Thu Hằng - RFI
Đăng
ngày: 16/06/2025 - 09:15
Sau 12 năm
đàm phán, Việt Nam và Indonesia đã đạt được thỏa thuận về phân định vùng đặc
quyền kinh tế. Văn bản được công bố chính thức ngày 23/12/2022 trong chuyến
thăm cấp Nhà nước Jakarta của chủ tịch nước Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc. Bước cuối
cùng là Quốc Hội hai nước phê chuẩn văn bản để có chính thức có hiệu lực và giải
quyết những căng thẳng, bất đồng và cùng phát triển khai thác tài nguyên theo
đúng luật biển quốc tế.
HÌNH
:
Tổng
bí thư Đảng Cộng Sản Việt Nam Tô Lâm tiếp tổng thống Indonesia Prabowo Subianto
tại Hà Nội ngày 13/09/2024. AP - Bui Lam Khanh
Trả
lời phỏng vấn RFI Tiếng Việt ngày 18/04/2025, nhà nghiên cứu Laurent Gédéon,
Trường Sư phạm Lyon (École normale supérieure de Lyon), nhấn mạnh bối cảnh quan
hệ song phương tốt đẹp là một trong những yếu tố giúp Việt Nam và Indonesia thiết
lập được thỏa thuận. Năm 2025, hai nước kỷ niệm 70 năm thiết lập quan hệ ngoại
giao. Quan hệ “đối tác chiến lược” có từ năm 2013 được nâng
lên thành “đối tác chiến lược toàn diện” vào ngày 09/03/2025
nhân chuyến thăm cấp Nhà nước của tổng bí thư Tô Lâm tới Indonesia. Về kinh tế,
trong ASEAN, Indonesia là đối tác thương mại lớn thứ ba của Việt Nam và Việt
Nam là đối tác thương mại lớn thứ tư của Indonesia. Mục tiêu của hai chính phủ
là tăng kim ngạch thương mại song phương lên 18 tỷ đô la vào năm 2028.
*
RFI
: Việt Nam và Indonesia sớm phê chuẩn hiệp định phân định vùng đặc quyền
kinh tế (EEZ). Việt Nam và Indonesia có những yêu sách cụ thể như nào ở Biển
Đông ?
Laurent
Gédéon : Các
cuộc đàm phán về pháp lý liên quan đến hiệp định tập trung vào việc giải quyết
các vùng đặc quyền kinh tế chồng lấn mà Việt Nam và Indonesia đều đòi chủ quyền.
Tôi muốn nhắc lại cả hai nước đều là thành viên của Công ước Liên Hiệp Quốc về
Luật Biển, được Indonesia phê chuẩn ngày 03/02/1986 và Việt Nam phê chuẩn ngày
25/07/1994. Như vậy, cả hai nước đều công nhận luật biển quốc tế.
Sự
chồng lấn về chủ quyền giữa hai nước liên quan đến vùng biển xung quanh quần đảo
Natuna ở phía nam Biển Đông. Đối với Việt Nam, đường phân định EEZ phải trùng với
ranh giới thềm lục địa giữa Indonesia và Việt Nam. Hà Nội dựa vào thực tế là
ranh giới này đã được xác định vào năm 2003 thông qua một thỏa thuận song
phương.
Ngược
lại, Indonesia cho rằng ranh giới của vùng đặc quyền kinh tế cần được đàm phán
riêng biệt với ranh giới của thềm lục địa. Jakarta lập luận rằng theo Công ước
Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (UNCLOS), đây là hai vùng biển riêng biệt, cho nên
phải được đàm phán riêng. Do đó, Indonesia muốn tính đến đường trung tuyến giữa
quần đảo Natuna và Côn Đảo : Quần đảo Natuna cách đảo Kalimantan của Indonesia
khoảng 300 km, còn Côn Đảo cách bờ biển Việt Nam khoảng 90 km. Nhưng đối với Hà
Nội, việc sử dụng đường trung tuyến giữa các quần đảo là không công bằng vì có
lợi cho Indonesia.
Đọc
thêmViệt
Nam và Indonesia đạt đồng thuận về phân định vùng đặc quyền kinh tế
Nhiều
vấn đề pháp lý khác cũng đã được nêu lên trong quá trình đàm phán, đặc biệt là
những khác biệt trong các đường cơ sở được sử dụng để đo khu vực phân định. Là
một quốc gia quần đảo, Indonesia được phép sử dụng đường cơ sở quần đảo, tức là
các đường thẳng, không nhất thiết phải chạy theo đường bờ biển, trong khi Việt
Nam chỉ có thể sử dụng đường cơ sở thông thường chạy theo đường bờ biển. Hai
phương pháp cơ bản khác nhau này làm phức tạp các cuộc đàm phán vì Hà Nội cho rằng
điều này làm suy yếu vị thế của họ.
Bất
chấp những khác biệt, Indonesia và Việt Nam cuối cùng đã thống nhất về hai đường
ranh giới phù hợp với Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển, trong đó quy định rằng
thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế là hai vùng biển riêng biệt cần được đàm
phán riêng. Tuy nhiên, do tính chất bảo mật của các cuộc đàm phán song phương,
cách thức hai bên áp dụng phương pháp đường trung tuyến để giải quyết tranh chấp
của họ đã không được tiết lộ, nhưng không thể phủ nhận rằng đây là một sự thỏa
hiệp mang tính sáng tạo, thể hiện bước tiến pháp lý đáng kể trong khi vẫn tuân
thủ các nguyên tắc của Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển.
*
RFI
: Thỏa thuận về vùng đặc quyền kinh tế là bước tiến quan trọng sau hơn
một thập niên đàm phán. Triển vọng của cả hai nước sẽ thế nào, cũng như tương
lai về mối quan hệ giữa hai nước với Trung Quốc ?
Laurent
Gédéon : Như
đã nói, Hiệp định về vùng đặc quyền kinh tế giữa Indonesia và Việt Nam là một
bước tiến lớn không chỉ trong quan hệ song phương giữa hai nước mà còn cho toàn
bộ môi trường khu vực.
Hệ
quả đầu tiên và rõ ràng nhất là thỏa thuận này sẽ chấm dứt căng thẳng giữa hai
nước liên quan đến hoạt động đánh bắt cá của tàu thuyền Việt Nam trong vùng biển
vẫn được Indonesia coi là vùng đặc quyền kinh tế của họ.
Hệ
quả thứ hai liên quan đến các nguồn năng lượng trong khu vực này, đặc biệt là
khí đốt tự nhiên, một số mỏ nằm ở phần EEZ của Indonesia giáp với EEZ của Việt
Nam. Việc làm rõ ranh giới giữa hai vùng đặc quyền kinh tế sẽ cho phép
Indonesia tự do phát triển hoạt động thăm dò và khai thác nguồn tài nguyên này.
Hệ
quả thứ ba mang tính chất pháp lý bởi vì thỏa thuận Việt Nam-Indonesia mở đường
cho các thỏa thuận tương tự có thể có giữa các nước khác trong khu vực, có
nghĩa là có thể thấy trong việc áp dụng đường phân định kép (thềm lục địa và
vùng đặc quyền kinh tế) một mô hình cho các cuộc đàm phán trong tương lai.
Hệ
quả cuối cùng ảnh hưởng đến Trung Quốc vì đường ranh giới chung do Việt Nam và
Indonesia thiết lập chồng lấn một phần với đường chín đoạn đánh dấu yêu sách chủ
quyền của Trung Quốc đối với phần lớn Biển Đông.
Đọc
thêmViệt
Nam kêu gọi ASEAN đoàn kết vào lúc Bắc Kinh lấn lướt ở Biển Đông
Tuy
nhiên, có một thắc mắc về chính sách của Indonesia liên quan đến Trung Quốc.
Nhân chuyến thăm Bắc Kinh ngày 09/11/2024 của tổng thống Indonesia Prabowo
Subianto, nhiều thỏa thuận đã được ký kết, kể cả hợp tác công nghiệp và khai
khoáng, hợp tác thương mại, với tổng giá trị lên tới 10 tỷ đô la. Ngoài ra còn
có một thỏa thuận về hợp tác hàng hải, trong đó hai bên cam kết cùng nhau phát
triển kinh tế hàng hải ở Biển Đông, bao gồm cả những khu vực có tranh chấp chồng
lấn. Tuyên bố chung được đưa ra trong dịp này nêu rõ rằng hai nước đã “đạt
được một thỏa thuận quan trọng về phát triển chung ở những khu vực có yêu sách
chồng lấn”.
Tuy
nhiên cho đến nay, tất cả các nước có tranh chấp hàng hải với Bắc Kinh, như
Indonesia, Philippines, Việt Nam, Brunei, Malaysia và Đài Loan, đều tránh tham
gia vào thỏa thuận phát triển chung với Trung Quốc vì sợ rằng việc đó sẽ bị hiểu
là công nhận chính thức các yêu sách của Trung Quốc. Mặc dù Indonesia đã thận
trọng khẳng định lại rằng họ không công nhận các yêu sách quá đáng của Trung Quốc
đối với Biển Đông, nhưng thỏa thuận giữa Bắc Kinh và Jakarta đã đánh dấu sự phá
vỡ lập luận trước đây và cho thấy rõ mâu thuẫn trong lập trường của Indonesia về
luật hàng hải quốc tế.
Về
phần Việt Nam, quốc gia không bị ràng buộc bởi bất kỳ thỏa thuận chung nào với
Trung Quốc về các khu vực tranh chấp, vẫn kiên định với lập trường của họ và
trong phản đối các yêu sách hàng hải của Trung Quốc. Đối với Hà Nội, thỏa thuận
này chắc chắn là một bước đột phá ngoại giao lớn và là tiền lệ pháp lý mà Hà Nội
có thể khai thác ở cấp độ ngoại giao. Ngoài ra, thỏa thuận cũng có lợi thế là
không đặt Hà Nội vào thế đối đầu trực tiếp với Bắc Kinh trong khi vẫn khẳng định
được cam kết của họ đối với luật pháp quốc tế.
*
RFI
: Sau thỏa thuận về vùng đặc quyền kinh tế giữa Việt Nam và Indonesia,
liệu đã có thể nói đến một liên minh đối trọng Philippines, Indonesia, Việt Nam
để đối phó với các yêu sách của Trung Quốc ở Biển Đông không ?
Laurent
Gédéon : Có,
trong bối cảnh Trung Quốc luôn chú ý đến việc không để một mặt trận chống Trung
Quốc trỗi dậy giữa các quốc gia ven Biển Đông và rộng hơn là trong ASEAN, thì
thỏa thuận Việt Nam-Indonesia mở đường cho sự xuất hiện của các chiến lược tập
thể đối phó với những tranh chấp hàng hải ở Biển Đông. Những chiến lược này
đáng chú ý - và cũng gây vấn đề cho Trung Quốc - vì chúng được thực hiện theo
cách tuân thủ chặt chẽ luật hàng hải quốc tế. Việc này càng giành được sự ủng hộ
của cộng đồng quốc tế và củng cố thêm sự cô lập của Trung Quốc đối với các yêu
sách chủ quyền tối đa của nước này.
Đọc
thêmThỏa
thuận Việt Nam - Indonesia: Một hướng giải quyết tranh chấp Biển Đông?
Cho
nên chúng ta có thể thấy những thỏa thuận kiểu này gia tăng trong tương lai, đặc
biệt là liên quan đến Việt Nam, Philippines và Malaysia. Đó là một quá trình
dài, trước hết đòi hỏi các đối tác tăng cường tin tưởng nhau, và sẽ ngày càng
phức tạp hơn vì liên quan đến các vùng biển quanh quần đảo Trường Sa, nơi vẫn
được biết đến là trung tâm của các vấn đề địa-chiến lược đặc biệt quan trọng.
Ngoài ra, cũng cần lưu ý rằng việc ký kết các hiệp định quốc tế là sự kiện quan
trọng nhưng việc thực hiện chúng cũng quan trọng không kém. Và về điểm này, sẽ
cần phải phân tích cẩn thận những tác động thực địa của hiệp định Việt
Nam-Indonesia để đưa ra kết luận và phát triển các phân tích triển vọng có thể
diễn ra.
Cho
nên, ngoài một liên minh đối trọng giữa Philippines, Việt Nam và Indonesia,
chúng ta có thể xem rằng các thỏa thuận kiểu này phù hợp với sự hội tụ lợi ích
ngầm hoặc rõ ràng của ba nước vì chúng hạn chế khả năng của Trung Quốc trong việc
khẳng định các yêu sách chủ quyền và dẫn đến việc Bắc Kinh ngày càng bị cô lập
về pháp lý. Dĩ nhiên Trung Quốc có thể tìm cách đảo ngược để áp đặt quan điểm của
họ, nhưng việc đó sẽ làm giảm thêm tính hợp pháp về mặt pháp lý của các hành động,
yêu sách của Bắc Kinh. Do đó, thỏa thuận này có thể đóng vai trò là mô hình giải
quyết các tranh chấp hàng hải khác ở Đông Nam Á và tạo thành đòn bẩy ngoại giao
khôn khéo để thay đổi tình hình trong khu vực.
*
RFI
: Việt Nam đã bị Ủy Ban Châu Âu đưa ra “thẻ vàng” về tình trạng đánh bắt cá bất
hợp pháp. Thỏa thuận với Indonesia được coi là dấu chấm hết cho tình trạng đánh
bắt cá bất hợp pháp trong khu vực. Liệu đây có phải là một kiểu cam kết để cá
Việt Nam có thể vào thị trường châu Âu không ?
Laurent
Gédéon : Vùng
đặc quyền kinh tế cho phép một quốc gia tiếp cận độc quyền các nguồn tài nguyên
thiên nhiên ở vùng biển và đáy biển của nước đó. Việc phân định rõ ràng không
gian này thường giúp tránh được những hiểu lầm và mâu thuẫn trong quản lý nguồn
cá nếu các đối tác có thiện chí. Về mặt này, thỏa thuận giữa Việt Nam và
Indonesia làm rõ quyền đánh bắt cá của cả hai bên ở Biển Đông và thể hiện sự cải
thiện rõ rệt so với giai đoạn trước đây, khi cả hai nước đều có yêu sách riêng,
khiến việc xác định tàu cá có vượt qua ranh giới hay không trở nên khó khăn. Do
đó, việc làm rõ biên giới sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng các quy định
và trừng phạt những người vi phạm, đặc biệt là xung quanh quần đảo Natuna, nơi
giàu tài nguyên thiên nhiên. Nhìn chung, kiểu thỏa thuận này có giá trị vì nó
tăng cường năng lực hợp tác và quản lý lẫn nhau giữa hai bên. Tình hình này chỉ
có thể có lợi cho Việt Nam khi chứng tỏ rằng đất nước đã trưởng thành về năng lực
quản lý nguồn lợi thủy sản.
Đọc
thêmChồng
lấn EEZ, nguyên nhân vụ va chạm giữa tàu Việt Nam và Indonesia
Không
chỉ riêng ở Biển Đông, đánh bắt cá bất hợp pháp, không báo cáo và không theo
quy định (IUU) là một vấn đề toàn cầu đe dọa hệ sinh thái đại dương và “đánh bắt
cá bền vững”. Đây là lý do tại sao chính quyền Liên Hiệp Châu Âu đã giám sát Việt
Nam sau cảnh báo vào năm 2017. Xin nhắc lại, những nước xuất khẩu sang Liên Âu
được phân loại và có thể chịu trừng phạt tương ứng với hệ thống mã màu : xanh
lá cây, vàng, đỏ, các lệnh trừng phạt có thể lên tới mức dừng hoàn toàn hoạt động
thương mại.
Do
đó, thỏa thuận giữa Việt Nam và Indonesia có thể được coi là một giải pháp đôi
bên cùng có lợi vì nó củng cố quan hệ song phương, tránh leo thang giữa ngư dân
và cơ quan thực thi pháp luật. Còn đối với Việt Nam, thỏa thuận này cho thấy quốc
gia này nghiêm túc thực hiện các cam kết quốc tế và là đối tác đáng tin cậy cho
Liên Hiệp Châu Âu.
*
RFI
Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn nhà nghiên cứu Laurent Gédéon, giảng viên Trường
Sư phạm Lyon, Pháp.
-------------------------
Các
nội dung liên quan
VIỆT
NAM - INDONESIA
Việt
Nam – Indonesia thảo luận về an ninh ở Biển Đông và dự án sản xuất xe ô tô điện
VIỆT
NAM- INDONESIA -BIỂN ĐÔNG
Việt
Nam, Indonesia tăng cường phòng thủ ở Biển Đông
No comments:
Post a Comment