Đọc
tiểu thuyết THUYỀN của Nguyễn Đức Tùng: Những ký ức cuồng nộ về một thời bão
táp
Trịnh Y Thư
Posted
on 23
Tháng Sáu, 2025 by post3
HÌNH
: https://vanviet.info/wp-content/uploads/2025/06/506458632_10231538811746030_61882144481463082_n.jpg
1.
THUYỀN
là cuốn tiểu thuyết của nhà thơ Nguyễn Đức Tùng. Tác phẩm thuật lại chuyến vượt
biên bằng đường biển của một nhóm người khi phong trào vượt biên trong nước lên
cao, vào khoảng giữa hai thập niên 70s và 80s. Vì là tiểu thuyết nên cuốn sách
thoát xác ra khỏi dạng hồi ký (mặc dù tự sự của nó bám sát sự thật và những điều
có thể xem như sự thật) và nhất là nhờ được viết với bút pháp “dòng ý thức” nên
nó đồng thời bật mở những suy nghiệm về lịch sử, chiến tranh, quê hương, tình
yêu, sự sống, sự chết, sự tàn bạo, lòng nhân đạo, ký ức, lòng khao khát được sống,
dòng chảy thời gian, cái nhẹ của nhân sinh, và nhiều thứ khác. Đó là một cuốn
sách nặng ký và đáng đọc, cho bất cứ ai, dù bạn từng là thuyền nhân, chia sẻ
cùng trải nghiệm với những gì viết trong sách hay không. Nó có thể thay đổi
cách nhìn của bạn về cuộc sống này, vốn trắc trở, đa đoan, và tạo cho bạn một
niềm tin, dù sao con người vẫn còn một chỗ trú trên mặt hành tinh này, dù chỗ
trú đó chẳng có gì là vĩnh viễn.
Một
cách khách quan, sau 50 năm nhìn lại, sở dĩ có phong trào vượt biên sau khi Sài
Gòn sụp đổ và đất nước thống nhất dưới sự cai trị của cộng sản là vì: (1) Sự
đàn áp chính trị của chính quyền cộng sản mới; (2) Trại cải tạo cưỡng bức dành
cho cựu quân nhân, công chức và những người khác có liên hệ đến chế độ Nam Việt
Nam cũ; (3) Khó khăn kinh tế do quá trình tập thể hóa và quốc hữu hóa quá nhanh
chóng, và thành phần lãnh đạo thiếu hiểu biết sơ đẳng về kinh tế nói chung; (4)
Phân biệt đối xử về sắc tộc, đặc biệt nhắm vào cộng đồng người Hoa trong thời kỳ
căng thẳng với Trung Quốc.
Có
lẽ còn có những lý do khác nữa nếu bạn là nhà Sử học hay Xã hội học, tuy vậy,
nhìn từ khía cạnh nào ta cũng thấy nguyên do sâu thẳm nhất đã thúc đẩy những
con người liều mình lao vào chỗ chết để tìm ra sinh lộ là lòng khao khát tự do
và sự tuyệt vọng. Sự tuyệt vọng thường dẫn đến những hành động tuyệt vọng.
Trong
tác phẩm của mình, nhà thơ Nguyễn Đức Tùng định nghĩa tự do như sau: “Tự do
không phải là một ý tưởng. Tự do là một kinh nghiệm cá nhân, không chia sẻ.”
Còn
ý nghĩa của tự do là gì? Anh cũng cho chúng ta câu trả lời: “Tự do không phải
là số phận. Tự do là một chọn lựa cá nhân.”
Anh
nhấn mạnh từ “chọn lựa”, bởi ở một đoạn văn khác, anh lặp lại: “Không có một
lời hứa nào cả. Tự do cũng vậy, đó là một chọn lựa.”
Sự
chọn lựa đó phần nhiều là quá đắt như chúng ta thấy sau khi đọc xong cuốn tiểu
thuyết, như trong lời thú nhận của nhân vật: “… trong những năm
tháng đầu tiên, dù vô cùng đau xót, anh vẫn không biết cái
giá mà anh phải trả cho cuộc ra đi lớn đến thế, và bây giờ tự hỏi nếu anh
chọn trở lại anh có chọn nữa không, tự do có phải là giá trị có thể đánh đổi những
thứ khác…” hoặc “… bi kịch của chọn lựa
là tôi không bao giờ biết quyết định đúng hay sai, dẫn về đâu…”
2.
Cấu
trúc hình thức cuốn tiểu thuyết THUYỀN là một tập hợp những tiểu đoạn (có 55 tiểu
đoạn cả thảy) mà mỗi tiểu đoạn là một phân cảnh, nếu ta có thể vay mượn thuật
ngữ điện ảnh đó. Một hoặc hai, ba phân cảnh gom lại, có thể xem là một truyện
ngắn, thí dụ như hai tiểu đoạn có tiêu đề Bài hát của cỏ lau và Sốt
rét ác tính.
Nhân
vật chính diện là chủ thể ngôi thứ nhất xưng “tôi”. Phong cách viết hiện đại,
mang đậm dấu ấn của thủ pháp “dòng ý thức” vốn được các nhà văn tiền phong đầu
thế kỷ XX như James Joyce, Virginia Woolf, William Faulkner đề xuất. Với thủ
pháp văn chương này, thay vì trình bày các sự kiện theo một trình tự hợp lý, có
cấu trúc phân minh rõ rệt, thì ở đây, tác giả mô phỏng cách thức hoạt động tự
nhiên, thường là hỗn loạn của tâm trí con người, nhảy từ ý tưởng này sang ý tưởng
khác, thường là không có sự chuyển mạch hoặc dấu câu rõ ràng. Đang miêu thuật tự
sự thoắt nhảy sang độc thoại nội tâm rồi lại thoắt về tự sự. Suy nghĩ bên trong
của nhân vật được thể hiện ngay khi sự việc xảy ra. Cấu trúc phi tuyến tính của
mạch văn khiến thời gian có thể không di chuyển theo trình tự biên niên; suy
nghĩ có thể quay lại quá khứ, không nhất thiết là ngày hôm qua, mà có thể nhiều
chục năm về trước, hoặc suy nghĩ ấy nhảy về phía trước cũng nhiều chục năm. Ngữ
pháp truyền thống ở đây không được tôn trọng nghiêm ngặt, câu chữ có thể bị
phân mảnh hoặc kéo dài lê thê, phản ánh tính ngẫu nhiên, mông lung, bất chợt của
suy nghĩ. Tính chủ quan cũng hiển lộ rõ ràng qua thủ pháp này: Ngòi bút tập
trung vào ấn tượng cá nhân nhiều hơn là thực tế khách quan. Nói chung, kỹ thuật
này thường được sử dụng để đào sâu hiểu biết về tâm lý, cho phép người đọc trải
nghiệm tâm trí và tâm lý của nhân vật từ bên trong.
Nguyễn
Đức Tùng đã viết cuốn tiểu thuyết THUYỀN như thế. Thêm nữa, vốn là nhà thơ, nên
văn xuôi của anh thấm đẫm phong cách thi ca, có thể xem nó là một bài trường ca
cũng được, thậm chí, kỹ thuật thi ca được anh sử dụng khá sâu rộng khiến người
đọc đôi khi phải đọc chậm hoặc ngừng đọc để suy ngẫm, liên tưởng.
Mặc
dù chủ đích của cuốn tiểu thuyết là cố gắng miêu thuật một sự kiện lịch sử,
nhưng vì hiện thực đời sống tàn bạo, khiếp hãi hơn hiện thực văn chương do tính
cách bi thảm tột cùng của nó, cho nên bàng bạc bên dưới lớp vỏ thô nhám ấy là
tính Kafkaesque của một bi kịch về thân phận con người. Nhân vật bị mắc kẹt
trong thế giới vô tận, phi lý, vô nhân đạo và không thể giải trình. Sự bất lực
của nhân vật khiến hắn như tê cứng. Khí hậu truyện, qua giọng văn và hơi văn đặc
trưng của thủ pháp “dòng ý thức” pha trộn chút thách thức, là siêu thực hoặc ác
mộng, các sự kiện thường như trong mơ, mất phương hướng, phi logic và không thể
thoát khỏi. Tất cả gây nên cảm giác rằng các cá nhân đó sẽ bị diệt vong bất kể
họ làm gì, mọi cố gắng xoay xở để thoát hiểm của họ đều là vô ích.
3.
Câu
văn “Nếu có một hình ảnh nào về địa ngục thì đây là địa ngục” (tiểu đoạn 16)
trong cuốn tiểu thuyết nói lên hết cái kinh hoàng, bi thảm của cuộc vượt biên.
Dĩ nhiên, mỗi người trong cuộc là một trải nghiệm khác nhau, nhưng hình như tất
cả thảm họa tập trung vào chuyến đi này: bão tố, hải tặc, đói khát, chết chóc,
và còn gì nữa? Kinh hoàng nhất có lẽ là hải tặc. Nếu địa ngục có thật thì chắc
Hades cũng phải lắc đầu ngán ngẩm chịu thua những hành vi man rợ của một nhóm
người đối với những kẻ đồng loại của mình. (Tôi nghĩ từ “man rợ” không đủ để lột
tả những hành vi ấy của bọn hải tặc).
Nguyễn
Đức Tùng đã cực tả, với chi tiết tỉ mỉ, những nỗi thống khổ, ngoài mức tưởng tượng,
của đám người khốn khổ trên thuyền, những đoạn văn mà khi đọc, dù đã biết trước
sẽ là gì, ta vẫn thấy khiếp hãi như nó đang xảy ra quanh ta trong thời khắc hiện
tại. Hay nó là nỗi ám ảnh? Nỗi ám ảnh tập thể như trong khái
niệm vô thức tập thể của khoa Tâm lý học?
Nhưng
cái chết thì không thể là nỗi ám ảnh mơ hồ nào được. Từ cái chết của người đàn
ông chạy trốn họng súng của công an biên phòng bị bắn ngã từ chiếc cầu khỉ rơi
xuống dòng nước (tiểu đoạn 3) cho đến cái chết của đứa bé bốn tuổi được thủy
táng (tiểu đoạn 17), cái chết treo cổ tự tử của người đàn ông ở cùng phòng
trong trại tị nạn (tiểu đoạn 33) và nhất là cái chết của Liên Hương, người yêu
của nhân vật chính diện, tất cả đã là vết chấn thương suốt đời không bao giờ
lành của hắn. Những cái chết oan khiên, oan ức, oan uổng, oan khốc hằn sâu
trong tâm hồn hắn, bắt hắn phải chịu đựng suốt năm tháng còn lại của đời mình.
“Trước cái chết, mọi thứ đều trở nên vô nghĩa. Cái còn lại duy nhất là người
khác.” Tác giả đã buông một câu như thế. Sự khiếp hãi của cuộc vượt thoát
có thể nhạt dần theo thời gian, nhưng vết thương trong lòng thì chẳng bao giờ
lành lặn, nó sẽ ở lại trong tâm trí, tâm tư người sống cho đến ngày hắn nhắm mắt
xuôi tay trở về cát bụi.
“Những
người chết vì đói khát. Những người đàn ông đứng lên kháng cự, bị bắn, ngã xuống.
Những người không thể chịu nhục nhã, tuyệt vọng tìm cách bảo vệ người thân, bảo
vệ đồng bào. Những người bị đánh bằng mái chèo vào thái dương, bị đâm nhiều
nhát bằng dao quắm vào bụng, những người bị bắn vào ngực. Những người chết ngay
tại chỗ. Những người chết sau nhiều ngày thoi thóp. Những người tàn tật suốt đời.
Những người mà xác họ trôi tấp vào bờ biển, vật vờ, tóc đầy cát, miệng đầy cát.
Tôi nhìn thấy sự đau khổ của con người, sự tuyệt vọng của đồng bào tôi, tôi đã
nghe thấy tiếng khóc.” (Tiểu đoạn 46).
Liên
Hương là tên cô gái xinh đẹp theo hắn vượt biên. Cô bị bọn hải tặc bắt dẫn đi
cùng một nhóm đông phụ nữ khác trên thuyền, và trong lúc bước lên chiếc cầu ván
bắc ngang thuyền mình với thuyền hải tặc, cô đã gieo mình xuống làn nước xanh
thẳm. Nguyễn Đức Tùng không bi kịch hóa đoạn văn tự sự này, anh trầm tĩnh thuật
nó với sự nhẫn nại tự chế, như nén xuống những cảm xúc đớn đau tột cùng, nhưng
chính nhờ thế cảm xúc theo câu chữ nở lớn dần trong lòng người đọc. (Mặc dù có
nhiều tình tiết, hành động, các diễn ngôn nặng tính triết học siêu hình, nhưng
cơ bản của cuốn tiểu thuyết vẫn là tính cảm xúc).
“Vào
lúc ấy, đổ xuống trên sàn thuyền, trước khi úp mặt xuống, tôi vẫn còn tỉnh
táo, năm giây, mười giây, mười lăm giây, nhìn thấy Liên Hương một lần nữa,
từ phía sau lưng. Hai tên cướp kèm hai bên đẩy nàng lên hẳn giữa cầu tàu. Tôi
nhìn thấy những người phụ nữ khác, ba hay bốn người đi trước, lảo đảo bước trên
tấm ván dài về phía ánh đèn pha sáng rực như bước vào miệng quái thú. Tôi
nhìn thấy Liên Hương bước đi, nàng bước không run rẩy, từng bước chậm chạp,
nhưng chắc chắn. Tôi nhìn thấy tà áo sơ mi bằng lụa mỏng, màu tím nhạt hoa cà,
bay phấp phới. Màu ưa thích của nàng. Tôi sống hai hiện thực, một hiện thực mà
tôi cảm nhận được, thân xác của tôi, cơn đau kỳ lạ ở mạn sườn bên phải, sự đau
nhức của tôi, sự bất động, những người xung quanh, cụ thể, tan tác, bị khuất phục,
và một hiện thực khác thuộc về một thế giới khác, thế giới của những người phụ
nữ bên kia thuyền, bước về phía kẻ thù, phía sau chân trời, vừa bị bóng đen nuốt
chửng. Trong khoảng tỉnh trước khi thực sự ngất đi, tôi thấy nàng ngoái
nhìn một lần nữa, hay tôi tưởng tượng như thế, tôi không biết, tôi nhìn thấy
con mắt nhìn tôi, thoáng qua, hay thực ra nàng không nhìn lại một lần nào nữa,
tôi không thể nào biết được, tôi không thể nhớ lại, rồi cất bước đi giữa
những người đàn bà khác. Dáng đi mau lẹ, bình thản.” (Tiểu đoạn
15).
Những
cái chết như cái chết của người con gái tên Liên Hương là chứng cứ cho sự phi
lý của đời sống. Đời sống vốn tự thân là phi lý theo nhận định của Albert
Camus, và ông băn khoăn tự hỏi: “Nếu cuộc sống không có ý nghĩa cố hữu, thì
mục đích của cuộc sống là gì? Ta phải phản ứng với sự phi lý như thế nào?”
Nguyễn Đức Tùng có câu trả lời, ở dạng một bài thơ ngắn lồng trong mạch văn của
cuốn tiểu thuyết:
Bạn
có biết vì sao bạn đến đây?
Chúng
tôi đến đây để tìm sự sống.
Nhưng
cái chết cũng chờ bạn ở đó.
Chúng
tôi không có một chọn lựa nào khác.
Không
đúng. Bạn đã chọn lựa.
Chúng
ta đã chọn lựa sự sống.
Không.
Chúng ta đã chọn lựa ý nghĩa của sự sống.
Không
ai biết làm gì với cái chết. (Tiểu đoạn 24).
Cho
dù sự “chọn lựa ý nghĩa của sự sống” đó mệt nhọc như chàng Sisyphus miên
viễn lăn tảng đá lên núi chỉ để nhìn nó lăn xuống.
Ở
phần kết của cuốn tiểu thuyết, Nguyễn Đức Tùng đã sử dụng một ẩn dụ để nói lên
cái ý nghĩa của sự sống đó. Bướm. Những con bướm monarch mùa
nóng ở Canada, nhưng trước khi trời chớm lạnh, chúng thiên di vượt ba nghìn dặm
xuống Mexico và ở đó cho đến khi nắng ấm thì quay ngược về lại Canada. Cuộc
hành trình ba nghìn dặm trở về đất cũ phải mất nhiều thế hệ bướm mới thực hiện
được, đám này chết trên đường bay, đám di duệ sinh ra rồi tiếp tục, cho đến
ngày chúng trở về nơi chốn cũ.
“Tất
cả sự mất mát nói cho cùng là sự hy sinh của kẻ đi trước lót đường, mở đường
máu cho đồng loại… Những con bướm phải chết trên đường bay nghìn dặm… Những
kẻ đẹp nhất đã chết. Không có mất mát nào có thể bù đắp được. Ý nghĩa của sự sống
là nằm ở chỗ ấy: ở chỗ đi tìm ý nghĩa của sự chết.” (Tiểu đoạn
51).
Đời
sống chỉ tồn tại khi nào nó có ý nghĩa. Tác giả kết luận như thế.
4.
Câu
chuyện về những người Việt vượt biên bằng thuyền hay đường bộ, câu chuyện từng
đánh động lương tâm nhân loại, là biểu tượng của sự kiên cường, sự khao khát muốn
sống, được sống như một con người nhân bản đích thực, nhưng nó cũng là lời nhắc
nhở về cái giá phải trả của con người trong chiến tranh. Nó là trang sử bi
thương đẫm máu và nước mắt của dân tộc, nhưng nó hoàn toàn bị gạt ra khỏi lịch
sử.
Chính
sử của người cộng sản Việt Nam không biên chép gì về cuộc vượt thoát đầy đau
thương của tập thể con người được thuật trong cuốn tiểu thuyết của nhà thơ Nguyễn
Đức Tùng. Do xây dựng ý thức hệ dựa trên giáo điều xem sự thù hận là trọng tâm
nên họ đối xử những con người ấy như kẻ thù, và đã là kẻ thù thì cần phải diệt
trừ như những con chuột mang mầm vi trùng dịch hạch, hoặc nếu không diệt trừ được
thì ném vào bãi phế thải thật xa. Lịch sử của người cộng sản Việt Nam phải là một
lịch sử toàn bích, không thể hoen ố, không có bất cứ một dấu vết tiêu cực nào để
những thành tựu của họ trở nên huyền thoại cho muôn đời sau chiêm ngưỡng và vái
lạy, để vài ba thế hệ nữa tên tuổi Hồ Chí Minh sẽ chói lọi hơn, được ghi lên
trên những Nguyễn Huệ, Lê Lợi, Trần Hưng Đạo… Học giả lỗi lạc Noam Chomsky từng
tuyên bố rằng: “Lý do lịch sử bị bẻ cong là vì họ muốn tạo nên ảo tưởng những
con người vĩ đại có thể làm được tất cả mọi chuyện. Nó dạy những con người yếu
đuối rằng một người như thế sẽ xuất hiện và thay đổi cục diện.”
Chúng
ta đều là những con người yếu đuối, những chiếc lá nhỏ nhoi trong cơn lốc lịch
sử, những kẻ bị bánh xe lịch sử nghiền nát. Nhưng còn chút may mắn, đó là,
chúng ta có ký ức, và ký ức giúp chúng ta dàn trải, lấp đầy những lỗ hổng của lịch
sử bằng tiểu thuyết.
Nhà
thơ Nguyễn Đức Tùng đã làm công việc ấy với cuốn tiểu thuyết THUYỀN của anh.
Anh đã thay chúng ta điền vào những chỗ trống khổng lồ cố tình bị bỏ quên của lịch
sử.
Bởi
tương quan giữa tiểu thuyết và lịch sử là một quan hệ cộng sinh và phức tạp.
Trong khi lịch sử cung cấp nguồn tài liệu phong phú cho tiểu thuyết, thì tiểu
thuyết, ngược lại, làm phong phú thêm sự hiểu biết về lịch sử bằng cách cung cấp
chiều kích tự sự, sự cộng hưởng cảm xúc, và những quan điểm khác. Cả hai lĩnh vực
đều tìm cách thấu hiểu thân phận con người, mặc dù thông qua các phương pháp và
hình thức thể hiện khác nhau.
“…
tôi nghĩ đến những người đã rời bỏ đất nước, những người đã chết trên biển, những
người bị bắt giam, những người bị giết hại, những người bị hãm hiếp, những đứa
trẻ bị bắt đi mất tích, những cô gái điếm trong những nhà thổ ở Thái Lan, ở
Cambodia, tôi nghĩ đến những người đã may mắn vượt qua sóng dữ, được nhân loại
cứu giúp, đặt chân đến vùng đất mới, như những đàn bướm bay đi khắp phương trời,
chết và sống, truyền lại cho thế hệ sau ký ức lạ thường của mình về nơi chốn
cũ, một ngõ hẻm, mái hiên, một quán nước, dòng sông. Như vậy ký ức đối với tôi
không phải chỉ là sự ghi lại quá khứ, việc gìn giữ những kỷ niệm thời thơ ấu,
những đau buồn của tuổi trẻ, vàng son của tự do, mà còn là tấm bản đồ dành cho
tương lai, cho con đường vận động về phía trước. Ký ức trở thành động lực cho
những ngày sắp tới. Không phải chỉ những mất mát. Mà những mất mát cũng làm nên
vốn liếng của thế hệ mai sau.” (Tiểu đoạn 51).
Với
một kết từ như thế, chúng ta phần nào hiểu ra thái độ cùng động lực nào thúc đẩy
tác giả viết cuốn tiểu thuyết này. Nói cho cùng, những người chết đã chết,
những vệt máu trên sàn thuyền đã khô, nhưng chúng sẽ mãi mãi nằm lại trong
tim óc chúng ta như những ký ức cuồng nộ về một thời bão táp.
05.25.2025
No comments:
Post a Comment