
bà ở quê. Chúng còn bé lắm. Chúng mồ côi, chúng mong bà. Chúng cần tiền của bà.
Bà phải nuôi chúng. Chúng chưa thể tự kiếm sống được, chưa thể tự lo liệu được.
Để nhiều tiền trong người, bà sợ. Suốt ngày đi bộ rạc cẳng mà đêm cứ ngủ chập
chờn. Nên nghe chừng thấy nằng nặng hầu bao, bà phải mang tiền về quê.
…
Mùa
rét bao giờ cũng là thời gian gay go của chị. Hàng họ ế ẩm. Khách đến nhà cũng
ít. Bù lại với đám ăn mày, mùa rét là mùa cưới xin, mùa bốc mả. Trong khi hiếu,
hỷ, người ta rộng rãi với ăn mày. Bà cụ Mít vẫn thỉnh thoảng tới chỗ chị để cho
chị hòn xôi, miếng thịt. Bà kêu rét và gửi chị thêm một ít tiền. Chị bảo bà đã
gửi bốn lần tiền rồi sao không mang về cho các cháu kẻo chúng nó mong, đã lâu rồi
bà chưa về nhưng bà Mít nói:
-
Tôi cố thêm ít ngày nữa. Rồi về ở với chúng nó một thời gian. Ngoài giêng tôi mới
ra. Bà cháu xa nhau lâu quá rồi. Lại còn phải cố mua cho mỗi đứa một bộ quần áo
mới mặc Tết.
Nhưng
cả tháng sau bà Mít vẫn không quay lại. Chị Sợi biết rằng có chuyện chẳng lành
nhưng vẫn hy vọng được thấy dáng người nhỏ còng còng của bà trong tấm ni-lông
vá víu chống gậy, khoác bị bước tới. Chị chưa chờ ai đến như vậy. Lo lắng. Hy vọng.
Tuyệt vọng. Chắc chắn bà Mít đã chết ở đâu rồi!
Chị
Sợi kiểm lại số tiền bà Mít gửi một lần nữa. Rồi gấp những tờ giấy xi-măng, những
túi ni-lông. Cho tất cả vào một cái túi xách. Bây giờ chị không chờ bà Mít nữa.
Chị chờ anh què đến. Chị bảo anh:
-
Bà Mít chết thật rồi. Anh phải giúp em. Ở đây trông nom, cơm nước, rửa ráy cho
mẹ em vài ngày. Em phải đi đây.
-
Em biết quê bà ở đâu mà tìm?
-
Cứ về Hà Nam, Phong Cốc hỏi. Thế nào cũng ra. Hỏi dân. Hỏi tòa án.
Phải
đem chỗ tiền này về cho hai đứa trẻ mồ côi. Phải thực hiện nguyện ước của bà cụ,
kể cả việc mua hai bộ quần áo mới cho chúng nó…”
Chị
Sợi, anh què – cũng như bà Mít – cho đến lúc chết vẫn chưa có đêm nào ôm đàn ngồi
hát, hay đổ ra đường nhẩy nhót nhộn nhịp, như những người dân ở Havana. Ngày
cũng như đêm họ sống ẩn nhẫn, thầm lặng trong những con hẻm hôi thối luôn ngập
ngụa phân người giữa lòng Hà Nội.
Chính
ở những nơi tăm tối này, họ đã giấu kín được nguyên vẹn cái hồn của cả một dân
tộc qua từng nhịp thở và nhịp đập của tim. Và tôi cũng cảm được cái hồn lai
láng (như thế) khi viết những dòng chữ này, dù nơi tôi đang sống cách xa Việt
Nam hơn nửa vòng quả đất.
Sau
khi đọc xong “Truyện
không tên,” tôi đã viết thư cảm ơn tác giả vì đã mở cho tôi thấy cái hồn
của dân tộc Việt. Nhà văn Bùi Ngọc Tấn nói rằng ông không viết truyện mà chỉ kể
lại chuyện đời của chị Sợi, theo như lời chính chị tâm sự – thế thôi.
Bùi
Ngọc Tấn đã ra người thiên cổ nhưng chị Sợi, anh Què vẫn còn đang sống tại
Hà Nội. Nơi đây, không phải lúc nào ra ngõ cũng gặp anh hùng hay gặp một ông
(hoặc một bà) tiến sĩ. Đôi khi, chúng ta vẫn gặp được những mảnh hồn của mảnh
đất này nhưng không có cơ duyên để nhận biết thôi.
No comments:
Post a Comment