Đừng
để nước mắt và máu người Chăm đong đầy hồ Ka Pét
Tùng Phong -
Saigon Nhỏ
25 tháng 9, 2023
https://saigonnhonews.com/thoi-su/viet-nam/dung-de-nuoc-mat-va-mau-nguoi-cham-dong-day-ho-ka-pet/
.
https://saigonnhonews.com/wp-content/uploads/2023/09/an-2-1637132335418885951764-1280x853.jpg
Chính quyền Bình Thuận quyết tâm xóa rừng
để thực hiện dự án hồ chứa nước Ka Pét. Trong ảnh là Dương Văn An, Bí thư Tỉnh ủy
Bình Thuận (giữa) cùng đoàn khảo sát (ảnh: binhthuan.gov.vn)
Từ sự cố Rào Trăng 3 đến dự án hồ thủy
điện Ka Pét
Tháng Mười 2020, cơn bão số 9 càn quét miền Trung và Trung Nam
Bộ gây thiệt hại lớn cả về nhân mạng lẫn của cải xã hội. Có đến
102 người chết và 26 người mất tích, thiệt hại về hạ tầng, vật
chất hàng ngàn tỷ đồng. Cơn bão lũ dồn dập đó bộc lộ rất nhiều
yếu kém trong cách thức vận hành, phối kết hợp, thông tin liên lạc
giữa các đơn vị vận hành hồ chứa, nhà máy thủy điện và cơ quan
chức năng trong việc phòng chống thiên tai; cũng như năng lực hạn chế
của lực lượng cứu hộ, cứu nạn trong công tác di tản và bảo vệ
người dân.
Chỉ riêng sự cố sạt lở ở thủy điện Rào Trăng 3 – một công
trình thủy điện nhỏ nằm giữa khu vực lõi của khu bảo tồn thiên nhiên
ở huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế – đã cướp đi 17 sinh mệnh là
công nhân đang xây dựng nhà máy và vùi lấp 13 lính và sỹ quan trong đó
có cả Thiếu tướng Nguyễn Văn Man, Phó Tư lệnh Quân khu 4. Sau hơn một
năm tìm kiếm, người ta vẫn không thể tìm thấy 15 công nhân vẫn còn bị
vùi sâu dưới hàng triệu mét khối đất đá.
Rất nhiều nước mắt đã rơi trước đau thương mất mát. Đồng
thời, dư luận bức xúc về tình trạng các dự án thủy điện nhỏ, được
cho là một trong những nguyên nhân trực tiếp tàn phá rừng tự nhiên, vốn
còn lại rất ít ỏi, vẫn được cấp phép và triển khai ồ ạt. Cứ mỗi
1MW thủy điện thì người ta phải hy sinh 10-30 ha rừng tự nhiên trên
vùng thượng nguồn của các dòng sông để làm hồ chứa, một công trình
thủy điện cỡ nhỏ công suất 20-30 MW đã hủy diệt những cánh rừng
hàng trăm hecta.
Không những thế, trong quá trình làm hạ tầng đường sá, hàng
trăm hecta rừng khác cũng sẽ bị “cạo trọc” dưới danh nghĩa “tận
thu lâm sản lòng hồ thủy điện”. Theo Viện Tư vấn và Phát triển
(CODE) khi khảo sát 163 trong 287 công trình thủy điện vừa và lớn ở Tây
Nguyên, người ta thấy rằng tính đến năm 2012, các công trình này đã chiếm
dụng 65.239 ha đất các loại, trong đó có 16.600 ha rừng tự nhiên.
Hẳn mọi người vẫn còn nhớ đến cuộc chất vấn nảy lửa của
đại biểu Quốc hội khóa 13, Ksor H’bơ Khắp với hai ông bộ trưởng là
Trần Tuấn Anh và Trần Hồng Hà. Khi đó, để xoa dịu dư luận, Bộ
trưởng Công thương, Trần Tuấn Anh, khẳng định “Cho dù bất cứ một
công trình thủy điện qui mô nào nếu sử dụng 1m2 rừng tự nhiên, cũng
sẽ bị loại trừ và không cho phép triển khai thực hiện”.
Ông Trần Hồng Hà trên diễn đàn Quốc hội còn trắng trợn phủ
nhận việc thủy điện làm mất rừng và hứa rằng “Sắp tới, đối với rừng
phòng hộ đặc dụng, những nơi nào mà không còn rừng nhưng chức năng phòng hộ và
bảo vệ con người thì chúng ta phải phục hồi lại rừng nguyên sinh đúng với bản
chất tự nhiên”. Trong khi đó, ông Thủ tướng (lúc đó) Nguyễn Xuân Phúc
phê duyệt đề án trồng 1 tỷ cây xanh giai đoạn 2021- 2025. Thử hỏi cái
đề án đó đã thực hiện được mấy phần, trồng được bao nhiêu cây xanh
rồi?
500 ông bà đại biểu Quốc hội bây giờ chỉ biết bấm nút theo “ý
đảng”, nhanh chóng thông qua dự án tiếp tục chặt phá hàng trăm hecta
rừng đặc dụng, hủy hoại một khu di tích lịch sử văn hóa của người
Champa từng tồn tại gần 300 năm, để xây dựng một hồ chứa phục vụ
thủy điện. Không một ai trong 500 ông bà “đại biểu nhân dân” ấy, cũng
như ông Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ, quan tâm gì đến sự tồn tại
của những cánh rừng có ý nghĩa vô giá về sinh thái, môi trường và
chứa đựng trong nó những di tích của nền văn hóa Champa.
https://saigonnhonews.com/wp-content/uploads/2023/09/5040-dien-tich-rung-174857_411.jpg
Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
Bình Thuận cam đoan rằng diện tích rừng quý hiếm đều nằm ngoài dự án hồ chứa nước
Ka Pét (ảnh: nongnghiep.vn)
Thánh tích và rủi ro “xung đột sắc tộc”
Ông Phạm Khanh, một người sắc tộc Chăm, đang ở Hàm Thuận Bắc, Bình Thuận
lên tiếng cảnh báo nguy cơ xung đột sắc tộc giữa người Kinh và Chăm nếu các cơ
quan chức năng địa phương vẫn tiếp tục thực hiện dự án hồ Ka Pét. Cũng theo
ông Khanh, phần mộ của Pô Cei Khar Maah Bingu, mà người Kinh gọi tắt là “Mộ Cậu”
hay “Mộ Cậu Hoa”, được xem như là trái tim hành hương của cộng đồng người Chăm
và Raglai ở ba huyện Hàm Thuận Bắc, Hàm Thuận Nam, Tánh Linh.
“Đụng
vào cái gì thì được chứ đụng vào vấn đề tôn giáo, tín ngưỡng, tâm linh thì ngàn
đời sau người ta vẫn nhớ và nó dẫn đến nguy cơ xung đột sắc tộc thì làm sao.
Chúng ta có thể có rất nhiều giải pháp để làm cái hồ đó, nhưng nếu đụng
vào vấn đề xung đột sắc tộc thì không giải quyết được, khó lắm chứ không phải dễ
đâu. Cho nên bây giờ vẫn còn kịp” – ông Phạm Khanh nói.
Về di tích phần mộ của Pô Cei Khar (hay Dhar?) Maah Bingu, nhà
cầm quyền phải có một nghiên cứu lịch sử nghiêm túc. Trong tiếng
Champa thì “Pô” có nghĩa là “ngài”, còn “Cei” có nghĩa là “hoàng
tử”, “Dhar Maah Bingu” có thể là một chức vụ trong quân đội của chính
quyền Champa. Nhân vật này có thể là người có dòng dõi hoàng tộc và
là một nhân vật lịch sử trong giai đoạn tồn tại nhà nước Champa cuối
cùng, dưới thời vua Gia Long.
Dù trên thực tế Champa đã chấm dứt về mặt địa lý từ cuối
giai đoạn chúa Nguyễn và cuộc chiến Tây Sơn-Nguyễn Ánh (1771-1802); tuy
nhiên, nhóm dân sắc tộc Chăm ở phủ Bình Thuận vẫn được hưởng cơ chế
“tự trị”, vẫn có vua và quân đội riêng, dù họ chịu sự thần phục và
thuế dịch nặng nề với triều đình Huế. Sự tôn kính đặc biệt của
cộng đồng sắc tộc Chăm bản địa đối với khu Thánh tích là một minh
chứng về vị thế, xuất thân của nhân vật Pô Cei Dhar Maah Bingu, cũng
như tình cảm của người dân sắc tộc Chăm đối với một anh hùng của dân
tộc họ, không đơn thuần là một “quan ngự y” như truyền miệng.
https://saigonnhonews.com/wp-content/uploads/2023/09/gg-1-2048x1361.jpg
Quốc hội Việt Nam mãi mãi là sàn diễn
của những vở kịch bất tận mang tên “vì dân” (ảnh: quochoi.vn)
Lời cảnh báo không phải là không có cơ sở
Vào ngày 11 Tháng Sáu qua, vụ bạo loạn đẫm máu do một nhóm người
Thượng tấn công vào hai đồn công an ở Ea Ktur và Ea Tiêu ở Dak Lak đã
làm rung động bộ máy chính trị cũng như gây sự chú ý quốc tế. Ngày
6 Tháng Chín vừa qua, Thứ trưởng Bộ Công an Trần Quốc Tỏ đã thừa
nhận tại phiên họp của Ủy ban Tư pháp về công tác tư pháp của Chính phủ, rằng
vụ Dak Lak có “nguyên nhân sâu xa, cội nguồn của vụ việc vẫn là những vấn
đề kinh tế xã hội của đồng bào trong vùng; phân hóa giàu nghèo; quản lý đất
đai; xây dựng hệ thống chính trị và cuối cùng là một số nội dung khác về quản
lý an ninh trật tự ở cơ sở” – theo VnExpress.
Câu hỏi đặt ra ở đây là xung đột và bạo loạn liệu có thể
xảy ra đối với nhóm sắc tộc Chăm hay không? Trong trường hợp cụ thể
với dự án hồ thủy điện Ka Pét, xung đột sắc tộc có thể bùng nổ
như ở Tây Nguyên vừa qua?
Hỏi tức là trả lời.
Về mặt chủng tộc, Chăm và các sắc dân thiểu số Tây Nguyên gọi
chung là người Thượng gồm Jrai, Ede, Bahnar, Cơ Ho, Mạ, Xơ Đăng, Mơ Nông…
đều có nguồn gốc Mã Lai Đa Đảo. Trong suốt tiến trình lịch sử di cư,
định cư, xung đột, hội nhập và chịu ảnh hưởng của các tôn giáo và
văn hóa du nhập để hình thành các sắc dân và nền văn minh khác nhau,
mối liên quan giữa Champa với các sắc tộc Tây Nguyên là một lĩnh vực
rất cần được nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện và khoa học.
Những dấu tích của nền văn minh Champa như tháp Yang Praong ở
huyện Ea Sup, Dak Lak, tháp Yang Mun ở Cheo Reo và tháp Bang Keng ở
huyện Kroong Pa, Gia Lai… đã hiện diện khắp Tây Nguyên. Trong tấm bia ký ở
Mỹ sơn có ghi lại sự kiện những người Gia Rai, Bahnar Tây Nguyên đã từ
chối uy quyền vua Jaya Harivarman I – vị vua Champa tiếm ngôi vào năm
1149. Thay vào đó, người Gia Rai, Bahnar đưa hoàng tử Varisaraya, gốc
Vijaya lên ngôi. Thậm chí, vua Chăm là Po Rome (1627-1651) là người mang
dòng máu dân tộc Churu và bà thứ hậu gốc Ê đê (Rhade). Triều đại Po
Rome đã tập hợp được 12 vị vua trong gần 150 năm. Tất cả những sự
kiện và di tích trên đều chứng tỏ mối quan hệ mật thiết giữa các
dân tộc Tây Nguyên với Chăm.
Trong suốt quá trình Nam tiến của người Việt, máu của Chăm đã
nhuộm đỏ từ đèo Ngang cho đến tận trấn Tây Thành trong 700 năm. Cuộc
diệt chủng tàn bạo và khốc hại không thể hình dung nổi dưới thời
Minh Mệnh đã chấm dứt sự tồn tại một nền văn minh Champa rực rỡ và
đẩy sắc dân Chăm trở thành kiếp trâu ngựa.
Trở lại với dự án hồ thủy điện Ka Pét, mâu thuẫn và rủi ro
“xung đột sắc tộc” không cao. Đơn giản bởi lẽ sắc dân Chăm còn lại
quá ít ỏi. Nói như thi sĩ Inra Sara “Cham chỉ khóc”. Những uất hận
hờn căm của Chăm, giống như lời ca trong Hận Đồ Bàn của nhạc
sỹ Xuân Tiên, rồi sẽ lại vùi lấp trong rừng hoang, gió ngàn… Nhưng
nếu là một thể chế “do dân và vì dân”, thì có lẽ những vị “mũ cao,
áo dài” như ông Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ nên một lần cúi
xuống để nghe tiếng kêu khóc của người dân. Đừng để nước mắt và cả
máu của Chăm đong đầy cả hồ Ka Pét.
No comments:
Post a Comment