https://www.facebook.com/Osinhuyduc/posts/4270796292955519
Có lẽ nhiều người cũng đang tự hỏi, phản ứng của
các địa phương trước dòng người hồi hương là nỗi sợ “vỡ thành tích chống dịch”
hay thấy đó là một tình huống nhân đạo cần ngay những quyết định của mình. Tàu
hỏa, xe khách… vẫn nằm yên mặc cho hàng vạn công dân lầm lũi, bao gồm cả phụ nữ
có mang, trẻ sơ sinh… bồng bế nhau hàng nghìn ki-lô-mét trên xe máy; dắt díu
nhau hàng trăm ki-lô-mét trên đôi chân, trên xe đạp.
Quyết định đông cứng hệ thống giao thông công
cộng như một biện pháp chống dịch không chỉ gây ra những thiệt hại to lớn về
kinh tế, mà còn đang đày ải hàng vạn con người.
Dòng người ấy càng lầm lũi, càng câm nín, mức
độ lên tiếng càng đanh thép. Lên tiếng về năng lực của hệ thống chính trị. Một
hệ thống chính trị nắm rất thành công quyền lực nhưng lại thất bại khi đứng bên
cạnh những người dân bị đẩy vào thế bần cùng.
Nếu như dòng người hồi hương mấy tháng trước
đây có mục đích đơn giản là “chạy dịch”. Mục đích của dòng người hồi hương diễn
ra suốt mười ngày qua phức tạp hơn. Cho dù họ có thể đã được tiêm 1 hoặc 2 mũi
vaccine; họ có thể đã vượt qua những ngày cả nhà là F0; họ có thể đã phải bỏ lại
người thân ở Sài Gòn, Bình Dương hoặc cùng người thân về… trong hũ tro.
Trong những ngày bị giam hãm trong những phòng
trọ chật chội, hết tiền, hết gạo; tương lai bế tắc. Họ hẳn đã phải nhìn lại cả
quá trình tha hương mưu sinh, đo đếm được mất. Quê hương, với họ, như một biểu
tượng che chở. Họ mạo hiểm cả gia đình và bản thân trong một hành trình hàng
nghìn ki-lô-mét mưa gió, để về nhà, để tìm sự bình an và chắc hẳn đã thay đổi rất
nhiều quan niệm sống.
Cho dù một thời gian sau, nhiều người trong số
họ sẽ quay lại nơi cũ hoặc tìm đến một không gian mưu sinh khác. Quyết định hôm
nay của họ đã làm thay đổi cấu trúc của nền kinh tế và gây sang chấn sâu sắc
trong lòng Việt Nam.
Không có quốc gia nào trải qua giai đoạn “đang
phát triển” mà không phải chứng kiến quá trình dịch chuyển dòng lao động từ khu
vực nông nghiệp sang các khu vực kinh tế khác. Như tôi đã viết nhiều lần, tiến
trình “công nghiệp hóa” dựa trên nền tảng “thu hồi” đất đai của người dân giao
cho cho các “đại gia” làm khu công nghiệp hoặc “phân lô bán nền” không chỉ buộc
phần lớn lao động nông thôn muốn “li nông” phải “li hương”; Mà, trong dòng người
li nông xâm nhập vào các đô thị ấy chủ yếu là lao động giản đơn hoặc làm osin
thay vì chủ yếu là tầng lớp tinh hoa (tài năng, đỗ đạt…) như truyền thống.
Rất ít người trong số họ thực sự thay đổi được
số phận. Họ “ở trọ” trong các khu phố chật chội thiếu các điều kiện sống tối thiểu.
Họ không tiếp cận được các chính sách an sinh xã hội và y tế. Họ không có tiếng
nói.
Giờ đây chúng ta chứng kiến, những người li
hương với hai bàn tay trắng đang hồi hương vẫn hai bàn tay trắng với nhiều gánh
nặng hơn.
Hệ thống chính trị nhiều công an, nhiều quan
chức vào hàng nhất nhì thế giới lại thiếu sự tin cậy để biết dân, hiểu dân; ít
khả năng tiên liệu và đủ lòng trắc ẩn để tránh ra quyết định như những cỗ máy.
Lực lượng công đoàn quốc doanh sử dụng tới 2%
tiền lương của công nhân rõ ràng đã không phải là lực lượng ở bên cạnh công
nhân trong những ngày khó khăn. Không chỉ có công đoàn quốc doanh…
Tôi biết, hầu hết cán bộ cơ sở, kể cả cán bộ
hoạt động trong các tổ chức chính trị xã hội như MTTQ, Hội Phụ nữ… ở Sài Gòn, Đồng
Nai, Bình Dương đều làm việc hơn 10 tiếng một ngày trong mấy tháng qua. Nhưng
cho dù tận tâm thì việc không nhận biết nguyện vọng của hàng vạn cư dân muốn hồi
hương cho thấy họ vẫn là một lực lượng đã được hành chánh hóa. Họ có mặt để đảm
bảo hình ảnh trong hệ thống, tầng lớp xã hội nào cũng có người đại diện. Trên
thực tế họ không đại diện cho tầng lớp nào trong xã hội. Họ trấn an hệ thống
chính trị. Họ nói rất đúng ý của lãnh đạo nhưng họ không thể nói cái mà một nhà
lãnh đạo (đáng ra) thực sự cần là dân muốn gì.
Người dân không quan tâm nhiều tới cái gọi là
“định hướng xã hội chủ nghĩa”. Chính “kinh tế thị trường” đang làm thay đổi đất
nước suốt hơn ba thập niên vừa qua. Nhưng, sẽ không có “kinh tế thị trường” thực
sự nếu không có “nhà nước pháp quyền”, sẽ không có “nhà nước pháp quyền” nếu
không có, tối thiểu là, “xã hội dân sự”.
Người dân không có tiếng nói thật sự trong các
hội đoàn quốc doanh. Các hội đồng hương tỉnh huyện cũng chủ yếu là sân chơi của
những người thành đạt có quan hệ tốt với chính quyền. Những người yếu thế không
có các tổ chức tương tế, không có những tổ chức xã hội do họ tự nguyện lập ra,
biết họ, hiểu họ và nói tiếng nói của họ.
Những người có tâm nguyện phụng sự xã hội cũng
rất khó khăn khi muốn lập các quỹ từ thiện [những chương trình uy tín như “Cơm
Có Thịt” cũng phải mất nhiều năm mới xin được pháp nhân (Quỹ Học Trò Nghèo Vùng
Cao)].
Những cá nhân, những người nổi tiếng gây quỹ
đơn lẻ rất dễ trở thành mục tiêu tấn công. Các thiết chế dân sự rất dễ bị làm mất
uy tín, rất dễ để cho công chúng hoang mang. Càng hoạt động xã hội mang tính cá
nhân càng rất dễ có sai sót vì thiếu kỹ năng. Nếu những người hoạt động xã hội
dễ dàng lập các pháp nhân thì công chúng vừa dễ giám sát, nhà nước vừa dễ “nắm
người có tóc”, vi phạm pháp luật dễ bị xử lý và khi lòng tham nảy sinh cũng
không dám liều làm bậy.
Đừng thiết kế những chính sách chủ yếu nhằm bảo
vệ hệ thống chính trị mà phải thiết kế những chính sách đảm bảo trong hệ thống
chính trị ấy có dân. Sẽ rất đáng sợ nếu như cho đến bây giờ bản chất của đảng cầm
quyền vẫn là “của giai cấp công nhân – những người vô sản”. Nhưng sẽ đáng sợ
hơn nếu đảng cầm quyền cứ rượu ngon, cigar trong những dinh thự quá xa cách với
giai cấp công nhân.
Nếu công bằng xã hội không phải là chính sách
được nhìn thấy từ những người đang cầm quyền mà được giành lấy bởi những tầng lớp
bị bỏ quên bởi những người cầm quyền thì số phận của đất nước và cả những dinh
thự ấy đều không dễ dàng đoán định.
Ảnh : https://www.facebook.com/photo/?fbid=4270795376288944&set=a.305706452797876
.
No comments:
Post a Comment