Trận
chiến ký ức (Memory battlefield) giữa 2 bên: Trường hợp Trịnh Công Sơn
Tác Giả: Nguyễn Văn Lục
08/07/2022
https://www.danchimviet.info/wp-content/uploads/2022/07/trinh-1.jpeg
Trịnh
Công Sơn
Trận
chiến ký ức ( Memory battlefield) giữa bên mô-bên ni hay bên nớ, bên tê. Trường
hợp Trịnh Công Sơn
Tính từ
năm 1975, khi VNCH rơi vào tay cộng sản nay đã gần nửa thế kỷ. Những tác nhân
gây ra cuộc chiến tương tàn ấy về cả hai phía nay đều không còn nữa. Miền
Nam với hai Tt. Ngô Đình Diệm-Nguyễn Văn Thiệu đã mồ yên mả đẹp. Các tướng
lãnh, các nhà chính trị, những nhà văn, trí thức cả một thời coi như rụng hết.
Ông Hồ,
Ông Lê Duẩn, ông Trường Chinh, ông Đỗ Mười, ông Võ Nguyên Giáp nay chỉ còn có
tên trên đường phố Hà Nội. Vấn đề còn lại duy nhất là đảng cộng sản vẫn còn tồn
tại. Nó vẫn là nguồn cơn của mọi biến động chính trị nội bộ và sự phủ nhận của
cộng đồng người Việt hải ngoại khó quên và tương lai thế nào chưa có một một giải
pháp nào rõ rệt cho.
Vấn đề
của ngày hôm nay, chọn lựa cho chủ đề bài viết, theo tôi, là một chọn lựa hợp
lý, nay không còn thứ chiến tranh của những kẻ đang còn sống. Cái còn lại duy
nhất chỉ còn là một trận chiến ký ức giữa đôi bên.
Bài viết
này tôi viết lại những gì tôi đã sống, đã trải nghiệm. Nó là một phần đời tôi
cùng với nhiều người miền Nam khác cùng thế hệ- trong đó có nhạc sĩ họ Trịnh và
‘’nữ hoàng chân đất Khánh Ly”. Và rất nhiều người khác. Và cứ như thế, chúng
tôi cùng lớn lên từ những biến động lịch sử đất nước với tư cách người trong cuộc.
Nhưng trong đó, đã có nhiều ngã rẽ chia lìa. Kẻ bên ni, kẻ bên nớ và cuối cùng
có thể vì nhiều lý do đã bị bỏ qua, bỏ quên trong cái vườn quên lãng của Huế.
Ngày
hôm nay, nếu còn điều chi để nói, cũng chỉ là trận chiến ký ức. Bởi vì nhiều
người đã trở về với cát bụi. Riêng bản thân Trịnh Công Sơn: Cát bụi đã trở về với
cát bụi. <Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi>. Cũng xong một kiếp người.
Tôi chẳng
quen biết và ân oán gì với TCS. Thời trẻ, tôi cũng thích nghe nhạc Trịnh cũng
như nhạc Phạm Duy, Văn Cao, Cung Tiến và nhiều nhạc sĩ khác. Nhưng nay xem ra
nhạc Trịnh đang trở thành một hiện tượng ‘ thời thượng”. Với nhiều Sô trình diễn,
ngoài Khánh Ly, còn nhiều ca sĩ khác cũng hát nhạc Trịnh. Thêm cô em gái út Trịnh
Vĩnh Trinh lố lăng, ăn theo tên tuổi anh mình (Theo tôi được biết,
không có một sô nào được trình diễn chính thức trong cộng đồng hải ngoại). Điều ấy đặt ra những câu hỏi. Phải
chăng nhạc Trịnh đã được Hà Nội bật đèn xanh, gián tiếp cổ vũ. Nó cũng
giống như việc cổ vũ cho dịch vụ đá banh tạo ra một đám đông quá hăng say. Tôi
tạm gọi đây là một : Liều thuốc ngủ qua đêm đối với người trong nước. .
Tất cả
những điều ấy buộc tôi phải suy nghĩ lại, tại sao TCS đã nổi đình đám sau khi
đã chết.
Đã có
nhiều người khác quý mến ông hoặc thù ghét ông đã không thể quên. Vì thế, khi
viết lại, tôi chấp nhận những rủi ro những ngộ nhận hoặc không đồng chính kiến,
ngay cả sự sự khó chịu, bực bội của ai đó.
Và bản
thân, mỗi khi cầm bút, thú thực tôi cũng không mong đợi được mọi người đồng ý.
Nhưng
người đọc, thế hệ nối tiếp, nhất là người miền Bắc hoặc người Việt trong nước
đã bị điều kiện hóa, họ cũng gặp rủi ro, vì họ gặp phải ý kiến trái
chiều của tôi. Biết làm thế nào được.
Nhưng cứ
giả dụ tôi viết đúng theo nhu cầu của người khác thì vị tất đã là điều hay. Bởi
vì như thế, cái rủi ro là họ đang đọc chính mình, soi gương chỉ thấy chính mình
trong gương.
Tôi muốn
dựa vai Jacques Derrida vận dụng ‘’ Giải Cấu Trúc” để chiêm nghiệm cuộc Lưu
đầy trên chính Quê Hương mình.
Tôi xác
định tôi ở bên ni( Quốc gia)tìm hiểu về bên nớ ( bên kia) và ngay cả bên tê(bên
nào khác).
Và đối
với tôi, viết là một hành trình trước hết là tìm điểm tựa như khởi điểm cho
riêng mình- như một lẽ sống ở đời. Và trong tình huống nào cũng không chấp nhận
thói quen có sẵn vốn là lối mòn suy nghĩ.
·
Trường hợp Bùi Giáng-Phạm Công Thiện-
Trịnh Công Sơn
Tôi gom cả
ba vị vào một rổ vì một lý do rất đơn giản. Cái chìa khóa để giải mã ba vị
thiên tài trên là: Cái gì mà cộng sản ca tụng, vinh danh. Cái đó có vấn
đề. Không thể ngẫu nhiên và ngu dại gì, người cộng sản rỗi hơi ca tụng
người của chế độ Sài Gòn trước 1975. Khi còn sinh thời, Bùi Giáng từng bị công
an bắt giam.. Vậy mà sau này trở thành biểu tượng thi ca Vô tiền
khoáng hậu, bao la một trời chữ nghĩa, trùng trùng một biển văn chương.
Phạm Công Thiện cũng trở thành biểu tượng của thiên tài như một áp đặt trên mọi
người.
(Xin đọc
thêm bài viết của tôi về Phạm
Công Thiện Và Bùi Giáng trên Đàn Chim Viet.info. Đã một thời như thế :
Trường hợp Bùi Giáng- Phạm Công Thiện, 01-012022. Trong đó, phần một tôi
phân tích họ qua dư luận, qua tài liệu những gì họ đã viết ra, đánh giá tài liệu.
Phần hai, dựa trên những triệu chứng tâm thần dưới con mắt khoa học hiện đại-
tài liệu do bác sĩ Nguyễn Đức Phùng, Neuropsychiatry), chuyên đề : những
triệu chứng tinh thần nặng trong thi ca của Bùi Giáng và Phạm Công Thiện. Trong
khi đó, Hà Nội mở các cuội tọa đàm văn chương để Phạm Công Thiện một mình tỏa
sáng. Đọc những bài phát biểu của Ban tổ chức gây khó chịu vì thiếu độ nghiêm
chỉnh, khách quan.
Cộng sản lợi
dụng hai tên tuổi để chứng tỏ họ hiểu biết, họ trân trọng tinh thần tự do, trọng
người có tài. Hai nhà thơ, nhà văn Bùi Giáng trước đây ở miền Nam cũng được nhiều
người hâm mộ, quý mến. Nhưng cái thời ấy hình như đã một thời như thế đã chìm
vào quá khứ. Riêng trường hợp TCS là một nhạc sĩ ở một lãnh vực khác, một quan
điểm chính trị gây nhiều tranh cãi đặt nhiều quan điiểm đối chọi nhau. Tôi cũng
không muốn nói đến ca sĩ Khánh Ly và nhiều ca sĩ khác đã hát nhạc Trịnh. Cùng lắm,
họ chỉ ăn theo, được trả tiền hậu hĩnh thì họ làm. Tiền thì vào túi bầu sô, phần
còn lại vào bóp người đi hát. Kẻ đã nằm xuống được gì. Hãy hỏi thẳng Khánh Ly
đi. Chuyến đi hát kỷ niệm 60 năm này của bà đi khắp VN. Bà được trả bao nhiêu
tiền và TCS được trả bao nhiêu tiền. Bà biết rõ hơn ai hết tại sao
bà phải về VN hát nhạc Trịnh mà không hát ở Cali chẳng hạn. Phải chăng bà chỉ
là một công cụ của thời thế trước 1975 và nhất là bây giờ nằm trong cái bãy của
cuộc chiến quá khứ.
Nguyên tắc là cái gì lợi cho Đảng thì họ
dùng, họ lợi dụng.
·
Trường hợp Trịnh Công Sơn nay trở thành biểu tượng của Hu
Trước
tiên, thời tuổi trẻ của TCS hoặc bất cứ người trẻ nào khát vọng hòa bình đều là
lý tưởng của cuộc sống. Hầu hết giới trẻ miền Nam đều có mặt, không phải của
riêng ai. Phản đối chiến tranh cũng là điều cần phải làm thôi. Khi cuộc chiến
càng dữ dội, ban đêm tiếng bom đạn dội về, cái chết gần kề và những mất mát của
bạn bè thì niềm khát vọng ấy càng mãnh liệt trở thành những phong trào. Nó thật
sự bùng phát từ những năm 1964-1969..
Hồi ấy, có
những người trẻ “ xuống đường”, với nhiều cuộc biểu tình. Họ tuyệt
thực, chăng biểu ngữ, lấy hàng rào kẽm gai, khói lựu đạn cay làm vốn vào đời, rực
lửa đấu tranh. Họ hô hào, họ đả đảo, hận oán nhà cầm quyền VNCH để tranh đấu
cho hòa bình.
Hầu như có
hai một trận tuyến: Một bên trong và một bên ngoài thành phố.
Bên ngoài
thành phố với bom đạn, mìn, đại bác với xác người chết hy sinh, với những người
dân quê vô tội.
Và một cuộc
chiến bên trong thành phố cũng ác liệt không kém. Họ là những sinh viên tranh đấu
tại các Trường đại học như Luật khoa và Văn Khoa. Họ là các dân biểu đối lập tại
Hạ Nghị Viện với nhiều tên tuổi như Ngô Công Đức, Dương Văn Ba, Hồ Ngọc Nhuận.
Họ còn là nhũng chủ bút của các báo như Thái Độ, Hành Trình, Đất Nước, Trình
Bày.. Khối lượng lớn họ được xếp vào thành phần phản chiến, lực lượng thứ ba.
Tôi đã viết nhiều về họ trong những giai đoạn ấy.
Tiếng hát của Khánh Ly và nhạc họ Trịnh xem ra hợp
khẩu vị của đám người này.
Còn nhớ trên sân trường Đại học Văn Khoa, đôi trẻ tài cao cùng với sinh viên nhịp
vỗ tay hoan hô hòa bình, trong khi tiếng đại bác đã bắt đầu vọng về thành phố.
Nhưng sau đó nhiều thanh niên đã phải lên đường nhập ngũ. Còn họ, họ đứng ở đâu
trong thành phố này. Họ có phải đóng thuế máu cho cuộc chiến ấy. Để sau đó, khi
đã nổi tiếng, Khánh Ly đi hát ở các phòng trà, tiền vào bao nhiêu nào ai biết
được. TCS nằm xuống đã lâu, nay Khánh Ly về Việt Nam để kỷ niệm 60 năm đàn ca
hát nhạc Trịnh. Bà đứng ở đâu để hát và hát cho ai, hát với nục đích gì, hát để
làm gì. Hỏi để mà hỏi thôi.
Nhưng một
mặt khác, thời đó, đừng quên có những người trẻ đã ‘’lên đường” như những
thanh niên thiện chí, dấn thân nhập cuộc, hy sinh mình vì người khác như Phong
trào Du Ca của Nguyễn Đức Quang và rất nhiều thanh niên thiện chí. Như nhóm
thanh niên quận 8 khởi dầu với các anh Đoàn Thanh Liêm (đã mất ) và hoàng Ngọc
Tuệ cùng nhiều thành viên khác như Hồ Công Hưng, Uông Đại Bằng và nhiều giáo sư
trẻ khác. Theo anh Trần Ngọc Báu, một người bạn cho tôi biết Thanh niên là chỗ
cho mọi người- chỗ cho mọi tôn giáo- không loại trừ. Đó là cái không khí thoải
mái bè bạn, một chút “phe phẩy”, “bốc đồng”, phi chính trị, phi tôn giáo, phi ý
thức hệ, phi mọi thứ giao động của cái thời kỳ cạnh tranh, đấu đá. Họ tự học hỏi
nhau, huấn luyện nhau trong nếp sống dân chủ, gặp gỡ sinh hoạt chung trong một
nếp sống lành mạnh và dân chủ.
Chỉ rất tiếc
là sau đó thời cuộc cuốn hút họ vào cuộc chiến tranh tương tàn để rồi tan rã.
Tôi viết lại ở đây như một tưởng niệm tuổi trẻ VNCH đã có một thời đáng sống.
Phần chót,
phải kể đến thành phần phía bên Tê, gồm những người trẻ theo cộng sản nằm vùng
phá phách bằng bom đạn kiểu bọn Huỳnh Tấn Mẫm, Dương Văn Đầy. Cao thị Quế Hương
và chồng là Phương bị chết trong tù. Nguyễn Xuân Lập, Trần Thị Lan, Phạm Trọng
Cầu ( Xin xem đầy đủ những hoạt động của họ cũng như tên tuổi trong cuốn
sách: Trui rèn trong lửa đỏ, do những thành tích hoạt động do
chính họ viết ra.)
·
Vấn đề ở đây là Hòa bình kiểu nào? Có nhiều kiểu lắm.
Có
kiểu đòi hòa bình của Thích Nhất Hạnh
hay của Ni sư Huỳnh Liên, của Lý Chánh Trung, của Trịnh Công Sơn.(Trong một lần Hội thảo ở
Viện đại học Cần Thơ vào năm 1969. Một tham dự viên đã lên phát biểu: Anh Lý
Chánh Trung ơi. Chúng tôi mến anh lắm. Nhưng chúng tôi phải nói rằng, anh đang
mơ một giấc mơ thật đẹp, chỉ tiếc là chúng tôi không thể mơ theo anh).
Hoặc theo
kiểu dân biểu đối lập Hồ Hữu Tường.
Ông tắm rửa, cạo đầu, ăn chay, mặc áo nâu sồng, đeo tràng hạt, ngồi trước cửa Hạ
Viện và tiên tri: Chỉ còn một mét nữa là tới Hòa Bình. (Trích bản thảo Đời của
Hồ Ngọc Nhuận).
Tôi chia xẻ
những tình tự con người ấy của TCS và của rất nhiều người khác. Cái điều oái ăm và bi kịch là cái nhìn, cái khát vọng hòa
bình chỉ một phía. TCS có thể nào mang những thông điệp này gửi cho Hà Nội được
không, yêu cầu họ ngưng bắn, yêu cầu họ đùng đổ quân vào miền Nam dược không? Tại
sao chỉ có miền Nam thì cần có Hòa Bình, còn miền Bắc thì cần chính nghĩa chiến
tranh?
·
Và
sau đây, xin dẫn một số chứng từ của những người cầm súng, họ cũng có nhu cầu
khát vọng Hòa Bình như mọi người và có thể sâu nặng hơn mọi người. Họ
đã trả giá bằng thuế máu cho cuộc chiến-Khi làm những bài thơ uất hận này, họ
không chỗ để in. Tôi nghĩ rằng có một sự bất công đối với họ vì chỉ là những
bài thơ, thay vì là những bản nhạc.
Đây là một
bộ mặt khác của cuộc chiến. Hoàn cảnh và tâm tư của họ nói lên đầy đủ trọn vẹn
ý nghĩa của cuộc sống. Một cuộc sống thật có bom đạn và xác chết. Không phải cuộc
chiến trong phòng trà dù cũng nói đến cái chết, đến xác người. Tiếng nói của họ
đáng được ghi nhận và tôn vinh như những vòng khăn tang cho họ và bạn bè họ.
Họ là ai.
Có thể là một anh dân vệ, một người lính gác cầu, hay một binh sĩ một tiểu
đoàn. Hay một chuẩn úy trường Bộ binh Thủ Đức, hay một sĩ quan quân trường võ bị
Đà Lạt.. Tất cả họ đều có cha có mẹ, người yêu, người vợ và những đứa
con. Và đã có bao nhiêu trong số họ đã nằm xuống. Đối với tôi, cái
chết tự nó là một điều đáng quý, đáng trân trọng. Không có cái chết nào cho đất
nước là vô ích. Mà chỉ có những cái sống thừa là vô ích.
Những cái
chết ấy bằng hàng vạn lời ca, bằng hàng vạn tiếng nói.
Trong khi
đó, trưa ngày 30-04-1975, tại đài phát thanh mở đầu bằng tiếng hát TCS:
bài Nối vòng tay lớn. Tiếng hát dồn dập, hân hoan của kẻ chiến thắng.
Nhưng đối với dân miền Nam, nó chỉ là bằng chứng của sự bội phản, tráo trở.. Võ
Văn Kiệt ít ra còn có một tấm lòng khi ông cho rằng ngày ấy có triệu người vui
thì cũng triệu người buồn.
Sau đó, Hà
Nội có thành lập ‘’Hội Trí Thức Yêu Nước” có sự tham gia của nhiều người. Hội
có tổ chức một đêm Văn Nghệ hát nhạc Trịnh. TCS còn bị kẹt ngoài Huế mãi đến
1979 mới vào được Sài Gòn. Thay vì tiếng hát Khánh Ly, có ca sĩ Thanh Hải hát
thế.
Dầu vậy,
đây là một vài tiết lộ mà nhiều người đã không có cơ hội để biết, nay được biết.
Dù không vào được, TCS đã gửi hai bài viết và nhờ nhạc sĩ Miên Đức Thắng hát
dùm.
Hai bài
hát có tên là: ‘’Gánh rau ra chợ và Máy kéo nông trường”. Công việc của
Miên Đức Thắng thật không dễ dàng gì. Hát làm sao, hát như thế nào.
Có thể,
đây là hai bài hát lỗi nhịp và và trơ trẽn nhất. Người ta tự hỏi, nó có còn là
TCS nữa hay không.
Chị Trần
Tuyết Hoa, vợ anh Nguyễn Hữu Thái, đã khuyên TCS đừng sáng tác những bài như thế.
Sau này,
chế độ nới lỏng hơn, TCS cũng đã có những bài khá hơn như: ‘’Một hòn bi
xanh, Ở trọ, Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui”.
Trong thời
gian bị kẹt ở Huế, theo Thái Thị Kim Lan cho tôi biết. TCS than phiền là Hoàng
Phủ Ngọc Tường muốn lấy điểm, đã bắt TCS viết kiểm thảo. TCS phải viết đi viết
lại, vì chưa đạt yêu cầu. Thế nào là đạt yêu cầu thì lại phải hỏi HPNT.
·
Trịnh
Công Sơn và bác Hồ. Bài viết của TCS do chính tay ông viết và được đăng trên
báo Tuổi Trẻ, vào ngày 27 tháng tư, 1979. Tôi chỉ nhắc lại thế thôi, còn ai muốn
đọc thì tự tìm lấy mà đọc. Thật hết lời, hết ý…
·
Những người lính làm thơ của miền Nam.
Có
thể là tâm trạng của một người lính từ vùng hỏa tuyến trở về thành phố. Nơi mà
từ đó, họ bỏ sách vở, bạn bè, khoác áo lính trong tâm trạng chán ngán bất cần với
lời thơ cao ngạo, bất cần đời. Có cái gì đó đau xót như nỗi tuyệt vọng về một sự
hy sinh rất có thể trở thành vô nghĩa?
‘’Mai
ta đụng chạm ta còn sống
Về ghé
Sông Mao phá phách chơi.
Chia sớt
nỗi buồn cùng gái điếm
Đổi tiền
mua một ngày vui. ( Nguyễn Đắc Sơn)
Và thêm
một đoạn và cuộc đời:
« Hai
mươi tuổi ta đi làm chiến sĩ
Bước
giày đinh lạng quạng một đời trai
Vừa
đánh giặc vừa lừng khừng triết lý
Nhưng
thằng này yêu nước chẳng thua ai »
( Thơ
Cao Tần trong bài Cảm Khoái, 1977)
Tỉ như Hồ
Minh Dũng để lại mấy câu thơ, đọc mà buồn, mà xót xa:
‘’Dù chỉ
một ngày ngưng bắn đó con
Cũng
đem chiếc áo lành ra mặc
Cũng ăn
một bữa cơm no
Cũng ngủ
một giấc trên giường trên chiếu”
Khát vọng
Hòa Bình thật bình thường và đơn giản quá. Nó không màu mè, ưỡn ẹo, rên rỉ.
Nhưng đậm sâu ý nghĩa. Nó chuyên chở những tình tự rất người.
Mặt khác,
bom đạn là vô tình, nhưng nó lại là ‘’Những chùm nho uất hận“ cho người đã nằm
xuống và những người còn ở lại vang vọng tiếng chửi thề, mày tao, đù má.. Cảm
xúc không nguôi. Nó đi thẳng và trái tim, vượt trội những cảm xúc qua ngôn từ họ
Trịnh.
‘’ Trở
lại Phan Rang lần này nữa
Thăm
mày không biết ngắn hay lâu
Thăm
mày đù má mày đã chết
Hay chỉ
thăm cỏ mọc xanh mầu
Chiều
nay sao gió chiều mày nhỉ
Gió nổi
trong tao đến lạnh mình
Đù má
nhang mày sao chẳng cháy
Đốt mãi
que diêm đến lạ lùng”
(Phạm
Nhã Dự với nén hương giã biệt bạn)
Và tiếp
theo chùm nho uất hận của Tô Đình Sự
“Đồi
Gia Hựu dài cơn đồng thiếp
Thăm hỏi
nhau mày còn mạnh giỏi
Còn
nguyên lành thân xác phàm phu
Bao giờ
giải ngũ, bao giờ có phép
Lúc nào
vào lính nhớ cho tao biết
Vợ con
mày mấy đứa ra sao.”
( trích
Thâm Tím đời của Tô Đình Sự, ông sinh ngày 1-5-1944 và mất ngày 13-10-1970)
Tôi thật sự
không còn biết có ngôn từ nào để diễn tả tâm trạng của những người trẻ trên.
Họ viết bằng
những kinh nghiệm sống đời họ. Nó còn nguyên khối sần sùi, không được mài giũa,
chau chuốt. Họ đối diện với cái chết thường trực mà họ không có chọn lựa nào
khác. Họ tìm lối xả ra bằng thơ thay vì nhạc. Cái thiệt thòi của họ nằm ở chỗ
này.
Và nay ai
còn nhớ đến những tiếng thơ đau đáu đời họ.
So với thành phần phản chiến, họ cao hơn một bậc. Tiếng nói của họ có trọng lượng thực
tiễn. Bởi vì họ sống phập phồng, đêm không ngủ trên tháp canh tiền đồn, trong
những cuộc hành quân sình lầy. Vì thế, tôi trân quý các truyện ký như: Năm
Căn vùng Xôi Đậu, tác giả Nguyễn Mạnh Hùng hay Đôi mắt người bị xử
bắn trong rặng Bình Bát, tác giả Nguyễn Bửu Thoại. Đó là những câu truyện sống
động, hiện thực, không mầu mè văn chương. Riêng truyện Đôi Mắt người bị xử bắn
trong rặng Bình Bát có một sự cuốn hút lạ thường và tôi đã không ngần ngại đưa
vào cuốn sách đầu tay của tôi: Lịch sử còn đó,xb 2008. Xin mời bạn
nào quan tâm đọc.
Thành phần phản chiến cứ
thẳng thắn mà nói, phần lớn họ trú ẩn ở đô thị, không giáp mặt với chiến tranh,
cùng lắm chiến tranh trên màn ảnh, không có máu đổ.
Họ kêu gọi
hòa bình như để yên lương tâm, họ bôi trơn cuộc đời, làm dáng chữ nghĩa, bi kịch
cái không cần bi kịch. Họ sợ chiến tranh, họ trốn lính như trường hợp TCS.
(Theo Nguyễn Thanh Ty, tất cả các thày giáo trường Nông Lâm Súc đều có lệnh nhập
ngũ. Tất cả đều tuân hành. Trừ Sơn trốn biệt về Sài gòn.
Tôi tự hỏi
một người trốn lính thì có tư cách gì để chống chiến tranh, để phản chiến. Tôi
cũng đi tìm lại những người phản chiến để xem họ phản ứng thế nào trong vụ tết
Mậu Thân ở Huế. Không một ai lên tiếng nhìn nhận sự việc, trong đó có cả TCS. Từ
Hoàng Phủ Ngọc Tường đến Nguyễn Đắc Xuân, đến hai họa sĩ bạn của TCS là Trịnh
Cung, Đinh Cường. Họ đều tránh né khi đề cập đến Thảm sát Mậu Thân Huế cũng như
tránh né việc TCS thân cộng hay không thân cộng.
Điều
đó cho thấy, một cách nào đó, hơn ai hết, chính họ là thành phần ngụy tín, nếu
không muốn dùng chữ sống gian trá giả dối. Và chính họ mới là người sợ Hòa Bình
hơn ai hết.
Tôi muốn
nhắn gửi chung với họ rằng: máu đổ ra thì ở đâu cũng giống nhau- cùng mầu đỏ-
Không có mầu khác đâu. Và cái chết nào cũng có ý nghĩa cả. Đối với một
bà mẹ thì không có lý tưởng tốt hay xấu mà chỉ có những đứa con đã mất. Trước
các mộ phần, cái biên giới thù nghịch không còn, có chăng chỉ là một niềm
thương nhớ của một người đối với một người đã mất.
·
Tác giả Nguyễn Thanh Ty và Trịnh Công Sơn
·
Anh
Nguyễn Thanh Ty người có thẩm quyền để nói về một quãng đời TCS, vì đã có thời
gian sống chung với Trịnh Cộng Sơn từ năm 1962 đến 1967. Anh nguyên là giáo sư
biệt phái nên có thời gian bị đi học tập cải tạo. Anh có viết một cuốn sách và
có nhã ý tặng tôi đọc. Nhan đề: ‘’Trong lao tù cộng sản, trại Đá Bàn và A.30.”
Mấy tháng sau ngày đi học tập, anh có nhận được thư vợ viết như sau
: ‘’ Nếu những ngày tới, em không còn cách nào kiếm được gạo nuôi con nữa thì mẹ
con em sẽ cùng uống thuốc chuột chết cho xong. Em và các con đã khổ quá rồi”
·
Nỗi
bất hạnh của anh không dừng ở đó, sau này anh biết, vợ anh đã để lại các con
cho bà nội để tìm một bến đậu khác. Nào có thể trách ai bây giờ.
·
Chiến
tranh không chỉ làm khổ lụy cho người lính, mà con người vợ ở nhà: ‘’20 năm làm
vợ lính thời chiến. 13 năm vợ tù cải tạo thời bình, là người con gái ở miền
quê Bầu Trai. Tôi có làm gì đâu mà suốt đời chỉ sống với nước mắt”
(Trích Người Bầu Trai, tháng tư 2004).
·
Theo
lời kể lại của Nguyễn Thanh Ty cùng học trường Sư Phạm Quy Nhơn với TCS và cùng
dạy một nơi và trọ cùng một nhà khi ra trường. Trịnh Công Sơn sinh tại Huế, năm
1939, gia cảnh khó khăn, cha mất sớm, bà mẹ phải tần tảo nuôi 8 người con- 3
trai, năm gái ăn học. Học tại Saig gòn, thi rớt tú tài II, trở về Huế rồi thi đậu
vào trường Sư phạm Quy Nhơn, khóa đầu tiên, 2 năm 1962-1964.
·
Cũng
trong phần này, anh Nguyễn Thanh Ty kể chi tiết về những người đã một thời đi
qua đời Trịnh Công Sơn như Tôn nữ Bích Khê, Ngô Vũ Bích Diễm. Lúc ấy, người đứng
đầu là ông trưởng ty giáo dục Lê Cao Lợi có phần dễ dãi với TCS. Nhiều lúc ông
làm ngơ để cho TCS đi về Sài Gòn như liên lạc để xuất bản chẳng hạn.
·
Tôi
thật sự chẳng quan tâm đến những bóng hồng đi qua cuộc đời TCS. Như Tôn nữ BÍch
Khê, Ngô Vũ Bích Diễm và sau nay khi nổi danh còn nhiều thiếu nữ xinh đẹp tìm đến
với TCS. Nhưng do sự bất lực thể xác của TCS nên sớm muộn họ cũng bỏ đi thôi. Mỗi
lần như thế là một lần tạo dịp cho TCS rượu vào, lời ra, sáng tác nhạc, ghi lại
hình ảnh đẹp nhất. Đó là những sáng tác khởi đầu từ sự thất bại tình ái, rồi
say bí tỷ viết ra những lời mù mờ, tối nghĩa mặc ai muốn hiểu thế nào thì hiểu.
Nhiều người suy đoán là hư vô, người bảo là Thiền . Trật lấc. Chẳng triết lý,
chẳng Thiền. Cùng lắm chỉ là những vay mượn. Tôi chỉ còn nhớ, một cô trẻ từ Hà
Nội vào, cũng cận kề, rồi cũng bỏ đi là cớ cho TCS viết bản nhạc: Bống bồng ơi.
Em đi đâu mà vội, mà vội.
·
Chi
tiết đáng được nói ra là trong nhóm bạn bè có những nghi ngờ TCS theo cộng sản,
vì ông liên lạc với đám bạn bè ở Huế, trong đó có Ngô Kha, Hoàng Phủ Ngọc Tường..HPNT
đã viết nhiều thư qua lại, nhưng nội dung những gì thì không ai biết. Tuy
nhiên, về mặt này, liên lạc với bạn bè theo bên kia chưa đủ yếu tố để gán tội
cho TCS.
·
Nhưng
nói chung, tập tài liệu của Nguyễn Thanh Ty cũng cho thấy một chi tiết lý thú về
con người thật của họ Trịnh, về thú say mê âm nhạc, về những bản nhạc được sáng
tác trong giai đoạn này, hoặc một số phản biện cho là Trịnh Cung không biết, hoặc
nói sai về TCS.
·
Tác
giả Người lính già Oregon–
một bút hiệu quen thuộc đối với tôi (tên thật Nguyễn Kim Quý). Tôi Chỉ liên lạc
với anh bằng điện thư. Anh giỏi chuyên về tiếng La Tinh và văn Hóa Pháp, vì là
hai môn học sau này anh dạy đại học ở tiểu bang Oregon. Nhưng những thói quen,
uống rượu, ăn nói bạt mạng, chửi thề thì tôi cũng rành qua một người bạn khác của
anh kể cho nghe. Nhưng nhờ bài viết nhan đề: Trịnh Công Sơn, một bạn học,
một tên ViXi nằm vùng, một đứa phản bội quốc gia mà tôi biết thêm nhiều
chi tiết lý thú về TCS.
·
Trước
hết, vào niên khóa 1959-1960, anh Quý học lớp Terminale (Tú tài 2) ở trường Jean-Jacques
Rousseau, ở Sài gòn. Trong lớp có 6 cô từ Marie-Curie đến học nhờ . Ngoài ra
còn có TCS cũng ở ngoài vào và được xếp ngồi cạnh Nguyễn Kim Quý. TCS ngồi cạnh,
có vẻ hiền lành, nhưng không chơi thân với bất cứ ai trong lớp. Anh rất đơn độc.
Ít nói, nhưng không làm phiền ai. Năm đó dò đọc, không thấy tên trên
bảng vàng. Và anh biến mất khỏi trường, và khỏi trí nhớ tôi.
·
Ngày
30-04-1975, trong lúc đất nước đang hấp hối, tôi và quân dân miền Nam, nghe
trên Radio tiếng đàn và tiếng hát của Sơn trong bài ‘’ Nối vòng tay lớn”. Xin
được trích nguyên văn của người lính già Oregon: ‘’ Tôi ngỡ ngàng đau
xót, tức giận, buột miệng, chửi thề thành tiếng: ‘’Salaud, thằng khốn nạn”. Trịnh
Công Sơn, một người bạn học cũ đã chết trong tôi như một kẻ đối nghịch, một thằng
phản bội, ăn cơm Quốc Gia, thờ ma cộng sản, kể từ trưa ngày 3- tháng tư năm
1975, trước khi chết thật, vào năm 2001, đúng 26 năm sau. ( Hết trích)
·
Những
phát hiện lý thú của người lính già Oregon.
Như tôi đã
có dịp nói về anh bạn Nguyễn Kim Quý. Anh là người thông thạo tiếng La tinh và
văn học Pháp một cách rành rõi. Trong mục số 5 của bài viết, anh đưa ra nhận
xét về dòng nhạc họ Trịnh- không phải với tư cách một người sành sỏi về âm nhạc-,
nhưng của một người nghe nhạc. Anh viết: ‘’ Có thể nói mà không sợ sai rằng nhạc
TCS trung bình, đơn điệu ( monotone), tẻ nhạt quá, bài nào cũng một âm giai,
nghèo nàn, buồn rầu, nghe xướng lên là ta biết liền, so với những ca
khúc của Phạm Duy phong phú, biến đổi (varié ), mỗi bài mỗi
khác. Hay Đặng Thế Phong. Đặc biệt Văn Cao, nghe sang cả, cổ điển,
cung điệu trầm bổng, thay đổi ngay trong cùng một bài như “Thiên Thai’’ hoặc ‘’Bến
Xuân”.
( Theo
tôi, nhạc TCS chủ yếu là lời không phải giai điệu).
Còn lời
ca, người ta thường gọi anh ta là ‘’phù thủy của ngôn ngữ”. Tôi không nghĩ vậy.
Những chữ như rong rêu, sỏi đá, ghế đá, đá xưa, đá ngây ngô, hòn cuội, công
viên, sâu bọ, kiếp người, hư vô, tiền kiếp, cát bụi, hóa kiếp, trần gian, hiện
tại, xa lạ,một ngày như mọi ngày.. đều là những cụm chữ lấy từ những bài triết
dựa trên tác phẩm của Sartre, như La Nausée ( Buồn nôn). Và Camus như
L’Étranger( Kẻ xa lạ), thấy dịch nhan nhản trong Sáng Tạo. Chả có gì mới mẻ đối
với văn học Pháp và chúng tôi thuộc lớp Phi lô, tại Jean-Jacques Rouuseau đầu
thập niên 1960.
·
Tại
Quy Nhơn năm nào, sau khi đi công tác trở về, tôi cùng với anh hạ sĩ tài xế vào
một tiệm kem Tuyết Trắng, chuyên chơi nhạc TCS. Không phải để nghe nhạc TCS mà
để ngắm cô chủ tiệm có mái tóc thoáng mùi hương bưởi, nước da trắng
bóc và đôi mắt tình không chịu nổi. Lúc ấy, trên băng Cassette, Khánh Ly đang
hát bài ‘’ Ru mãi ngàn năm” đến câu ‘’ bàn tay năm ngón ru trên ngàn năm.. “,
anh tài xế nói nhỏ với tôi: ‘’ Ông thầy có nghe không. Bàn tay em nào mà chả có
năm ngón, ông nhạc sĩ này thiệt kỳ, còn bàn tay em nào có 6 ngón thì
làm sao đây, phải chặt một ngón đi hả. Anh hạ sĩ không biết rằng,
bàn tay năm ngón nói chung, TCS có thể đã ‘’cuỗm’ và dịch từ một bài thơ “
Voici ma main, elle a cinq doights”. Hay bài “Les doights de ma main sont
cinq”, hay bài ‘’ Mon pouce va à l’école của Jacques Prévert là thi
sĩ thuộc trường phái tân siêu thực(neo-surréaliste), tác giả tập thơ Paroles,
1945. Và hai bài ‘’ Les feuilles mortes » và Barbara được phổ nhạc rất nổi
tiếng. Thơ ông hũ nút còn hơn Thanh Tâm Tuyền hoặc Bùi Giáng. Nguyên Sa cũng có
một bài thơ nói về ngón tay của
·
em »
ngón tay dùng để.. ngón kia dùng để..bắt chước một trong ba bài của Jacques
Prévert nêu trên : ‘’Les doights de ma main font – sont cinq.
C’est le pouce le plus malin, c’est l’index le plus coquin, Le majeur est le
plus heureux car il est au milieu. L’annulaire est le plus fier, car il sait à
quoi il sert. C’est le (…). Hay nhóm chữ ‘’ dài tay em mấy »
trong câu ‘’ dài tay em mấy thuở mắt xanh xao » là một cấu trúc văn phạm
quen thuộc trong thơ Pháp .( Tĩnh từ hay trạng từ đứng trước danh từ). Những mưa
hồng, nắng thủy tinh vv.. là hình ảnh ẩn dụ rất thường gặp trong
văn chương Pháp.
·
*Đã đến lúc cần chấm dứt bài viết với một người đã không còn
nữa.
·
Tôi
vẫn còn nhớ đời câu nhận xét của Hòa Thượng Thích Trí Quang- một người đã nhiều
năm bị giam hãm bởi cộng sản- viết : ‘’ Cộng sản nó cho người đến giết
mình hôm trước. Hôm sau, nó cũng cho người đến đặt vòng hoa phúng điếu ».
Gớm thay tâm địa người cộng sản. Họ đã làm như thế với Thích Nhất Hạnh, cả với
Thích Trí Quang. Rước sách đình đám, cờ quạt, điếu văn trịnh trọng, hỏa thiêu rồi
trân trọng bài vị với hoa lá, bài vị ghi công đức như bậc thánh nhân.
·
Riêng
với Trịnh Công Sơn, họ làm hơn thế nữa. Họ còn đặt tên đường cho họ Trịnh theo
dọc bờ sông Hương, đi từ chân cầu Gia Hội chạy dọc bờ sông Hương, một khoảng đường
dài 600 mét. Có thể chưa một nhân tài miền Nam nào có được cái vinh dự đó. Họ đặt
tượng và tương lai di hài cốt của ông về Huế. Họ còn bỏ tiền cả 60 tỉ để diễn lại
cuộc đời ấy với màu sắc chính trị không cần che đậy. Họ càng làm rùm beng, họ
càng cổ xúy tâng bốc TCS lên tận trời cao. Tôi càng áy náy một cảm giác buồn.
Ngày hôm nay, họ đã đội mồ, dựng xác chết lại, tôi càng xót xa cho thân phận họ
Trịnh.
·
Đó
là một xã hội trượt dốc và không có lời tuyên chiến.
·
Khánh
Ly đi lại Hành trình 60 năm âm nhạc họ Trịnh chỉ là công cụ của một màn lợi dụng,
lừa đảo của một trận chiến quá khứ của người còn sống.
·
Thôi
đã quá đủ rồi. Tôi xin các ông, các bà, các người ăn theo, các khán giả đui mù.
Hãy để yên cho người nằm xuống. Amen.
·
Nguyễn
Văn Lục
No comments:
Post a Comment