Tác
động của khu vực ngoại vi lên tiến trình lịch sử châu Âu
Robert D. Kaplan -
Foreign Policy
Nguyễn
Thị Kim Phụng, biên dịch
13/07/2022
https://nghiencuuquocte.org/2022/07/13/tac-dong-cua-khu-vuc-ngoai-vi-len-tien-trinh-lich-su-chau-au/
Lục địa già vốn dĩ luôn được xác định và chịu
ảnh hưởng bởi ngoại vi của nó.
Nếu cuộc
chiến của Nga ở Ukraine kết thúc với chiến thắng cho phương Tây, liệu Ukraine,
với đủ các loại vấn đề – cơ sở hạ tầng bị tàn phá, nạn tham nhũng, thể chế yếu
kém – cuối cùng có thể gia nhập NATO và Liên minh châu Âu hay không? Nếu xét đến
lịch sử châu Âu trong hai thiên niên kỷ vừa qua, con đường đó sẽ là điều không
có gì đáng ngạc nhiên.
Châu Âu vẫn
luôn được xác định và chịu ảnh hưởng bởi ngoại vi của nó, và theo đó, vị trí
trên bản đồ của châu lục cũng được thay đổi. Việc NATO tiến về phía đông sau
Chiến tranh Lạnh, kết nạp các cựu thành viên khối Hiệp ước Warsaw – dù quyết định
đó có gây tranh cãi đến đâu – có sự tương đồng sâu sắc với quá khứ của châu Âu.
Việc xây dựng các đường ống khí đốt tự nhiên của Nga kéo dài khắp Trung và Đông
Âu cũng vậy. Hơn một thế kỷ trước, nhà sử học người Mỹ Henry Adams đã viết rằng:
thách thức cơ bản của châu Âu đã, đang, và sẽ là làm thế nào để tích hợp các
vùng đất khác nhau của Nga vào cái mà ông gọi là “kết hợp Đại Tây Dương”
(Atlantic combine).
Theo Tony
Judt, nhà sử học quá cố chuyên về châu Âu thời hậu Thế chiến 2, sự mở rộng là một
phần trong “huyền thoại làm nền tảng” cho Liên minh Châu Âu. Ngay từ đầu, EU đã
là một liên kết đầy tham vọng, mở rộng dần dần để bao gồm các vùng đất từng thuộc
về Vương quốc Caroling, Phổ, Habsburg, Byzantine, và Ottoman trước đây, mỗi
vùng đều có lịch sử và mô hình phát triển riêng biệt. Nói cách khác, châu Âu
luôn tìm cách để lớn hơn nữa, tiến xa hơn nữa, tham vọng hơn nữa. Bởi nếu ảnh
hưởng của châu Âu không được cảm nhận rõ ràng ở các khu vực biên giới, những đối
thủ như Nga sẽ liên tục đe dọa họ.
Khi Hy Lạp
và Thổ Nhĩ Kỳ gia nhập NATO vào năm 1952, đó là một bước đi táo bạo, vì hai nước
đều chưa phát triển và đang thù địch lẫn nhau. Khi Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha
gia nhập Cộng đồng Châu Âu vào năm 1986, việc hai nước trên Bán đảo Iberia đều
tương đối nghèo và có quá khứ độc tài đã khiến quyết định mở rộng Châu Âu ra
ngoài dãy núi Pyrenees trở thành một quyết định táo bạo không kém. Giờ đây, những
bước phát triển như vậy đã trở nên tự nhiên đối với dự án châu Âu rộng lớn. Thổ
Nhĩ Kỳ vẫn là trường hợp ngoại lệ duy nhất, do vị thế trung lập của họ đối với
châu Âu, Nga, và các lực lượng cực đoan ở Trung Đông. Tuy nhiên, Thổ Nhĩ Kỳ có
thể sẽ quay trở lại với phương Tây sau nhiệm kỳ tổng thống của Recep Tayyip
Erdogan, người đang ngày càng gặp nhiều rắc rối và đang điều hành nền kinh tế của
mình một cách thảm hại.
Vùng ngoại
vi đang tiếp tục xâm lấn vào châu Âu: dưới hình thức cuộc xâm lược quân sự của
Nga, tình trạng vô chính phủ ở Trung Đông liền kề, và các quốc gia láng giềng
đang tìm cách gia nhập EU. Ukraine chỉ là một ví dụ về một quốc gia lân cận
khao khát sự tự do bên trong các thể chế và chiếc ô toàn cầu của châu Âu.
Thật vậy,
trong chuyến đi vài năm trước đến Albania, tôi đã thăm Thành cổ Berat cách Biển
Adriatic không xa. Ở đó, tôi thấy các nhà thờ Chính thống giáo Byzantine và tàn
tích của các nhà thờ Hồi giáo Ottoman nằm sát cạnh nhau, và mọi con đường ở đây
đều từng là những con đường thương mại nối trung tâm Địa Trung Hải với
Istanbul. Trong một nhà thờ ở Berat, tôi được chiêm ngưỡng một biểu tượng của
thế kỷ 18, với Đức mẹ Đồng trinh đang giang tay ban phước lành, còn hai bên Mẹ
là hình ảnh các nhà thờ Hồi giáo. Chính thống giáo, Hồi giáo và Công giáo cùng
tồn tại ở Albania, một thành viên NATO mong muốn gia nhập EU, bất chấp thể chế
yếu kém và tình trạng tội phạm có tổ chức tràn lan. Không chỉ Albania, mà
Serbia, Montenegro, Kosovo, Bosnia và Herzegovina, và Bắc Macedonia đều là những
quốc gia mong manh nằm bên trong thế giới Chính thống giáo và Hồi giáo phương
Đông, họ là một phần địa lý của châu Âu và đang tìm kiếm tư cách thành viên EU,
bất chấp vai trò của Nga và Thổ Nhĩ Kỳ trong nền kinh tế của họ.
Trên thực
tế, phương Đông đã đặt nền tảng cho phần lớn châu Âu ngày nay. Cuộc di cư của
người Slav từ nội địa châu Á sang châu Âu từ thế kỷ 5 đến thế kỷ 7 chính là nguồn
gốc của các quốc gia từ Ba Lan đến Balkan. Cuộc di cư của người Magyar từ Urals
vào thế kỷ thứ 9 đã tạo ra Hungary. Sau đó là đợt tấn công của Đế chế Ottoman
và Sa hoàng Nga: quân đội Ottoman dưới quyền chỉ huy của Kara Mustafa tiến đến
cổng thành Vienna vào cuối thế kỷ 17, trong khi đó, lính Nga dưới thời Peter Đại
đế đã chinh phục thành công vùng Biển Baltic. Châu Âu thường thay đổi dựa trên
những biến động trong vùng ngoại vi của nó.
Trên thực
tế, biến động lớn nhất và kịch tính nhất đối với bản đồ châu Âu xảy ra vào cuối
thời cổ đại, và nguyên nhân cũng xuất phát từ phương Đông. Đế chế Ba Tư của người
Sassan đã đụng độ với Đế chế Byzantine – và làm suy yếu cả hai – theo đó tạo điều
kiện cho người Ả Rập chinh phục không chỉ Trung Đông mà còn toàn bộ bờ biển
phía nam của Địa Trung Hải. Khi người Ả Rập đặt chân đến Bắc Phi, châu Âu cũng
bắt đầu chuyển hướng về phía bắc và rời khỏi Địa Trung Hải, khoác lên mình vẻ mặt
lạnh lùng của tộc người Frank gốc German, đạt đến đỉnh cao Kitô giáo thời Trung
cổ, trong lúc các tộc người German bao gồm cả người Goth và người Lombard trở
thành các nền tảng xây dựng nên văn hóa và nhân khẩu học của phương Tây.
Điều đó
không có nghĩa là điều này sẽ tiếp tục xảy ra. Hãy thử xét rằng trong suốt thời
cổ đại cho đến thế kỷ thứ 7, rất lâu sau khi thành Rome sụp đổ, tiếng Latinh vẫn
là ngôn ngữ chung của Bắc Phi. Bản đồ La Mã cũ được định hướng quanh Lưu vực Địa
Trung Hải suốt hàng trăm năm đột nhiên biến mất, và châu Âu như chúng ta biết
ngày nay bắt đầu hình thành trong cái gọi là Đêm trường Trung cổ.
Fernand
Braudel, nhà địa lý vĩ đại người Pháp sống vào giữa thế kỷ 20, thậm chí còn ám
chỉ rằng Địa Trung Hải thực sự không phải là biên giới phía nam của châu Âu.
Châu Âu, theo quan điểm của ông, chỉ kết thúc ở nơi sa mạc Sahara bắt đầu. Tức
là các thành phố lớn và dân cư ven biển Ả Rập Bắc Phi và vùng Levant về bản chất
là một phần của châu Âu. Địa Trung Hải là cầu nối, chứ không phải dải phân
cách. Một khi lập luận này được hiểu rõ, những tác động của nó đối với thế kỷ
21 là rất lớn. Thậm chí một Ukraine đã hội nhập vào châu Âu cũng có thể không
phải là sự kiện có ảnh hưởng lớn nhất đến vận mệnh của lục địa này trong những
thập niên tới.
Chẳng hạn,
các quốc gia nhà tù (prison-state) ở Trung Đông như Libya của Muammar
al-Qaddafi và Syria dưới chính quyền Đảng Ba’ath, những nơi từng chặn đứng dòng
người di cư vào nam và đông nam châu Âu, nay đã sụp đổ. Đến năm 2050, dân số
châu Phi sẽ tăng gấp đôi lên 2,5 tỷ người, và đến năm 2100, con số này có thể đạt
4,5 tỷ người, theo Liên Hiệp Quốc. Vào đầu thế kỷ 21, châu Âu và châu Phi có
dân số xấp xỉ bằng nhau, nhưng đến cuối thế kỷ này, dân số châu Phi có thể gấp
bảy lần châu Âu.
Tăng trưởng
dân số và suy giảm tình trạng nghèo đói cùng cực trên toàn thế giới có nghĩa
là, vào cuối thế kỷ 21, con người sẽ di cư với mức độ thậm chí còn lớn hơn bây
giờ. Dù hầu hết những người châu Phi lựa chọn di cư sẽ vẫn ở trong biên giới lục
địa của họ, nhưng tầng lớp trung lưu đang lớn dần ở một số quốc gia châu Phi có
thể sẽ đẩy mạnh việc di cư qua Sahara đến các cảng Địa Trung Hải – sẽ có thêm
nhiều người châu Phi có đủ phương tiện để di cư ra nước ngoài theo biến động
nhân khẩu học và sự gia tăng kỳ vọng. Làn sóng này sẽ cộng hưởng với tình trạng
di cư gây ra bởi các quốc gia thất bại và bán thất bại trên khắp dải Sahel ngay
phía nam Sahara, chẳng hạn như Mali, Burkina Faso, và Niger. Những người di cư
châu Phi từ phía nam và phía đông của sa mạc Sahara bắt đầu đến Ý và Hy Lạp
trong năm 2015 là dấu hiệu không chỉ cho thấy Địa Trung Hải đúng là cầu nối, mà
còn cho thấy sa mạc Sahara đã không còn là dải phân cách – trái ngược với đánh
giá của Braudel.
Tuy nhiên,
tinh thần trong lập luận bao trùm của Braudel – rằng sự hình thành châu Âu được
quyết định bởi các sự kiện xảy ra trong vùng ngoại vi và xa hơn – đã trở lại
ngoạn mục trong thời đại siêu toàn cầu này. Trên thực tế, chủ nghĩa dân tộc dân
túy, được nước Nga của Tổng thống Vladimir Putin cổ vũ suốt nhiều năm, và được
chứng kiến ở một số nước châu Âu như Hungary và Ba Lan, có thể chỉ là một hiện
tượng hiển nhiên, trước khi lịch sử và văn hóa quốc gia bị xói mòn nhiều hơn nữa,
vì toàn cầu hóa và chủ nghĩa toàn cầu (cosmopolitanism) đã chứng minh rằng
chúng là một lực lượng không thể ngăn cản, dù chúng diễn ra rất từ từ và với
các tốc độ khác nhau. Hệ quả là các xã hội châu Âu có thể thay đổi từ bên
trong. Rõ ràng, đây là vì những lý do vượt xa sự sụp đổ danh tiếng của chính
Putin vì cuộc chiến ở Ukraine. Là một phần của lục địa Á-Âu, nằm gần với châu
Phi và Trung Đông, châu Âu nhiều khả năng sẽ liên tục bị ảnh hưởng bởi các xu
hướng như vậy vì di cư đã trở thành một hiện tượng thống trị trong thế kỷ 21.
Địa lý quyết
định nhiều hơn là thuyết định mệnh. Nó cũng có thể chứa đựng một thông điệp đạo
đức. Thông điệp của cả Lưu vực Địa Trung Hải lẫn Biển Đen tiếp giáp với Ukraine
đều mang tính phổ quát: biển cả gắn kết các nền văn minh với nhau. Ý tưởng ban
đầu về EU chạy song song với thông điệp này: nhấn mạnh sự quan trọng của cá
nhân hơn của nhóm, của các quốc gia (legal states) hơn của các dân tộc (ethnic
nations); nói cách khác, là việc hiến pháp bảo vệ các quyền cá nhân trong thế
giới toàn cầu. Cho đến khi EU phải trải qua cuộc khủng hoảng kinh tế kéo dài cả
chục năm, nhiệm vụ của khối này vẫn là mở rộng cả về phía đông và phía nam. Vì
nếu các vùng đất ngay bên ngoài bờ biển phía nam và phía đông của Địa Trung Hải,
cũng như Biển Đen, rơi vào hỗn loạn, thì về lâu dài, sẽ chẳng có gì để bảo vệ
cho một pháo đài Bắc Âu trong một thế giới toàn cầu.
Như nó đã
từng làm trong quá khứ, châu Âu phải thích ứng với những điều kiện thay đổi
này. Sự thu hẹp khoảng cách địa lý thông qua công nghệ và di cư đang diễn ra
không ngừng, và dư chấn của cuộc xung đột quân sự lớn nhất ở châu Âu kể từ Thế
chiến 2 cũng sẽ giống như thế. Thật vậy, các cuộc chiến vĩ đại đã đưa lịch sử
tiến nhanh về phía trước. Và quyết định của các cá nhân, như Putin và Tổng thống
Ukraine Volodymyr Zelensky, có lẽ sẽ thay đổi hoàn toàn bản đồ châu Âu một lần
nữa.
-------------------------------
Robert D. Kaplan là tác giả của 20 cuốn sách, gần đây
nhất là “Adriatic: A Concert of Civilizations at the End of the Modern Age.”
Ông hiện là Giám đốc về Địa chính trị tại Viện Nghiên cứu Chính sách Đối ngoại.
Nguồn: Robert D. Kaplan, “Europe
on the Edges,” Foreign Policy, 23/06/2022
No comments:
Post a Comment