Thursday, July 29, 2010

BÓ TAY VỚI ÔNG GS TRẦN QUANG HẢI

Bó tay với ông GS Trần Quang Hải!

Theo blog Duy Ngọc

Duy Ngọc

http://danluan.org/node/5830

Thứ Năm, 29/07/2010

.

Trong bài “Cồng chiêng Tây Nguyên sản xuất tại Thái Lan trên SGTT (26-7-2010) khi được phỏng vấn, GS Trần Quang Hải cho biết cồng chiêng Tây Nguyên đang thay đổi chóng mặt, xuất hiện nhiều bộ cồng chiêng sản xuất ở Thái Lan, báo động sự lai căng. Ông Hải mạnh miệng phát biểu: “Cồng chiêng do bàn tay người Tây Nguyên làm ra, nó thấm đẫm hơi thở của núi rừng. Mỗi một cái cồng, cái chiêng, có khi phải tỉ mẩn rèn, đúc cả năm trời mới làm xong. Cứ hoàn thành một dàn cồng chiêng, là lại tiến hành tế lễ, giết gà, mổ bò, mổ trâu”.

Cồng chiêng do người Tây Nguyên làm ra? Cả năm trời mới xong một cái chiêng? Tế lễ khi làm xong bộ cồng chiêng?

Thiệt bất ngờ khi GS Trần Quang Hải miêu tả một cách tỉ mỉ, chi tiết đến như vậy. Không biết ông Hải đã tận mắt chứng kiến người dân tộc thiểu số Tây Nguyên đúc cồng chiêng chưa, và đúc ở đâu?

.

Thực tế thì các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên không hề đúc được cồng chiêng. Họ chỉ sử dụng cồng chiêng “nhập ngoại” vào các sự kiện sinh hoạt văn hóa của họ. Lúc đầu thì cồng chiêng vào Tây Nguyên chủ yếu theo đường từ Lào sang, có xuất xứ từ Trung Quốc, Myanma. Những chiếc cồng chiêng này có giá trị rất cao, thậm chí đổi nhiều con trâu mới có được một chiếc, nó là tài sản lớn trong các gia đình Bana, Jarai, Ê đê... Sau này, và chỉ rất lâu sau này thì các làng đúc đồng dọc theo duyên hải miền Trung mới đúc cồng chiêng mang lên bán cho người Tây Nguyên. Làng Phước Kiều (Điện Bàn, Quảng Nam) là nơi cùng cấp một số lượng lớn cồng chiêng lên Tây Nguyên cho đến bây giờ. Ông Dương Ngọc Sang, một nghệ nhân đúc đồng lão làng ở Phước Kiều cho biết trước đây ở Phước Kiều chỉ đúc các vật dụng gia đình bằng nhôm đồng như xoong, chảo..., cho đến khoảng sau 1960 mới bắt đầu đúc cồng chiêng mang lên Tây Nguyên bán. Chuyện là những thợ nhôm đồng ở Phước Kiều khi mang nồi chảo lên các tỉnh Tây Nguyên bán dạo thì thấy những chiếc cồng chiêng được các dân tộc ở đây nâng niu, trao đổi nhau với giá trị cao. Họ nảy ra ý định đúc những chiếc cồng chiêng mô phỏng theo rồi đem lên bán. Lúc đầu họ chỉ biết đúc phôi, tiếng chiêng họ đúc kêu không đúng do họ không biết gì về âm thanh cồng chiêng Tây Nguyên cả. Những người già ở các làng Tây Nguyên có am hiểu về cồng chiêng, dùng búa chỉnh lại độ dày mỏng để tiếng chiêng phát ra đúng, có thể chơi được trong giàn cồng chiêng. Mãi sau này người Phước Kiều mới học được cách chỉnh âm cho cồng chiêng sau khi đúc phôi xong. Và những chiếc chiêng từ Phước Kiều lên chất lượng và giá thường thấp hơn nhiều so với những chiếc cồng chiêng nhập vào qua đường Lào trước kia, mà sau này không hiểu vì lí do gì không còn nhập vào nữa.

.

Cồng chiêng được đúc từ hợp kim đồng và thiếc với tỉ lệ thích hợp. Vấn đề ở đây là kỹ thuật đúc, pha trộn kim loại sẽ quyết định chất lượng chiếc chiêng sau khi ra đời, chứ không phải là chuyện tỉ mẩn “tốn cả năm trời” như GS Hải nói. Thực sự việc đúc một chiếc chiêng không bao giờ, không cần phải lâu đến vậy, thường chỉ vài ngày.

.

Ông Hải nói: “Người Tây Nguyên tin rằng, lớp đồng đen trên bề mặt cồng chiêng được phết thêm máu gia súc dùng trong tế lễ, thì cái cồng, cái chiêng đó đánh lên, mới phát ra đúng âm thanh của Tây Nguyên. Ấy thế mà hiện nay lại có những chàng trai Tây Nguyên dám đem những cái cồng, cái chiêng ông bà, tổ tiên để lại ra gọt chỗ này, cạo chỗ kia, rồi tạo nên âm giai thất cung thay thế vào để chơi nhạc mới”. Theo tôi biết thì hầu như chiếc chiêng nào dù tốt đến mấy chơi một thời gian dài đều hỏng tiếng, mất tiếng, và đều phải cạo sửa, gõ búa để chỉnh lại độ dày mỏng, lấy lại đúng âm thanh ban đầu. Và âm thanh có tốt hay không là do chất lượng chiêng, kỹ thuật đúc, còn cái “huyền thoại máu thú” nghe “hấp dẫn kia” thì tôi chưa nghe ai nói, và khó mà chứng minh được. Còn việc các chàng trai Tây Nguyên mà sáng chế, chỉnh sửa lại bộ cồng chiêng nào đó mà chơi pop, rock... được thì quả tuyệt vời chứ, sáng tạo đáng khen chứ, sao lại chê. Khi nó chỉ là sáng tạo ở vài điểm, nó chỉ làm phong phú thêm, chứ khó mà biến đổi hết cả văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên được. Các giai điệu cồng chiêng Tây Nguyên ở mỗi nơi đều khác khác nhau rất rõ, và có lẽ nó cũng đã có nhiều biến chuyển, bổ sung, thêm mới theo thời gian.

.

Ông Hải cho rằng hiện thiếu các dự án hỗ trợ cho bà con Tây Nguyên bảo vệ vốn quý truyền thống. Theo tôi, vấn đề hiện nay của cồng chiêng Tây Nguyên không phải là không có các dự án hỗ trợ. Ngược lại đang có quá nhiều, mà lại làm một cách tạp nham, thiếu hiểu biết. Những chiếc chiêng “dự án” liệu có tốt không khi chỉ cần giảm một lượng thiết nhất định trong hỗn hợp đồng-thiết là giá thành chiêng sẽ giảm nhiều, vì giá thiếc đắt gấp nhiều lần giá đồng. Kéo theo đó chất lượng sút giảm theo, đánh chỉ một thời gian là điếc, vứt xó. Có nhiều dự án, đưa cồng chiêng lên Tây Nguyên nhiều hẳn đã hay? Có khi lại gây bội thực, chán chê, người Tây Nguyên không mua cồng chiêng nữa, chỉ chờ đem cho. Rồi các lễ hội giả tạo do nhà nước bỏ tiền ra tổ chức, các buổi biểu diễn công chiêng theo kiểu sân khấu. Nó có làm sống lại được không gian cồng chiêng tồn tại bao đời? Không, nó chỉ là những xác ướp, thậm chí còn không phải xác ướp của không gian công chiêng truyền thống Tây Nguyên. Là những xác ướp “lạ” từ xa đem tới, phủ lớp áo Tây Nguyên. Các dự án đó chỉ có “bức tử” luôn những giá trị văn hóa hãy còn sống của Tây Nguyên mà thôi.

Văn hóa Tây Nguyên vốn đã bị “đứt gãy” nhiều bởi di dân ồ ạt, bởi những giá trị mới xô đến đột ngột, đè nát những giá trị cũ, bởi mất rừng, mất đất, mất rẫy... Bây giờ lại xúm vào giữ. Mà giữ với những “dự án” moi tiền,với những tác động thô bạo, thiếu hiểu biết... thì chỉ làm Tây Nguyên tổn thương thêm thôi.

.

.

.

Giáo Sư Trần Quang Hải: “Tôi đang nối gót ba tôi…”

http://www.danchimviet.com/archives/14939

Theo chân thân phụ là nhà âm nhạc học nổi tiếng Trần Văn Khê, GS Trần Quang Hải đã mang toàn bộ kho tư liệu về âm nhạc thế giới của ông về nước để tặng Viện Âm nhạc VN.

1. “Khi biết tôi quyết định như thế ba tôi đã viết thư cho tôi, đại ý: ba không thể ra Hà Nội để tham dự hội nghị về âm nhạc lần này cũng như không tham dự buổi trao tư liệu của con cho Viện Âm nhạc VN, nhưng ba rất vui vì quyết định của con cũng như ba đã tặng toàn bộ tư liệu ba có cho Nhạc viện TP.HCM”.

GS Trần Quang Hải bắt đầu câu chuyện như thế khi nói về chuyến trở về VN lần thứ năm của mình sau đúng 60 năm sinh sống và làm việc tại Pháp. Ở tuổi 67, ông tỏ ra rất hạnh phúc và sung sướng khi nói về cha mình. Ông còn hãnh diện vì có mấy người bước vào tuổi như ông mà vẫn còn được gọi tiếng “ba” đầy yêu thương.

Nhìn bề ngoài hai cha con rất giống nhau, kể cả giọng nói. Là một trong bốn người con của GS Trần Văn Khê, ông Hải có nhiều điểm chung với thân phụ mình nhất. Hai cha con từng học chung một trường (Đại học Sorborne), cùng nghiên cứu về âm nhạc, cùng nặng lòng với vấn đề bảo tồn âm nhạc cổ truyền VN và sau khi rời nhiệm sở cả hai đều đóng gói tất cả những gì mình thu nạp được suốt cuộc đời rong ruổi khắp thế giới để tặng cho học sinh và nhà nghiên cứu ở quê nhà. Hai cha con đã cùng có một điểm dừng chân của cuộc đời.

2. GS Trần Quang Hải lấy trong túi ra những vật dụng rất đỗi giản dị nhưng đã gắn bó với ông suốt 60 năm qua, đó là cặp muỗng (thìa) bằng inox sáng loáng, là chiếc đàn môi của người Mông – những nhạc cụ đã theo ông đi khắp thế giới, mang lại niềm vui và cả sự ngỡ ngàng cho rất nhiều người. Với cặp muỗng và chiếc đàn môi, ông đã biểu diễn không biết bao nhiêu buổi và gặp được bao người Việt xa xứ sống ở Pháp, Đức, Anh, Hà Lan, Bulgaria

Âm nhạc, theo GS Hải, vượt qua mọi bất đồng ngôn ngữ; không có rào cản và khoảng cách nào, kể cả địa lý, sắc tộc, màu da và tôn giáo, ngăn được âm nhạc. Ông cho rằng âm nhạc không chỉ để giải trí mà gắn liền với đời sống con người. Ở một giai đoạn nào đó hoặc trong một trường hợp cụ thể nào đó sẽ có một thứ âm thanh hay giai điệu tác động mạnh mẽ đến cả cuộc đời mỗi người. Đối với những ai xa quê hương, âm nhạc cổ truyền chốn quê nhà sẽ mãi sống trong tâm khảm của họ.

Theo GS Hải, có thể ứng dụng âm nhạc cổ truyền vào nhiều lĩnh vực khác, chẳng hạn giúp người nói lắp (cà lăm) điều chỉnh hành vi bằng cách biến những câu nói thông thường thành giai điệu. Hoặc nhờ chiếc đàn môi mà người câm có thể giao tiếp được, hay những người bệnh tâm thần có thể trở về trạng thái bình thường khi nghe và hát những bài hát về một thời tươi đẹp của họ.

Ông kể: “Năm 1979 tôi đến Hà Lan tham dự một sự kiện về âm nhạc, tại đây tôi đã đến thăm một trại tâm thần có vài chục người Việt ở. Người quản lý trại cho biết những người tâm thần tại đây sẵn sàng tấn công bất kỳ ai. Nhưng sau khi tiếp xúc với họ qua những làn điệu dân ca, những bài tân nhạc, tôi đã nói chuyện được với họ. Hóa ra họ là những người lao động VN khi sang đây không còn được nói tiếng Việt, cũng không được giao lưu tiếp xúc một cách bình thường nên chỉ sau chừng một năm xa Tổ quốc họ đã phát điên”.

Sau cuộc gặp gỡ ấy trở về Pháp, tôi đã gửi sang trại rất nhiều băng cassette thu bài hát VN. Nửa năm sau có khoảng 1/3 số người Việt được ra trại, đến nay họ vẫn liên lạc với tôi và nói rằng chính nhờ những bài hát ấy mà họ đã được đánh thức lại cả một thời ký ức tươi đẹp ở quê nhà”.

Bằng kiến thức âm nhạc phong phú cũng như các nghiên cứu về âm thanh, cấu trúc của thanh quản, GS Hải có thể thay đổi giọng nói, thay đổi hình thái, sắc thái, âm vực từng câu nói: “Việc thay đổi giọng rất cần thiết trong diễn xuất. Nếu một diễn viên có thể nói được nhiều giọng với nhiều cung bậc khác nhau thì người được lợi chính là khán giả”.

3. Khi tham gia biên soạn từ điển nhạc cụ New Grove, GS Trần Quang Hải đã đưa vào hơn 200 loại nhạc cụ của VN với đầy đủ hình ảnh minh họa. Bằng cách này ông đã giới thiệu với thế giới lai lịch cũng như cách sử dụng, tính chất của từng nhạc cụ Việt. Thông qua các bài giảng và bài viết, ông giới thiệu với thế giới về âm nhạc truyền thống VN có lịch sử trải dài hàng ngàn năm. Thông thạo bốn ngoại ngữ, GS Trần Quang Hải đã và đang thu hẹp khoảng cách về âm nhạc truyền thống giữa VN và thế giới.

Nghiên cứu và sưu tầm tài liệu trong nhiều thập niên, đến hôm nay GS Trần Quang Hải mang về tặng Viện Âm nhạc VN một kho tài liệu gồm hàng ngàn cuốn sách, hàng ngàn tạp chí chuyên ngành và giáo trình, băng, đĩa CD, VCD, DVD tổng hợp đầy đủ nhất nền âm nhạc truyền thống thế giới với mong muốn duy nhất: những người nghiên cứu, các sinh viên ngành âm nhạc có thêm tài liệu tham khảo. Trong hàng ngàn cuốn sách ông tặng cho viện có những cuốn rất hiếm, chỉ thấy ở các viện nghiên cứu âm nhạc một số quốc gia.

Cái bóng của người cha có quá lớn, che khuất ông không? Có người đã hỏi GS Trần Quang Hải như thế. Khi mới sang Pháp học ở Đại học Sorborne, ông đã học đúng khoa cha mình từng học. Nhưng trong quá trình học ông chọn cho mình một lối đi riêng là nghiên cứu về âm nhạc dân tộc toàn thế giới. Ông đã đặt chân đến 70 quốc gia để nghiên cứu và giảng dạy về âm nhạc truyền thống. “Ba tôi và tôi chọn hai hướng đi khác nhau, tôi có đến 23 năm nữa để có tuổi bằng ba tôi bây giờ và để tiếp tục nghiên cứu về âm nhạc truyền thống. Suốt mấy chục năm qua và cho tới những năm kế tiếp của cuộc đời, tôi vẫn chứng tỏ được mình không bị bóng của cha mình che khuất” – ông Hải nói.

4. Thời gian 60 năm xa đất nước là 60 năm ông mang theo nếp sống Việt trong ngôi nhà tại Paris, mang theo hàng trăm món ăn Việt trên bàn ăn gia đình. “Bữa cơm thường có thịt kho nước dừa ăn với dưa hấu hoặc xoài. Ngày tết có bánh chưng bánh tét, Trung thu có bánh dẻo bánh nướng, mồng năm tháng năm có bánh trôi bánh chay… Tôi có một cô con gái sinh ra tại Pháp nhưng nói tiếng Việt rất trôi chảy”.

Ông bắt tay thân thiện và trò chuyện cởi mở với các nhân viên phục vụ khách sạn nơi ông ở, sẵn sàng biểu diễn đàn môi, đàn muỗng cũng như các kỹ thuật hát ngay tại quán ăn. Trông vị GS 67 tuổi thật nhanh nhẹn khi bước ra đường phố Hà Nội đang ùn ùn người và xe. Ông đang đi theo con đường của người cha: 10 năm trước đây, GS Trần Văn Khê cũng đã từ Pháp trở về định cư hẳn tại VN để tiếp tục làm công việc đã gắn bó cả đời là nghiên cứu, giữ gìn âm nhạc cổ truyền VN.

Nguồn: Hoàng Điệp, Tuổi Trẻ Online

.

.

.

No comments: