Một cô cháu mới sang Đức học nghề, tâm sự với
mẹ là sang đây thèm mỳ tôm quá. Chắc vì cháu mới sang nên chưa biết chỗ mua (và
giá cũng rẻ lắm). Gia đình cháu thuộc diện nghèo ở Hà Tĩnh, nên mỳ tôm là bạn đồng
hành với cháu từ bé. Trong đại dịch Covid, nhiều gia đình đã phải ăn mỳ tôm cầm
hơi cả tháng trời. Nói đến cứu trợ thiên tai, ai cũng nghĩ ngay đến các hộp mỳ
được chở bằng thuyền thúng đến từng gia đình bị nạn.
Mỳ tôm là cái tên dân gian của tất cả các loại
mỳ ăn liền, dù nó có vị tôm, vị bò hay vị lợn, dù nó là mỳ, là miến hoặc phở ăn
liền. Sau 30.04.1975, chiến tranh mới kết thúc, đất nước chia kịp thống nhất
thì cái dạ dày người miền Bắc đã được hưởng thành quả thống nhất qua các loại mỳ
Vifon, Miliket, Vị Hương v.v… Anh nào đi miền Nam ra, xách được thùng “Hai-tôm
Miliket” tặng mẹ bạn gái, thì chắc ăn 100%. Về sau mỳ được đóng thành bao
ny-lon 50 gói một, phân phối về các cơ quan. Công đoàn chỉ còn mỗi việc phân
chia cho cán bộ. Cứ thế, mỳ ăn liền gắn bó với cuộc đời của rất nhiều người Việt.
Không phải ai cũng thích mỳ ăn liền, vì y học
chứng minh là nó không những ít chất bổ, thậm chí chứa nhiều hóa chất không có
lợi cho sức khỏe. Người ta coi đó là món ăn của dân nghèo. Nhưng cái ưu thế rẻ
tiền, nhanh giải quyết cơn đói trước mắt, nên khiến người có tiền vẫn mê nó.
Tôi chứng kiến người “sang” đi Vietnam
Airlines hạng thương gia vẫn kêu mỳ ăn liền. Máy bay kín nên mở hộp mỳ nước sôi
ra, mùi của nó rất cám dỗ, khiến rất nhiều người ăn, mà toàn là người Việt. Người
Tây đi máy bay chỉ kêu bánh mỳ kẹp. Mỳ ăn liền bán ở siêu thị Âu không chạy như
trong các cửa hàng châu Á.
Người ta nói “Văn hóa mỳ ăn liền” chắc có lý ở
Việt Nam. Ở xứ này tâm lý mỳ tôm không chỉ thịnh hành trong ăn uống, mà cả
trong mọi hoạt động của xã hội. Từ bé, tôi đã được giáo dục phương châm: Mọi thứ
phải “nhanh nhiều tốt rẻ”. Tôi rất sướng tai mỗi khi được nghe về “đốt cháy
giai đoạn”.
Khi tiến hành công nghiệp hóa XHCN thì phương
châm này được theo đuổi một cách triệt để, và kết quả là hàng trăm nhà máy đường,
xi măng, luyện kim, tàu thủy rẻ tiền v.v… được các tỉnh nhập từ Trung Quốc về,
đã trở thành những đống sắt rỉ. Rồi các loại thủy điện rẻ tiền mọc lên như nấm,
gieo rắc tai họa cho nhiều thế hệ. Những dự án kiểu như như Bauxite Tây Nguyên,
Thép Formosa, được thông qua bất chấp dư luận và đang vận hành với những hậu quả
khôn lường về môi trường và kinh tế. Tệ hại nhất là chúng chia rẽ lòng dân,
chia rẽ người Kinh với người Thượng.
Không thể kể hết số người bị bắt vì những dự
án này.
Có người cho rằng, những tệ nạn kể trên là do
tham nhũng, vốn là bản chất của quá trình tư bản hóa từ một nền kinh tế công hữu,
trong một thể chế thiếu dân chủ và minh bạch. Đúng vậy, nhưng những dự án đó
không phải chỉ một nhóm bọn quan tham tự đề ra để ăn cắp. Chúng được quốc hội,
các cấp lãnh đạo cao nhất của đảng, chính phủ thông qua, mà trong đó không phải
ai cũng được giây máu ăn phần. Họ thông qua vì vô trách nhiệm và vì cái tâm lý
mỳ tôm.
Cái tâm lý này ngự trị cả trong giới doanh
nhân, trong các nhà tư bản mới trỗi dậy. Từ B-Phone muốn đè bẹp iPhone, rồi
hàng chục tỷ đổ vào mạng “Go.vn” để thay thế Facebook. Báo chí Việt Nam luôn đe
dọa Tesla rằng, my sẽ bị Vinfast qua mặt.
Những hợm hĩnh đó có nguồn gốc từ “Văn hóa Mỳ
tôm”.
Việt Nam đang vùng vẫy để thoát ra khỏi gọng
kìm của nhiều vấn nạn. Chúng ta không chỉ tụt hậu về kinh tế mà cả trong giáo dục,
y tế, văn hóa, giao thông, pháp chế, dân chủ, nhân quyền v.v… Nhiều người coi
các vấn đề trên là xa xỉ, vì nhà nước đang tập trung vào vấn nạn lớn nhất mà đại
đa số người dân quan tâm là: Xóa đói nghèo!
Để xóa đói giảm nghèo nhanh, người ta vẫn bám
vào phương châm đốt cháy giai đoạn để rồi đốt cháy cả môi trường sống. Câu chuyện
trồng cây keo để mau chóng phủ xanh diện tích rừng, mau chóng đem lại lợi tức
cho nông dân, là một ví dụ.
Chỉ cần 4 năm trồng rừng là cây keo đem lại
thu nhập, đầu ra đã có công nghiệp giấy bao tiêu, đầu vào cậy giống được công
nghiệp giấy trợ giá. Nhưng keo trồng đến đâu, đất bị bạc màu, bị xói mòn, thảm
thực vật cùng các loại côn trùng muông thú bị tận diệt đến đó. Hạn hán, lũ lụt
phá hoại cả một diện tích đồng bằng bao la. Sau 4-5 vụ trồng keo thì đất bạc
màu hẳn, chỉ còn cách phá rừng tiếp để trồng mới, vì cả chục năm sau đất đã trồng
keo mới hồi phục.
Mỗi hecta trồng keo chỉ đem lại 30-35 triệu
VND/năm cho một gia đình. Với số tiền này họ vẫn sống trong cái ngưỡng nghèo,
nhưng thoát chết đói.
Khi giúp bà con nông dân từ bỏ trồng keo, trồng
cây bản địa để phục hồi rừng tự nhiên, chúng tôi biết là đang lội ngược dòng.
Báo chí suốt ngày ca ngợi kỳ tích trồng keo
thoát đói giảm nghèo. Nhưng xóa đói nghèo ra sao để phát triển bền vững, để
không tàn phá đất nước thì ít ai nói tới. Hoặc có nói thì chỉ được nói theo
tuyên huấn.
Hôm qua nay câu chuyện “Tỉnh Bình Thuận sắp
phá khu rừng tự nhiên hơn 600ha ở xã Mỹ Thạnh huyện Hàm Thuận Nam để làm hồ thuỷ
lợi“, khiến dư luận bức xúc.
Việc một nhóm nào đó muốn phá cả một khu vực
sinh thái như vậy để phục vụ các mục đích kinh tế của họ, thì vẫn như lâu nay:
Thép hay là cá? Bauxite hay môi trường? Nay “Thủy lợi hay rừng?” – Vẫn thế.
Có người còn bảo 600ha rừng ở xã Mỹ Thạnh,
Bình Thuận chỉ là 6km² trong số 140.000km² rừng Việt Nam. Làm gì mà ầm ỹ lên thế!
Phê xe Vinfast thì bị công an gọi. Phản đối chặt
cây ở Hà Nội thì bị bắt vào đồn, chưa hết, còn bị đưa lên VTV chửi. Đưa tin chuẩn
bị phá 600ha rừng Bình Thuận bị đe dọa. Kiểu trấn áp này nhiều lắm.
Tức là vẫn có người nhìn ra vấn đề, nhưng bị
chẹn họng.
Cái chết của rừng, của biển, của thiên nhiên
Việt Nam có thể bắt nguồn từ lòng tham của con người, từ sự “u muội mỳ tôm” của
những kẻ nắm quyền. Nhưng đau nhất là do phản biện bị cấm trong một nền truyền
thông một chiều, bưng bít.
HÌNH :
https://www.facebook.com/photo/?fbid=24132649309659815&set=pcb.24132592066332206
https://www.facebook.com/photo?fbid=24132590486332364&set=pcb.24132592066332206
https://www.facebook.com/photo?fbid=24132588832999196&set=pcb.24132592066332206
.
No comments:
Post a Comment