GÓC NHÌN KHÁC VỀ TẦNG
LỚP TRÍ THỨC Ở VIỆT NAM HÔM NAY
Quách
Hạo Nhiên
07/10/2021
http://www.viet-studies.net/kinhte/QuachHaoNhien_ViSaoPhanBienItTacDung.html
Thời gian qua, chứng kiến sự
tụt hậu của đất nước; hay những sự kiện liên quan đến an ninh chủ quyền quốc
gia, sự cố thảm họa môi trường, những chính sách sai lầm của nhà cầm quyền
trong việc thu hồi đất của người dân gây nên những thảm kịch đớn đau điển hình
là vụ Đồng Tâm ở Hà Nội; thông qua các kênh khác nhau các nhân sĩ trí thức nước
nhà hoặc là với tư cách cá nhân hoặc tập hợp lại thành những hội nhóm gửi kiến
nghị, “tâm thư” đến nhà cầm quyền hoặc cá nhân lãnh đạo cấp cao nào đó.
Trước hết, phải nói rằng cá nhân tôi luôn tôn
trọng những ý kiến được gửi gắm qua những đơn thư và kiến nghị của đội ngũ nhân
sĩ trí thức nước nhà. Bởi đây trước hết là quyền tự do ngôn luận, quyền bày tỏ
chính kiến của họ với tư cách là công dân trong “nhà nước pháp quyền XHCN”.
Dẫu vậy, ở phương diện khác, trong cảm nhận của
riêng tôi, dường như những đơn thư, kiến nghị này rất ít có tác dụng với nhà cầm
quyền. Trong một vài vấn đề cụ thể, tôi nghĩ rằng, nhà cầm quyền chắc chắn có
tiếp thu nhưng có lẽ vì sỉ diện nên họ không hồi âm mà chỉ âm thầm điều chỉnh,
thay đổi. Nhưng với những vấn đề lớn như “cải cách thể chế chính trị”, vấn đề
thực hiện và tôn trọng “nhân quyền”, hay những sự vụ nghiêm trọng như vụ Đồng
Tâm…nhà cầm quyền không những không thèm nghe mà có khi còn làm khó dễ những
người kiến nghị.
Vì sao như vậy? Tôi thử lý giải nguyên
nhân vấn đề này qua một số đặc điểm và biểu hiện dưới đây.
1. Tính chính
danh, sự cực đoan, “đông mà không tinh” của tầng lớp trí thức
Ở phần trước, chúng tôi đã nói một xã hội muốn
phát triển theo hướng văn minh đương nhiên rất cần có tiếng nói phản biện của
thành phần trí thức.
Dẫu vậy, người trí thức trước khi lên tiếng phản biện vấn đề gì đó nhất
là những vấn đề liên quan đến đường lối, chính sách của nhà cầm quyền phải luôn
tự vấn bản thân mình. Điều này càng quan trọng hơn với một quốc gia độc đảng,
chuyên chế và toàn trị như Việt Nam.
Có thể nói, bản chất và tâm lý chung của các
nhà cầm quyền độc tài trên thế giới là vừa kiêu ngạo vừa sợ hãi. Kiêu ngạo khi
tự cho mình là là “tài tình sáng suốt”, là “đỉnh cao”, là số một, là chân lý cuối
cùng,… Cũng chính vì quá kiêu ngạo nên mặt khác họ luôn cảm thấy không an tâm
và sợ hãi khi có ai đó phản biện, chỉ ra sự tệ hại, giả dối của mình - một kiểu
“tự kỷ ám thị”. Chính bản chất và tâm lý này nên những người trí thức ở xã hội
độc đảng, chuyên chế phải thường xuyên đối mặt với những tình huống khó khăn thậm
chí bi kịch hơn tầng lớp trí thức ở các quốc gia đa nguyên đa đảng.
Những người trí thức ở các quốc gia đa nguyên,
đa đảng khi tham gia phản biện xã hội, phản biện nhà cầm quyền hầu như không bị
các đảng phái, phe nhóm đối lập điều tra, truy nguyên lý lịch tổ tông ba đời và
gây ảnh hưởng đến bạn bè, người thân. Ngược lại, ở các quốc gia độc tài, người
trí thức rất dễ bị nhà cầm quyền chụp mũ chính trị, thậm chí thủ tiêu “thà giết
lầm hơn bỏ sót” nếu họ cảm thấy quyền lực của mình bị đe dọa.
Thế nên, sự cẩn trọng, tính xác đáng, nhất là
không cực đoan trong khi phản biện nhà cầm quyền trước hết là cách để những người
trí thức tự bảo vệ bản thân mình. Quan trọng hơn nữa phải làm sao “thuyết phục”,
“dỗ dành” nhà cầm quyền để tránh cho họ cái tâm lý bị “mất mặt” (với dân chúng
và với bạn bè quốc tế) vì những sai lầm mà họ gây ra. Đồng thời không có cảm thấy
bất an, sợ hãi vì bị đe dọa lật đổ hay tước đoạt quyền lực.
Khách quan mà nói, không một chính khách,
không một nhà cầm quyền nào, thuộc thể chế chính trị nào đang ở ngôi cao quyền
lực mà không sợ bị kẻ khác lật đổ. Trong khi đó, bản chất của hoạt động phản biện
xã hội nói chung là sự trao đổi, đối thoại, thảo luận, tranh luận để tìm giải
pháp tốt nhất cho vấn đề nào đó trên tinh thần thỏa thuận bất bạo động.
Rất có thể khi rà soát và điều tra về nhân
thân, lý lịch của những trí thức gửi thư kiến nghị, “Đảng ta” đã phát hiện ra,
bên cạnh số ít những nhân sĩ trí thức chân chính là hàng loạt những “trí thức”,
các “nhà dân chủ tự phong” trên mạng xã hội? Chính điều này đã làm cho “Đảng
ta” không an tâm về tính chính danh và thiện chí thật sự của những người gửi kiến
nghị. Vì trên thực tế, nhận thức của các “trí thức”, các “nhà dân chủ tự phong”
về các vấn đề tự do, dân chủ, nhân quyền không những hời hợt mà còn rất cực
đoan. Thậm chí, trong mắt nhà cầm quyền, đây là “những phần tử cơ hội, cấu kết
với thế lực phản động” nào đó bên ngoài với âm mưu bạo loạn lật đổ họ.
Nếu “Đảng ta” với thói quen “tô hồng”, luôn thổi
phòng những thành tựu và che dấu sự thật về những sai lầm và yếu kém của mình
thì các “trí thức”, các “nhà dân chủ tự phong” lại cố tình hạ thấp, phủ nhận bằng
cách cố tình bôi đen. Nên xét về bản chất cả hai đều giả trá và “xuyên tạc sự
thật” như nhau. Vì vậy, nếu quyền lực mà chuyển giao cho những người này cũng
không lấy gì đảm bảo một tươi sáng hơn cho dân tộc và đất nước. Trong hàng ngũ
của nhà cầm quyền, có thể không nhiều nhưng chắc chắn vẫn có những trí thức với
tư tưởng cấp tiến nên không khó để họ nhận ra vấn đề này.
Đến đây, có thể thấy, tiếng nói phản biện của
tầng lớp trí thức quan trọng nhất là ở tính chính danh, ở sự nghiêm túc và
chuyên nghiệp trong cách nghĩ, cách làm.
Nhìn rộng ra, có thể nói những kiến nghị liên
quan đến vấn đề “cải cách thể chế”, các quyền tự do, dân chủ, nhân quyền của tầng
lớp trí thức thời gian qua về lý thuyết có thể không sai, dẫu vậy các điều kiện
để thực thi trong thực tế dường như vẫn chưa thật sự chín muồi. Cụ thể là tư
duy, nhận thức, ý thức của dân chúng liên quan đến những vấn đề này nhìn chung
vẫn chưa được chuẩn bị, trang bị một cách căn cơ và toàn diện.
Và đây, suy cho cùng cũng chính là trách nhiệm
của tầng lớp trí thức trong vai trò những người làm công tác giáo dục, các nhà
nghiên cứu về văn hóa, lịch sử, chính trị, pháp luật…
2. Sự đa nhân
cách, xu thời, nước đôi của một bộ phận trí thức
Trí thức phải có tư duy độc lập, phải có chính
kiến để “dám đương đầu với cường quyền”, v.v… là quan điểm không sai về phương
diện lý thuyết. Nhưng nói là một chuyện còn thực hành những điều ấy trong thực
tế cuộc sống là một chuyện khác.
Quan sát những gì đang diễn ra, rất tiếc tôi
buộc phải nói rằng Việt Nam hôm nay thật sự rất ít những trí thức có tư duy độc
lập và chính kiến. Thay vào đó, nhìn vào cách hành xử, ứng xử của không ít người
nhất là những người rất khó để tin họ đang thuộc “phe nhân dân” hay “phe chính
quyền”, “phe nước mắt, cần lao” hay “phe đại gia, tư bản đỏ”; phe bảo thủ hay cấp
tiến vì “mâm” nào họ cũng có mặt.
Về chuyện này, tôi thấy cần nhắc lại quan điểm
của mình trong bài viết trước đây. Sự băng hoại về đạo đức văn hóa ở xã hội Việt
Nam hôm nay có nguyên nhân rất lớn từ suy nghĩ và lối sống muôn mặt, giả tạo,
lá mặt lá trái, gió bề nào che bề đó của một bộ phận những người có chữ trong
tư cách nhà văn, nhà giáo, nhà báo…Và đây cũng chính là nguyên nhân làm cho nhà
cầm quyền nghi ngờ, không coi trọng, không lắng nghe những kiến nghị, góp ý của
tầng lớp trí thức nước nhà thời gian qua.
Sinh thời, triết gia người Pháp Jean-Paul
Sartre là người ủng hộ chủ nghĩa cộng sản. Tuy vậy, Jean-Paul Sartre vẫn xứng
đáng là một trí thức đúng nghĩa, nói được làm được.
Năm 1964, Jean-Paul Sartre đã từ chối giải
Nobel Văn học của Viện hàn lâm Khoa học Thụy Điển. Trong một lá thư gửi đến những
người xét trao giải năm đó, J. P. Sartre đã giải thích sở dĩ ông từ chối sự
khen ngợi và tôn vinh này vì ông sợ bị lệ thuộc vào ánh hào quang của giải thưởng
và tổ chức. Như thế sẽ làm ông đánh mất tư duy độc lập, khiến ông trở nên gò bó
trong sáng tác và nghiên cứu. Trên thực tế, ông cũng từng từ chối nhận Huân
chương Bắc đẩu bội tinh do Nhà nước Pháp trao tặng năm 1945.
Trong cái nhìn so sánh, xem ra những người có
chữ ở Việt Nam hôm nay rất ít người có cách hành xử, ứng xử như Jean-Paul
Sartre. Gần như không một giải thưởng văn chương lớn nhỏ nào ở xứ này không có
kiện tụng, tranh cãi. Trí thức, nhà văn, nhà thơ, nhà giáo, nhà báo gì mà ngoài
miệng thì bảo không quan tâm và coi thường các giải thưởng, các danh xưng, danh
hiệu của nhà nước trao tặng nhưng mặt khác vẫn âm thầm làm hồ sơ hoặc đi đêm vận
động hành lang để mong được giải. Đến khi không được rồi thì lại tiếp tục công
kích và thưa kiện.
Là trí thức trước hết phải trung thực cả
trong suy nghĩ lẫn lời nói, hành động. Không ít người hôm nay, khi đánh giá và
luận về Tố Hữu đều tỏ thái độ dè bĩu, miệt thị hết lời. Nhưng công bằng và
khách quan mà nói, Tố Hữu, xét trong bối cảnh văn hóa, xã hội ở miền Bắc Việt
Nam trước đây là người không phải không đáng trọng, đáng nể. Tố Hữu sinh ra và
lớn lên trong bầu khí quyển cách mạng ấy, nhận thức của ông trong khuôn khổ như
thế và ông đã chung thủy, cả đời sống chết với lý tưởng mà ông đã lựa chọn và
phụng sự. Hậu thế hôm nay dĩ nhiên có quyền phán xét những sai lầm của ông
nhưng đó là chuyện của hậu thế dù sao ông cũng chẳng còn để mà bận tâm.
Thế nhưng, ở phương diện nào đó, tôi rằng
Tố Hữu vẫn không nguy hiểm và đáng sợ bằng những kẻ ngay từ đầu tuy biết rõ
ông, hiểu rõ thơ ông thật ra cũng chẳng phải đỉnh cao gì nhưng vẫn hết lời tung
hô, “khấn khứa” để mong tìm một “chỗ đứng”, một thành tựu cho riêng mình. Nhưng
khi ông bị thất sủng hoặc không còn nữa thì ngay lập tức “bẻ kèo”, quay sang
công kích.
Nói khác đi, là một trí thức không thể khi cần
thì anh vuốt ve, bợ đỡ các quan chức lãnh đạo trong bộ máy chính quyền để được
giao cho các đề án, dự án cấp nhà nước, cấp quốc gia nhưng khi xong việc hoặc vừa
nhận sổ hưu là ngay lập tức lên mạng xã hội mạt sát, công kích, đổ hết mọi sai
lầm và tội lỗi cho “Đảng ta” như một cách chứng minh bản thân minh trong sạch
và là người có tư tưởng cấp tiến.
Nên nhớ nhà cầm quyền cộng sản ở Việt Nam vốn
là “bậc thầy” trong các chiêu trò “dân vận”, “đánh du kích”, “đánh trong lòng địch”
đánh ra. Bằng kinh nghiệm “đánh Pháp đuổi Mĩ”, “giải phóng miền Nam thống nhất
đất nước” trước đây cộng với tất cả công cụ và quyền lực hiện có, không khó để
họ nhận ra trong danh sách những cái tên viết tâm thư, kiến nghị đâu là những
trí thức thực thụ, đâu là trí thức bất mãn, “trở cờ”, “hai ba mang”, đâu là trí
thức được “phong hàm” trên mạng xã hội…
Ngoài ra, như đã nói, các quan chức lãnh đạo
trong bộ máy công quyền đương nhiên cũng là trí thức – trí thức “của Đảng”, “do
Đảng và “vì Đảng”, “còn Đảng còn mình”. Nên dĩ nhiên không phải họ ngu, không
biết gì. Trên thực tế, với những trí thức nước đôi, ba phải họ nhìn thấy hết,
biết hết. Nhưng tạm thời họ cứ để đó và theo dõi, tùy đối tượng và tình hình cụ
thể, cần thiết họ mới “ra tay”. Hoặc là bằng đội ngũ tuyên giáo, “dư luận viên”
trên mạng tung ra để mắng chửi lại hoặc bằng những biện pháp mạnh hơn nếu thấy
nguy hiểm.
Đến đây thiển nghĩ, các nhân sĩ, trí thức ở Việt
Nam hôm nay hẳn đã biết vì sao tiếng nói phản biện của giới mình lâu nay ít được
nhà cầm quyền lắng nghe. Nhà cầm quyền vốn độc tài và bảo thủ nhưng chính sự đa
nhân cách, thái độ ứng xử, hành xử kiểu nước đôi, ba phải của không ít người có
chữ hôm nay đã làm cho họ càng thêm nghi ngờ, cảnh giác và coi thường hơn.
3. Thay lời kết
Mỗi khi nghĩ về tầng lớp trí thức trong xã hội
Việt Nam hôm nay, không hiểu sao trong đầu tôi lại nhớ đến bài viết “Thời
vắng những nhà văn hóa lớn?” của GS Trần Hữu Dũng cách đây đã 10 năm
trên Thời báo Kinh tế Sài Gòn dịp Tết Tân Mão, năm 2011 [1]. Gần đây nhất là
bài viết mà nhan đề chỉ có hai từ “Chừng Mực” của Giáo sư Cao
Huy Thuần. [2].
Sở dĩ đã hơn 10 năm nhưng tôi vẫn nhớ bài viết
của GS Trần Hữu Dũng là vì theo tôi, cách nhìn vấn đề của ông không những rất
sâu sắc, độc đáo mà vẫn còn nguyên tính thời sự. Tôi thích cách ông đã cố ý
phân biệt giữa hai khái niệm “nhà văn hóa lớn” và nhà “trí thức”. Ông nói:
“Thế nào là một nhà văn hóa lớn? Tất nhiên,
xã hội nào cũng có những trí thức, những người tham gia (có thể rất tích cực)
vào hoạt động văn hóa trong lĩnh vực này hoặc lĩnh vực nọ… Song, những nhà văn
hóa lớn có một vai trò vượt trội những trí thức khác, và không phải bất cứ xã hội
nào, lúc nào cũng có những nhà văn hóa như thế. Đó là những người
mà sự uyên thâm và nhất là tính kiên trì nghiên cứu (nhiều khi lặng lẽ), năng
suất làm việc phi thường (hàng mấy chục quyển sách, hàng trăm bài báo, chẳng hạn)
hầu như là huyền thoại trong dân gian. Chính tư tưởng của họ “định nghĩa” tính
thời đại của một nền văn hóa. Nhà “văn hóa lớn”, nói cách khác, là người có những
suy nghĩ vừa sâu vừa rộng, đưa ra những khám phá, lập luận, có tính tổng hợp,
liên ngành (ví dụ như lịch sử và văn học, triết học), không bị giới hạn trong một
ngành chuyên môn nào.”
Với bài “Chừng mực” của GS
Cao Huy Thuần, không hiểu sao ngay khi đọc những câu mở đầu tôi lại thấy tự xấu
hổ với chính mình. Xấu hổ thực sự vì thái độ chừng mực của
một trí thức uyên thâm như ông (với riêng tôi GS Cao Huy Thuần cùng với nhà
nghiên cứu Bùi Văn Nam Sơn, là một nhà văn hóa lớn hiếm hoi của
Việt Nam hôm nay).
GS Cao Huy Thuần nói hơn 21 năm qua, bản thân
ông khi bàn về các vấn đề tự do dân chủ ở Việt Nam chưa bao giờ ông động đến mấy
chữ “tam quyền phân lập”. Vì sao như vậy? Không phải ông sợ
cũng “chẳng phải vì nó là ta-bu”, mà vì ông nghĩ trong bối cảnh văn hóa, lịch sử,
con người ở xã hội Việt Nam hôm nay “hãy còn quá sớm để đi vào chi tiết
cụ thể khi điều kiện chưa hội đủ, đầu óc chưa sẵn sàng để bước… ngay cả cái bước
đầu tiên”.
Phải chăng “Thời vắng những nhà văn
hóa lớn” và “Chừng mực” là cách đặt vấn đề qua cho thấy một
thái độ và sự tự vấn lương tâm, tự vấn chính mình rất sâu sắc và cần
thiết của người trí thức? Tự vấn để không ảo tưởng, không đổ lỗi, không thể
thoái thác trách nhiệm của bản thân trước thực trạng văn hóa xã hội mà chính
mình đôi khi vừa là kẻ dự phần tham gia kiến tạo nên.
Giống như cách đây 10 năm, khi lý giải
nguyên nhân tại sao xã hội Việt Nam lại thiếu “vắng những nhà văn hóa” lớn, GS
Trần Hữu Dũng bảo rằng “phần ít là lỗi của xã hội, mà phần lớn là nhược
điểm của chính cộng đồng trí thức (là vườn ươm những nhà văn hóa lớn)” ở
Việt Nam chúng ta.
CT, 6/10/2021
Q.H.N
----
[1]: Trần Hữu Dũng – “Thời vắng những
nhà văn hóa lớn” . https://thesaigontimes.vn/thoi-vang-nhung-nha-van-hoa-lon/
[2]: Cao Huy Thuần – “Chừng mực”. http://www.tapchithoidai.org/ThoiDai38/201938_CaoHuyThuan.pdf
No comments:
Post a Comment