31/01/2019
“Lời nguyền tài nguyên” (Resource Curse)
là một khái niệm được các nhà nghiên cứu kinh tế và chính trị đưa ra vào những
năm 1990.
Đó là một “bí ẩn siêu nhiên” khiến nhiều chuyên gia
phải nhăn mặt, khi theo lẽ thông thường, một quốc gia giàu tài nguyên sẽ phát
triển mạnh về kinh tế, ổn định về chính trị, có đời sống xã hội cao hơn những
quốc gia nghèo tài nguyên; nhưng trên thực tế, hoàn toàn ngược lại.
Người ta nhìn thấy nghịch lý đó ở những quốc gia
giàu tài nguyên nhưng tốc độ phát triển kinh tế thấp, các chỉ số an sinh xã hội
lẹt đẹt, chất lượng cuộc sống thua kém mức trung bình của thế giới, bất ổn và
xung đột thường xuyên xảy ra, tham nhũng tràn lan, nhân quyền bị xâm phạm
nghiêm trọng, v.v.
Venezuela là
một trong những cái tên nổi đình nổi đám gần đây ứng với hiện tượng này. Một quốc gia có trữ lượng dầu mỏ được tìm thấy thuộc hàng lớn nhất thế giới,
cùng với lượng dồi dào các loại quặng sắt, than, bauxite, vàng, kim cương… lại
thường xuyên đối mặt với khủng hoảng suốt nhiều thập niên qua và vẫn đang ngập
chìm trong nội loạn bất ổn.
Lời nguyền này không phải là một khám phá gì mới mẻ,
ngoại trừ cách đặt tên gây ấn tượng.
Những năm 1970, người ta đã có một tên gọi khác cho
hội chứng tương tự: Căn bệnh Hà Lan (Dutch Disease).
Năm 1959, ở Groningen (Hà Lan), người ta phát hiện
ra một mỏ khí đốt tự nhiên. Nó được đánh giá là mỏ khí đốt lớn nhất ở châu Âu,
và là một trong mười mỏ lớn nhất trên thế giới. Rất nhanh sau đó, ngành công
nghiệp xuất khẩu khí đốt ở Hà Lan bùng nổ. Nhu cầu nhiên liệu cao vào thời điểm
đó, cộng với xuất khẩu khí đốt đột nhiên tăng mạnh, làm tăng giá trị đồng tiền
của Hà Lan. Giá trị đồng tiền tăng (currency appreciation) khiến việc xuất khẩu
các sản phẩm khác trong nước gặp khó khăn (người nước ngoài ngại
vì phải trả nhiều tiền của họ hơn lúc trước). Ngược lại, tiền tăng giá lại khiến
việc nhập khẩu hàng từ nước ngoài thuận lợi hơn (cùng số tiền, người trong nước
mua được nhiều hàng nhập khẩu hơn). Ngành công nghiệp khí đốt bùng nổ cũng kéo
theo một lượng lao động chuyển dịch từ các ngành nghề khác, đẩy mặt bằng tiền
lương tăng lên, giảm động lực để đầu tư cho những ngành có lợi nhuận (trong ngắn
hạn) thấp hơn.
Các ngành sản xuất trong nước vừa gặp khó khăn trong
đầu ra, vừa bị cạnh tranh của hàng nhập khẩu, chi phí nhân công tăng, không được
đầu tư… dẫn đến teo tóp, kém phát triển.
Đó là bức tranh chung của những nước mà ngân sách quốc
gia phụ thuộc phần lớn vào xuất khẩu nguyên nhiên liệu
(primary commodities – hàng hóa cơ bản), từ dầu mỏ, khí đốt cho tới các khoáng
sản như vàng, kim cương, than đá, bauxite, v.v.
Trong ngắn hạn, điều này có vẻ không phải là chuyện
nghiêm trọng khi nhu cầu cho các loại hàng hóa cơ bản đó ở mức cao, quốc gia xuất
khẩu tiếp tục thu được đủ (và dư) tiền để bù đắp trang trải ngân sách chung.
Vấn đề nằm ở chỗ nguồn thu này rất không ổn định,
khi giá của các loại hàng hóa này biến động thất thường.
Một khi nguồn thu chính trồi sụt thất thường, chi
tiêu quốc gia sẽ bị ảnh hưởng. Thiếu tiền, mọi thứ sẽ không còn như tiên. Nếu
những đợt bùng nổ giá dầu biến nhiều nước nghèo thành đại gia, thì những cơn khủng
hoảng lại đẩy nhiều nước vào cảnh bần hàn, thậm chí bạo loạn, như Venezuela hiện
tại.
Ngay cả trong trường hợp nguồn thu từ tài nguyên dư
dả để chi tiêu quốc gia, đó cũng không phải là chuyện tích cực.
Trên nguyên tắc, kinh phí cho nhà nước hoạt động (tiền
lương nhân viên công vụ, chi trả cho y tế, quốc phòng, hạ tầng, dịch vụ công cộng…)
đến từ tiền thuế của người dân. Tất cả nhân viên nhà nước, từ tổng thống, chủ tịch
cho đến cảnh sát, dân phòng… đều nhận lương của dân, làm việc cho dân, và phải
chịu trách nhiệm giải trình trước dân. Tất cả những khoản chi tiêu của nhà nước
đều phải minh bạch, rõ ràng và chịu sự giám sát của người đóng góp. Đó là cơ sở
để thiết lập mối quan hệ giữa nhà nước và công dân, một bên được giao việc làm,
nhận lương và một bên giao việc, trả lương.
Ở những nơi có nguồn thu khổng lồ và dễ dàng từ tài
nguyên thiên nhiên, nhà nước lại có xu hướng không áp thuế cao lên người dân để
thu cho ngân sách, thậm chí ngược lại, dùng tiền bán tài nguyên chi cho các khoản
trợ cấp, phân phát cho những nhóm lợi ích thân hữu.
Đó là hiện tượng đang diễn ra tại nhiều nước giàu
tài nguyên, đặc biệt ở Trung Đông, khi chính quyền làm việc theo kiểu độc tài,
chuyên quyền, không tôn trọng nguyên tắc dân chủ, còn người dân không phải đóng
góp nhiều vào ngân sách, lại được đảm bảo nhu cầu vật chất, không có nhiều động
lực để giám sát, chất vấn chính quyền.
Biểu đồ giá dầu thô qua các năm giống với điện tâm đồ của một bệnh nhân
trong tình trạng nguy cấp, lên xuống thất thường hơn là của một người khỏe mạnh
bình thường. Nguồn: macrotrends.net.
Trường hợp kinh điển của Hà Lan cũng chỉ dừng lại ở
mức độ “bệnh”. Nó được nâng cấp lên thành “lời nguyền” khi người ta nhìn vào
các nước đang phát triển, đặc biệt ở châu Phi, châu Á và Mỹ Latin.
Ở những quốc gia này, tình hình trở nên tệ hơn khi
(1) hệ thống chính quyền thiếu minh bạch, tham nhũng tràn lan khiến nguồn thu
khổng lồ từ xuất khẩu chảy vào túi riêng của quan chức và một nhóm nhỏ hưởng lợi,
trong khi số đông người dân không được xơ múi gì và (2) nền kinh tế vốn chưa được
đầu tư phát triển đồng bộ, các ngành nghề manh mún, giờ cũng không có động lực
để đi lên khi đa số chạy theo lợi nhuận của ngành xuất khẩu chính.
Tình trạng này đặc biệt nghiêm trọng ở những nước
châu Phi do chiến tranh, xung đột kéo dài giữa những phe phái trong lẫn ngoài
nước, mà một phần nguyên nhân chính đến từ việc tranh giành quyền kiểm soát các
nguồn nguyên – nhiên liệu.
Vậy để không bị dính “lời nguyền”, có phải nên tránh
xa việc khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên?
Hẳn nhiên là không.
Đơn giản vì không có lời nguyền nào cả.
(Việc nên hay không nên khai thác tài nguyên thiên
nhiên là vấn đề khác, thuộc về lựa chọn liên quan đến mục tiêu bảo vệ môi trường,
phát triển bền vững.)
Những người vẽ bùa cho lời nguyền này mắc một lỗi
kinh điển, nhập nhằng giữa quan hệ nhân – quả và tương – quan (causation and
correlation).
Tài nguyên thiên nhiên không phải là nguyên nhân dẫn
đến tai họa. Cách sử dụng quản lý tài nguyên đó ra sao mới là
nguyên nhân cho sự thịnh suy của một quốc gia.
Mỹ là một trong những nước có nguồn tài nguyên thiên
nhiên giàu có phong phú nhất trên thế giới, từ khí ga, than đá, dầu mỏ cho đến
các kim loại quý như đồng, bạc, vàng, sắt… Giếng dầu của Edwin
Drake vào năm 1859 tại Titusville, Pennsylvania được xem là một
trong những giếng dầu mở màn cho lịch sử khai thác dầu khí hiện đại. Việc sớm
biết cách khai thác và thương mại hóa các tài nguyên thiên nhiên là một trong
những nhân tố quan trọng đưa nước Mỹ lên vị trí siêu cường như ngày nay.
Ngoài Mỹ, hai nước Canada và Úc cũng có trữ lượng
tài nguyên thiên nhiên thuộc hàng top 10 thế giới. Không ai nói gì về “lời nguyền”
đối với các quốc gia này.
Đương nhiên không thể bỏ qua yếu tố lịch sử khi tìm
hiểu tác động/ tác hại của tài nguyên thiên nhiên với số phận của một quốc gia.
Vào thời kỳ thuộc địa (colonialism), nếu “bị” phát
hiện trong nhà mình có mỏ tài nguyên nào, người dân/ quốc gia đó xem như cầm chắc
tai họa, thậm chí là họa diệt vong. Các đế quốc sẽ không ngần ngại nhảy vào
dùng bất kỳ thủ đoạn nào để chiếm đoạt, hoặc công khai cướp bóc, hoặc “khai
thác hộ” với giá rẻ mạt.
(Một trường hợp thú vị của đế quốc
Tây Ban Nha: sau thời gian dài chiếm đoạt tài nguyên từ các thuộc địa
ở Nam Mỹ, lượng tiền khổng lồ (từ bạc) đổ về khiến các ngành công nghiệp trong
nước không có động lực phát triển, đầu tư cho giáo dục bị bỏ bê, để rồi cuối
cùng sức mạnh của Tây Ban Nha lụi tàn nhanh chóng so với các đế quốc cùng thời.
Đây có thể xem là trường hợp “lời nguyền gián tiếp” cho những kẻ tham lam.)
Đầu thế kỷ 20, những mỏ dầu khổng lồ ở Trung Đông bắt
đầu được khai phá, không phải nhờ người bản địa, mà thuộc quyền kiểm soát của
những tập đoàn dầu khí khổng lồ của phương Tây. Phần lớn lợi nhuận chui vào túi
tiền các công ty này. Những nước sở hữu tài nguyên chỉ được trả một khoản phí
và chia phần nhỏ lợi nhuận. Hơn nửa thế kỷ sau, các nước xuất khẩu dầu mỏ mới
liên kết thành lập OPEC (Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ) để giành lại quyền
chủ động, làm đối trọng đàm phán với các công ty dầu khí nước ngoài.
Nếu trường hợp những nước phát triển như Mỹ, Canada,
Úc… chưa đủ để đập tan huyền thoại về “lời nguyền tài nguyên” (ta có thể bảo vì
đó đều là những nước lớn, phát triển, lại khai thác đầu tiên, có lợi thế tiên
phong…), câu chuyện về
Na Uy vào những năm 1960-1970 là một minh chứng khác.
Không có “lời nguyền tài nguyên” nào ở Na Uy. Ảnh: Oil and Gas iQ.
Khi người hàng xóm Hà Lan phát hiện ra mỏ khí đốt khổng
lồ ở Groningen, rất nhanh sau đó nhiều công ty dầu khí nước ngoài cũng nhảy vào
muốn giành địa bàn ở Na Uy.
Thay vì mờ mắt trước nguồn lợi khổng lồ từ dưới đất
chui lên này (như rất nhiều những quan chức ở các nước khác), các nhà quản lý ở
Na Uy đã rất bình tĩnh, nghiên cứu kỹ càng từng bước một. Nhận thấy luật về đầu
tư khai thác dầu khí chưa rõ ràng, họ trước tiên soạn thảo ban hành đầy đủ luật.
Việc phân chia ranh giới thềm lục địa với các quốc gia xung quanh cũng được xúc
tiến. Khu vực chủ quyền trong trường hợp phát hiện nguồn tài nguyên được phân định
rõ trước khi có bất kỳ hoạt động khai thác nào.
Tất cả mọi việc đều được tiến hành theo đúng nguyên
tắc minh bạch – cốt lõi trong văn hóa của người Na Uy.
Như lời của Bộ trưởng Thương mại Na Uy vào thời điểm
đó, Jens Evensen, đã nói
rõ với các đối tác nước ngoài,
“Chúng tôi muốn tự kiểm soát nguồn tài nguyên này.
Chúng tôi sẽ làm ra luật. Chúng tôi sẽ lắng nghe các bạn. Nhưng chúng tôi sẽ có
hệ thống luật mà các bạn phải tuân theo. Đó là cách chúng ta sẽ làm việc. Bất cứ
ai không chấp nhận những điều khoản này thì nên đi về.”
Quyết tâm quản lý nguồn tài nguyên một cách minh bạch,
hiệu quả và bền vững không chỉ là ý chí nhất thời của một số người. Quốc hội Na
Uy vào năm 1971 còn đưa ra 10 nguyên tắc về chính sách dầu khí của đất nước
(thường được gọi là “The Ten Oil Commandments” – Mười “điều răn” về dầu khí).
“Mười điều răn” này đề cập đến nguyên tắc bảo đảm chủ
quyền của quốc gia đối với nguồn tài nguyên, ưu tiên đáp ứng nhu cầu trong nước,
yêu cầu khai thác bền vững, không ảnh hưởng xấu đến lợi ích của những ngành
khác, bảo vệ môi trường, đảm bảo doanh thu phải được đầu tư cho các hoạt động
giáo dục, nghiên cứu, v.v.
Nguồn doanh thu từ tài nguyên thiên nhiên này được
đưa vào Quỹ
đầu tư quốc gia của Na Uy(tiền thân là Quỹ dầu khí chính phủ) với mục
đích (1) đảm bảo lợi ích cho các thế hệ tương lai, (2) hạ nhiệt nền kinh tế qua
các hoạt động đầu tư nước ngoài và (3) giảm bớt việc phụ thuộc vào nguồn thu từ
khai thác tài nguyên thiên nhiên, vốn chịu ảnh hưởng biến động mạnh của thị trường.
Tính đến năm 2018, quỹ quốc gia này của Na Uy đang cất
trữ tương đương hơn một nghìn tỉ USD, được xem là quỹ đầu tư quốc gia lớn nhất
thế giới.
Không chỉ nằm trong top những nước phát triển nhất
thế giới về kinh tế, suốt nhiều thập niên qua, Na Uy luôn đứng trong nhóm đầu bảng
về các chỉ số giáo dục, hạnh phúc, phát triển con người, và được xem là một
trong những quốc gia đáng sống nhất trên hành tinh.
Bài học của Na Uy và những quốc gia khác cho thấy
tài nguyên thiên nhiên không phải là “lời nguyền”, cũng không phải là lộc trời
ban phát từ trên xuống.
Nó đơn giản chỉ là một loại phương tiện.
Biết sử dụng, khai thác hiệu quả, phương tiện này sẽ
đưa đất nước cất cánh. Còn nếu ỷ lại, tham lam, không chịu học cách sử dụng
đàng hoàng tử tế, nó sẽ chỉ đưa đất nước xuống vực.
Đó là lý do mà với những nước nghèo tài nguyên, họ vẫn
có thể đi tới đích, cho dù chậm.
Tài nguyên hạn chế giống như đi trên chiếc xe đạp.
Tài nguyên nhiều hơn có chiếc xe máy. Giàu tài nguyên có được xe hơi. Tài
nguyên dồi dào có chiếc máy bay.
Chỉ có trong tay người biết sử dụng thì xe hơi mới
chạy được xa, máy bay mới bay được cao.
Còn nếu để lọt vào tay những kẻ tham lam, ngu dốt,
chỉ biết phá hoại, có ngồi lên xe hơi, lái được máy bay cũng chỉ gây thảm họa
cho tất cả.
Nhắm mắt đưa chân, chịu đựng để mặc cho tài nguyên của
cả quốc gia bị định đoạt trong tay một số ít những kẻ phá hoại như vậy, đó mới
là “lời nguyền” thật sự.
Lời nguyền của những người tự nguyện đưa cổ vào
tròng.
No comments:
Post a Comment