Giới thiệu: Chính sách
toàn cầu hóa kinh tế trong giai đoạn phát triển từ năm 1972 đến nay tròn 44 năm
và đang được điều chỉnh. Thế giới đang điều chỉnh bằng cách trở lại thời kỳ bảo
thủ (protectionism) dù vẫn phải bảo thủ trong nội dung toàn cầu hóa, bởi vì các
mối tương quan và phụ thuộc về kinh tế quốc tế đã phát triển đến mức không thể
hoàn toàn trở lại như thời kỳ trước Thế chiến Thứ hai. Dù dưới mức độ nào, đối
với các nước đang phát triển đây là một khó khăn vì sự phát triển của các nước
này phụ thuộc vào toàn cầu hóa và toàn cầu hóa đem lại cho họ nhiều mối lợi hơn
các nước tiên tiến. Riêng với Việt Nam, ngoài lý do kinh tế còn có lý do chính
trị vì Việt Nam giống như Trung Cộng đều đặt dưới sự cai trị bởi đảng CS độc
tài. Với chiến thắng của Donald Trump và sự yếu kém của các quốc gia thuộc khối
ASEAN, khả năng Việt Nam sẽ bị “Phần Lan Hóa” ngày càng rõ hơn.
Một
cách vắn tắt, “Phần Lan hóa” (Finlandization), có nghĩa “để trở nên Phần Lan”,
là một khái niệm chính trị để chỉ ảnh hưởng của một cường quốc trên các chính
sách đối nội, đối ngoại và quốc phòng của một quốc gia láng giềng nhỏ, bị cô lập,
không phải là thành viên của một liên minh quân sự và không nhận được sự bảo vệ
của các cường quốc. Khái niệm này bắt nguồn từ chính sách của chính phủ Phần
Lan chấp nhận các chính sách của Liên Xô trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh từ năm
1947 đến năm 1990 để đáp ứng với thực tế chính trị thời bấy giờ. Bài viết Hiểm
họa Trung Cộng và bài học “Phần Lan hóa” (Finlandization) này được
viết vào tháng 8, 2014, nay xin giới thiệu lần nữa khi các điều kiện chính trị
đang diễn ra theo chiều hướng đã được bàn, đồng thời đây cũng là một đóng góp về
kiến thức và lý luận cho những người Việt quan tâm đến tương lai đất nước.
Trong
bài viết Việt Nam đối diện với
việc “Phần Lan hóa” từ Trung Quốc (Vietnam Faces "Finlandization"
from China) cuối tháng Năm, 2014 trên báo Asiasentinel,
David Brown, một cựu nhân viên ngoại giao Mỹ, viết: “Như vậy, trong khi
Washington dường như đã sẵn sàng vẽ một lằn ranh quanh Nhật Bản, Hàn Quốc và
cũng có thể Singapore và eo biển Malacca, Hải quân Hoa Kỳ đang từ bỏ việc đương
đầu tại một khoảng xa cách từ bờ biển Việt Nam.” Tác giả viết tiếp “Điều
đó có thể được hiểu rằng, Mỹ đang dự định chấp nhận nhìn Việt Nam bị “Phần Lan
hóa”.
Tháng
9 năm 2010, trong một bài viết trên tờ Wall Street, Andrew Krepinevich, Chủ tịch
Trung tâm Định ước Ngân sách và Chiến lược (the Center for Strategic and
Budgetary Assessments) cũng cảnh báo Trung Cộng đang tiến hành “Phần Lan hóa”
Thái Bình Dương: “Liên Xô chưa bao giờ thành công “Phần Lan hóa” Châu
Âu. Nhưng sự đe dọa vừa trở lại từ phía Trung Cộng, quốc gia này đang cố gắng
“Phần Lan hóa” Tây Thái Bình Dương. Cách phát triển quân sự của một quốc gia mở
ra cánh cửa cho thấy ý định của nó, và Trung Cộng rõ ràng đang tìm kiếm để gây
hiệu quả tuần tự nhưng quyết định vào cán cân quân sự Mỹ-Trung. Mục đích của
Trung Cộng là ngăn chận Mỹ trong việc bảo vệ các quyền lợi lâu dài trong khu vực
– và để lôi kéo các đồng minh dân chủ của Mỹ vào quỹ đạo của nó.”
Trong
chính luận Tranh chấp Mỹ-Trung,
một cảnh giác cho lòng yêu nước trên talawas năm 2010, người viết
cũng có bàn tổng quát về trường hợp các quốc gia độn như Thổ Nhĩ Kỳ và Phần
Lan. Để có thể tồn tại trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh các nước này đã phải áp dụng
nhiều chiến lược đối ngoại và đối nội khác nhau. Trong lúc Thổ Nhĩ Kỳ chủ
trương cứng rắn chống Liên Xô, đứng hẳn về phía Tây phương, Phần Lan chủ trương
các chính sách đối ngoại và đối nội nhượng bộ Liên Xô. Người viết cũng đã phân
tích chọn lựa của Thổ Nhĩ Kỳ trong chính luận Hiểm họa Trung Cộng và bài học Thổ Nhĩ Kỳ cách đây hai
năm và lần này bàn đến trường hợp Phần Lan.
Với
chủ trương bành trướng Nga Hoàng của Vladimir Putin và ngọn lửa chủ nghĩa dân tộc
cực đoan Đại Hán của Tập Cận Bình đang cháy rộng, khái niệm “Phần Lan hóa”
lại lần nữa được nhắc nhở khá nhiều: “Phần Lan hóa” Ukraine, “Phần
Lan hóa” Đài Loan và cả khả năng “Phần Lan hóa” Việt Nam.
Trước
khi bàn đến việc liệu Việt Nam có thể sẽ bị “Phần Lan hóa” với sự thỏa
thuận ngầm của Mỹ như David Brown phân tích hay thực tế đã bị “Phần Lan hóa”
sau mật ước Thành Đô, cần tìm hiểu các điều kiện địa lý chính trị, lịch sử và
quốc phòng của Phần Lan trong quan hệ với Liên Xô trước và sau Thế chiến thứ
hai cũng như sự ra đời của khái niệm này.
“Phần
Lan hóa” là gì?
“Phần
Lan hóa” (Finlandization) có nghĩa “để trở nên Phần Lan” là một khái niệm
chính trị để chỉ ảnh hưởng của một cường quốc trên các chính sách đối nội, đối
ngoại và quốc phòng của một quốc gia láng giềng nhỏ, bị cô lập, không phải là
thành viên của một liên minh quân sự và không nhận được sự bảo vệ của các cường
quốc. Khái niệm vẫn còn nhiều tranh cãi, mang nặng cảm tính này bắt nguồn từ
chính sách của chính phủ Phần Lan trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh từ năm 1947 đến
năm 1990 để đáp ứng với thực tế chính trị và bảo vệ được chủ quyền đất nước,
hay vắn tắt là để tồn tại.
Phần
Lan trước Thế chiến Thứ hai
Năm
2013 dân số Phần Lan có 5.5 triệu, tuy nhiên trong giai đoạn “Phần Lan hóa”
trong những năm 1940 quốc gia này chỉ có khoảng 4 triệu dân, đa số sống ở các
khu vực miền nam, nhiều nhất tại thủ đô Helsinki và vùng phụ cận. Vì là một nước
quá nhỏ chia sẻ biên giới với các nước lớn nên Phần Lan cũng gặp nhiều lận đận.
Suốt 600 năm, Phần Lan bị Thụy Điển đô hộ. Các viên chức Thụy Điển được cử đến
cai trị Phần Lan. Dù đương đầu với hiểm họa bị đồng hóa, Phần Lan vẫn giữ được
bản sắc văn hóa, ngôn ngữ và tiếng nói riêng. Khi phong trào cải cách tôn giáo
của Martin Luther lan rộng đến Thụy Điển và Phần Lan, Tân Ước được dịch sang tiếng
Phần Lan và đóng vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần của người dân. Sau
chiến tranh giữa Nga và Thụy Điển vào cuối thế kỷ 17, Nga chiếm Phần Lan.
Năm
1912, vua Nga, Alexander I nâng cấp Phần Lan từ hàng tự trị lên cấp quốc gia đặt
thủ đô tại Helsinki. Cũng vào thời điểm đó tinh thần quốc gia Phần Lan do Tiến
sĩ Johan Vilhelm Snellman nuôi dưỡng, bắt đầu phát triển mạnh. Để chống lại
chính sách đồng hóa của Nga Hoàng, Johan Vilhelm Snellman kêu gọi người dân Phần
Lan tuyệt đối không dùng tiếng Nga.
Cách
Mạng CS Nga 1917 bùng nổ, Phần Lan tuyên bố độc lập. Tuy nhiên bị ảnh hưởng
chính trị Nga, cánh tả trong chính phủ Phần Lan rất mạnh và thực hiện một cuộc
đảo chánh. Quân chính phủ do tướng Gustaf Mannerheim chỉ huy phản công và đánh
bại quân phiến loạn. Phần Lan chính thức trở thành nước Cộng Hòa năm 1919 với
K.J. Ståhlberg là tổng thống đầu tiên. Biên giới giữa Nga và Phần Lan được công
nhận theo hiệp ước biên giới Tartu ký kết năm 1920. Quan hệ giữa Phần Lan và Liên
Xô rất căng thẳng, và quan hệ giữa Phần Lan và Đức cũng không tốt đẹp gì hơn.
Tháng
Tám, 1939, Hitler và Stalin ký thỏa hiệp không xâm phạm nhau trong đó có điều
khoản Hitler đồng ý nhường Phần Lan cho Stalin. Khi Phần Lan từ chối việc cho
phép Liên Xô xây dựng căn cứ quân sự trên lãnh thổ Phần Lan, Stalin tấn công Phần
Lan vào tháng 11, 1939. Chiến tranh Mùa Đông (Winter War) bùng nổ. Tuy Phần Lan
thua nhưng đã gây thiệt hại trầm trọng cho phía Liên Xô. Sau Chiến tranh Mùa
Đông (1939) là Chiến tranh Tiếp Tục (Continuation War) (1941-1944). Trong thời
gian này Phần Lan đứng về phía Đức và đem quân tấn công Liên Xô để chiếm lại
các phần đất bị mất trong Chiến tranh Mùa Đông và nhiều phần đất khác của Liên
Xô. Chính Anh Quốc cũng đã tuyên chiến với Phần Lan năm 1941. Năm 1944, Phần
Lan ký hiệp ước đình chiến với Liên Xô.
Phần
Lan sau Thế chiến Thứ hai
Tại
hội nghị Paris năm 1946, Đồng Minh ân xá cho Phần Lan và các nước đã đứng về
phía phe Trục như Romania, Bulgaria, Hungary và cho phép các nước này trở thành
hội viên Liên Hiệp Quốc. Phần Lan và Liên Xô ký các hiệp ước hòa bình lần nữa
vào những năm 1947 và 1948. Trong giai đoạn này Phần Lan quá yếu về khả năng
quân sự so với Liên Xô nên đã buộc phải nhường vùng đất phía nam cho Liên Xô. Đứng
trước sự phân cực đang hình thành trong sinh hoạt chính trị thế giới, Phần Lan
đối diện với một thực tế chính trị thế giới hoàn toàn bất lợi. Đức Quốc Xã, đối
trọng với Liên Xô sụp đổ, không có đồng minh quân sự, bị cô lập về địa lý chính
trị, các quốc gia trong vùng Đông Âu lần lượt trở thành chư hầu CS của Liên Xô,
các quốc gia vùng Baltic như Estonia, Latvia, Lithuania đều bị sáp nhập hẳn vào
Liên Xô. Ưu tiên hàng đầu của chính phủ Phần Lan, vì thế, bằng mọi giá để khỏi
bị trở thành một “Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa” trong Liên Bang Xô Viết.
Quá
sợ Liên Xô nuốt sống như trường hợp các nước vùng Balkan, Phần Lan lấy lòng
Liên Xô bằng cách từ chối viện trợ Mỹ trong kế hoạch viện trợ kinh tế Marshall.
Tuy vậy, Phần Lan ngấm ngầm thiết lập quan hệ kinh tế với Anh, Mỹ và các chính
phủ Anh, Mỹ cũng tìm cách yểm trợ Phần Lan để hy vọng nuôi dưỡng chế độ dân chủ
non trẻ tại quốc gia nhỏ ở Bắc Âu này. Chính sách “Phần Lan hóa” ra đời.
Nội
dung của “Phần Lan hóa ”
- Về
đối ngoại. Phần Lan theo đuổi một chính sách đối ngoại rất mềm dẻo, nhân
nhượng, không làm mất lòng Liên Xô, trung lập. Liên Xô trong thực tế không xem
Phần Lan như là một nước Trung Lập đúng nghĩa mà luôn xem quốc gia này phụ thuộc
vào các chính sách đối ngoại phát xuất từ điện Kremlin. Chẳng hạn, khi đại sứ
Phần Lan Max Jakobson được đề cử vào chức vụ Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc, Liên
Xô chẳng những không ủng hộ mà còn dùng quyền phủ quyết để bác bỏ vì không muốn
thấy một chính khách Phần Lan đóng vai trò quan trọng trong tổ chức chính trị
thế giới.
- Về
đối nội. Loại trừ các thành phần lãnh đạo quốc gia có khuynh hướng chống
Liên Xô và ủng hộ các thành phần thân Liên Xô. Theo tài liệu của CIA, Liên Xô
duy trì mối quan hệ mật thiết với các chính khách thân Liên Xô đứng đầu là Tổng
thống Juho Kusti Paasikivi (1870-1956) và sau đó là Tổng thống Urho Kekkonen
(1900-1986). Liên Xô có quyền phủ quyết các chính sách của Phần Lan và can dự
vào nội bộ Phần Lan qua trung gian đảng CS Phần Lan, Liên Đoàn Dân Chủ Nhân
Dân, Quốc Hội Phần Lan với đa số thuộc cánh tả.
- Về
văn hóa giáo dục. Để vừa lòng Liên Xô, Phần Lan áp dụng chính sách tự kiểm
duyệt, tự kiểm soát và thân Liên Xô. Chính phủ Phần Lan ngăn chận các phương tiện
truyền thông có cái nhìn tiêu cực về Liên Xô. Trên 1700 cuốn sách có nội dung
chống Liên Xô trước đó bị xếp vào thể loại “sách bị cấm”. Các phim ảnh không có
lợi cho Liên Xô như The Manchurian Candidate, One Day in the Life of
Ivan Denisovich v.v. đều không được phép chiếu.
- Về
quốc phòng. Hiệp ước Hữu Nghị Hợp Tác Phần Lan-Liên Xô năm
1948 (Finno-Soviet Pact of Friendship, Cooperation and Mutual Assistance) quy định
Phần Lan phải có trách nhiệm chống lại các lực lượng thù địch của Liên Xô khi
các lực lượng này tấn công Liên Xô ngang qua ngả Phần Lan và nếu cần sẽ kêu gọi
sự giúp đỡ quân sự của Liên Xô. Phần Lan không được liên minh quân sự với một
quốc gia thứ ba. Điều này do Liên Xô đặt ra để giới hạn Phần Lan gia nhập NATO
giống như trường hợp Đan Mạch và Na Uy. Trước đó, trong hiệp ước ký kết giữa
hai nước, Phần Lan đã nhường 10 phần trăm lãnh thổ cho Liên Xô.
Nhắc
đến “Phần Lan hóa” không thể bỏ qua vai trò của Tổng thống Phần Lan Urho
Kekkonen, người lèo lái chính sách này trong suốt 26 năm làm tổng thống. Những
người phê bình Urho Kekkonen cho rằng ông ta là con cờ của Liên Xô trong khi những
người ủng hộ xem ông như là một trong những anh hùng của Phần Lan vì đã bảo vệ
được chủ quyền Phần Lan trong một hoàn cảnh chính trị thế giới vô cùng khó
khăn.
Công
tâm mà nói, trong suốt dòng lịch sử, lãnh thổ Phần Lan là bãi chiến trường cho
các tham vọng bành trướng của Thụy Điển và sau đó là Nga Hoàng. Sau Thế chiến
thứ hai, hầu hết các quốc gia vùng Baltic và Balkan đều nằm trong quỹ đạo Liên
Bang Sô Viết. Lịch sử, văn hóa, ngôn ngữ của quốc gia này đều bị xóa bỏ. Ý thức
được điều đó, mục tiêu hàng đầu của Kekkonen là bảo vệ chủ quyền Phần Lan, bảo
vệ nền Cộng Hòa Phần Lan bằng mọi giá, không thể để Phần Lan trở thành một xứ tự
trị như thời Nga Hoàng hay một “Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa” của Stalin. Mặc dù
nhân nhượng Liên Xô rất nhiều trong các lãnh vực chính trị, quốc phòng Phần Lan
cũng có lợi về kinh tế vì Liên Xô là quốc gia nhập cảng lớn nhất sản phẩm của
Phần Lan. Sự sụp đổ của Liên Xô đã gây ra những suy thoái kinh tế trầm trọng tại
Phần Lan. Sau giai đoạn phục hồi, Phần Lan đã phát triển một cách vượt bực.
Ngày nay Phần Lan hội nhập cao vào nền kinh tế thế giới và là một trong những
quốc gia phát triển nhanh nhất thế giới.
Trở
lại với quan hệ Trung Cộng và CS Việt Nam trong cái nhìn so sánh giữa Liên Xô
và Phần Lan.
Trung
Cộng sau Thiên An Môn
Chính
sách đối ngoại của Trung Cộng trong thời gian năm 1990 nhằm mục đích thoát khỏi
sự cô lập quốc tế và ổn định chính trị nội bộ sau biến cố Thiên An Môn. Những
thành tựu kinh tế của chính sách bốn hiện đại hóa từ đầu thập niên 1980 đã đạt
một số thành tích đáng kể nhưng tất cả đều rất mong manh, yếu kém. Các cường quốc
dân chủ vẫn còn trừng phạt kinh tế sau khi Đặng Tiểu Bình ra lệnh tàn sát nhiều
ngàn sinh viên Trung Quốc yêu dân chủ tại Thiên An Môn đầu tháng 6, 1989.
Như
hầu hết các quốc gia CS, kế hoạch chung của cả nước luôn chế ngự và đồng thời
duy trì tính cân đối của các chính sách đối ngoại cũng như đối nội trong mỗi thời
kỳ. Để thoát khỏi sự cô lập và phục hồi vị trí của Trung Cộng trong bang giao
quốc tế, Đặng Tiểu Bình theo đuổi chính sách đối ngoại mềm dẻo trong đàm phán
biên giới với hàng loạt các nước lân bang trong đó có Việt Nam. Chính sách của
ho Đặng được gọi là chính sách 20 nét chữ “bình tĩnh quan sát, giữ vững trận địa,
bình tĩnh ứng phó, giấu mình chờ thời” (lengjing guancha, chenzhuo
yingfu, wenzhu zhenjiao, taoguang yanghui, yousuo zuowei).
Sự
sụp đổ của hệ thống Liên Xô làm Trung Cộng không còn lo ngại vòng vây Liên Xô từ
hướng Việt Nam nhưng lại có mối lo mới nguy hiểm và hùng mạnh hơn nhiều, đó là
Mỹ. Như người viết đã trình bày trong các bài trước, thời điểm năm 1990 đối tượng
cạnh tranh của Trung Cộng là Mỹ và Nhật chứ không phải Liên Xô hay chư hầu của
nó là CSVN và mục tiêu bành trướng của họ Đặng không chỉ giới hạn ở các cù lao
trên biển, vài ngọn núi đất ở Hà Giang mà cả Thái Bình Dương. Và để giới hạn sự
đe dọa của Mỹ, Trung Cộng đã làm hòa với CSVN. Hai bên đã mở các cuộc đàm phán
vào năm 1991 và đạt đến thỏa hiệp vào năm 1993 sau mật ước Thành Đô.
Việt
Nam sau Liên Xô
Sau
khi hệ thống CS tại châu Âu sụp đổ, nền kinh tế của các nước CS còn lại của khối
COMECON trong đó có Lào, Cu Ba và CSVN trở thành đàn gà mất mẹ. Trong bài bình
luận nhân dịp kỷ niệm 20 năm bức tường Bá Linh đổ, tạp chí The
Economist nhận xét chung rằng khi chế độ thực dân ra đi, các nước cựu
thuộc địa ít ra còn hưởng được các phương pháp quản trị, hệ thống tư pháp và
nhiều trường hợp cả ngôn ngữ nhưng chế độ CS ra đi không để lại gì ngoài nghèo
đói, ngục tù và lạc hậu.
Số
phận của đảng CSVN như chỉ mành treo chuông. Trong giờ phút sinh tử đó, lãnh đạo
CSVN xem dấu hiệu hòa hoãn của Đặng Tiểu Bình như chiếc phao giữa biển. Họ vui
mừng bám lấy. Dĩ nhiên, với bản chất thâm độc, đầu óc tính toán của lãnh đạo
Trung Cộng, món lễ vật của đàn em CSVN dâng lên trong ngày quy phục thiên triều
lần nữa phải là một lễ vật đắt giá. Món nợ máu xương từ năm 1979 trở về trước hẳn
được Đặng Tiểu Bình đòi cả vốn lẫn lời.
Hội
nghị bí mật tại khách sạn Kim Ngưu, Thành Đô, thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên diễn ra
trong hai ngày 3 và 4 tháng 9 năm 1990 giữa phía Việt Nam gồm Phạm Văn Đồng, Đỗ
Mười, Nguyễn Văn Linh và phía Trung Quốc gồm Giang Trạch Dân và Lý Bằng thực chất
là lễ cam kết một loại “công hàm” khác, trầm trọng hơn nhiều so với “công hàm
Phạm Văn Đồng”. Chiều ngày 7 tháng 11 năm 1991 tại Nhà khách Chính phủ Điếu Ngư
Đài Bắc Kinh, Giang Trạch Dân tuyên bố “Nhưng chúng tôi hy vọng giữa
Trung Quốc và Việt Nam có thể khôi phục mối quan hệ mật thiết giữa hai Đảng và
hai nước do những người lãnh đạo thuộc thế hệ lão thành xây dựng nên." Họ
Giang muốn nhắc nhở lãnh đạo CSVN về thời kỳ mà đảng CSVN thở bằng bình oxygen
Trung Cộng trong các thập niên 1950, 1960.
Trung
Cộng muốn Việt Nam những gì Liên Xô muốn Phần Lan và nhiều hơn nữa:
-
Giống như Liên Xô áp dụng với Phần Lan, Việt Nam phải “trung lập” trên
danh nghĩa. Phần Lan luôn tuyên bố trung lập và Liên Xô ủng hộ vị trí trung
lập của Phần Lan nhưng thực chất có quyền phủ quyết hầu hết các chính sách đối
ngoại của Phần Lan. CSVN cũng thế. Họ luôn tuyên bố “quan hệ hợp tác bình đẳng
cùng có lợi” với mọi quốc gia trên thế giới nhưng thực chất chỉ “hợp tác” với sự
đồng ý của Trung Cộng. Bất cứ khi nào có dấu hiệu làm trái ý, Trung Cộng sẽ
dùng mọi biện pháp hèn hạ nhất để trừng phạt như trường hợp giàn khoan HD981 vừa
qua, bất chấp dư luận thế giới khinh khi.
-
Giống như Liên Xô áp dụng với Phần Lan, các chính sách an ninh quốc
phòng của Việt Nam không được đi ngược với chính sách quốc phòng của Trung Cộng,
không được độc lập trong toàn bộ chiến lược an ninh châu Á của Trung Cộng. Để
thỏa mãn Trung Cộng, Việt Nam theo đuổi một chính sách quốc phòng “ba không” tự
sát: (1) không tham gia các liên minh quân sự, (2) không là đồng minh quân sự của
bất kỳ nước nào, (3) không cho bất cứ nước nào đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam và
không dựa vào nước này để chống nước kia. Các điều khoản này tương tự các điều
khoản của hiệp ước mà Phần Lan phải ký với Liên Xô năm 1948.
-
Giống như Liên Xô đã cướp đất của Phần Lan, CSVN đã chấp nhận vị trí đặc
quyền, đặc lợi của Trung Cộng trong Biển Đông. Như đã viết, khi thỏa hiệp
bán nước Thành Đô vừa ký kết xong, ngày 25 tháng 2 năm 1992, Quốc vụ viện Trung
Cộng thông qua “Luật Lãnh hải và vùng tiếp giáp” quy định lãnh hải rộng 12 hải
lý, áp dụng cho cả bốn quần đảo ở Biển Đông trong đó có quần đảo Tây Sa (Hoàng
Sa) và Nam Sa (Trường Sa). Ba tháng sau đó, Trung Cộng ký hợp đồng khai thác dầu
khí với công ty năng lượng Crestone, cho phép công ty này thăm dò khai thác dầu
khí trong thềm lục địa Việt Nam và hứa sẽ bảo vệ công ty Creston bằng võ lực.
Ngoài ra, Trung Cộng còn ra lịnh cấm đánh cá, thành lập các đơn vị hành chánh cấp
huyện tại Hoàng Sa và Trường Sa.
-
Giống như Liên Xô đã áp lực với lãnh đạo Phần Lan, Việt Nam cũng thực
hiện các chính sách tự kiểm duyệt các tin tức gây mất lòng Trung Cộng, giới
hạn các phim ảnh, sách báo có nội dung tiêu cực về chế độ CS tại Trung Quốc,
ngăn chận mọi ý kiến, phản ứng dù rất ôn hòa của người dân trước các hành động
gây hấn, xâm lược lộ liễu của Trung Cộng. Tháng Sáu vừa qua, các báo VnExpress,
Thanh Niên, Người Lao Động, Tiền Phong, Giáo Dục đã phải đồng loạt lấy xuống
các hình ảnh và tin tức liên quan đến ngày kỷ niệm Tàn Sát Thiên An Môn. TS
Nguyễn Quang A, một trong những thành viên chủ trương Diễn đàn Xã hội Dân sự
phát biểu với RFA: “Điều đó chứng tỏ rằng
những thế lực trong Đảng Cộng sản Việt Nam còn gắn rất chặt với Trung Quốc. Tôi
tin chắc chắn là họ nghe theo lệnh của Bắc Kinh để họ làm như vậy.”
-
Bên cạnh các điểm giống nhau nêu trên, một điểm khác biệt có tính quyết định đối
với tương lai của dân tộc Việt Nam: Trung Cộng quyết tâm bảo vệ đảng
CSVN. Làm gì thì làm, nói gì thì nói, lãnh đạo CSTQ cũng biết hiện nay
chỉ còn năm đảng cầm quyền mang nhãn hiệu búa liềm. Nắm giữ Việt Nam về mặt lý
luận tư tưởng không chỉ để bảo vệ cơ chế mà còn tránh sự sụp đổ dây chuyền
trong trường hợp cách mạng dân chủ tại Việt Nam diễn ra trước. Và do đó, bị “Phần
Lan hóa” trong quỹ đạo Trung Cộng cũng có nghĩa ngày nào Trung Cộng còn do đảng
CS cai trị ngày đó nhân dân Việt Nam lại cũng sẽ tiếp tục chịu đựng dưới ách chủ
nghĩa độc tài toàn trị Lê Nin không có Mác. Tổng thống Phần Lan Urho Kekkonen
phải khuất phục Liên Xô chỉ vì để bảo vệ chế độ cộng hòa và chủ quyền đất nước,
lãnh đạo CSVN bám vào chiếc phao Trung Cộng chỉ vì quyền lực và quyền lợi riêng
của đảng CS.
Những
phân tích trên cho thấy có khả năng cao Việt Nam đã bị “Phần Lan hóa” qua mật ước
Thành Đô. Và Việt Nam, như một dân tộc, chỉ có thể tự thoát khỏi quỹ đạo Trung
Cộng tức tránh khỏi nạn bị “Phần Lan hóa” bằng (1) dân chủ trước Trung Cộng,
(2) đoàn kết dân tộc để vượt thoát và thăng tiến, (3) chủ động chiến lược hóa vị
trí quốc gia trong tranh chấp Thái Bình Dương, (4) sát cánh với láng giềng cùng
hoàn cảnh và tham gia các liên minh tin cậy như đã trình bày trong chính luận Để
thắng được Trung Cộng.
_____________________________________________
Tham
khảo:
-
“Finlandization” in Action: Helsinki’s Experience with Moscow”, Directorate of
Intelligence Report. CIA
-
Adrew (Andrew) F. Krepinevich, The Wall Street Journal(,) Sept 11, 2010
-
David Brown, Asia Sentinel, May 22(,) 2014
-
Finland, a country study, Library of Congress , Eric Solsten and Sandra W.
Meditz, December 1988
-
Mart Laar,The Power of Freedom - Central and Eastern Europe After 1945, Unitas
Foundation, 2010
-
Challenges for the U.S.(,) Robert S. Ross, Allen S. Whiting and Harry Harding,
The NBR Analysis, 1990
-
Regime Insecurity and International Cooperation, M. Taylor Fravel,
International Security, Vol. 30, No. 2 (Fall 2005), pp. 46–83 © by the
President and Fellows of Harvard College
-
Korean Reunification Would Cast Off China’s Shadow , Mark P. Barry, World
Policy
- Wikipedia.org The
Molotov–Ribbentrop Pact
- Wikipedia.org on
Finland
No comments:
Post a Comment