Gấu Nga trong cuộc thư hùng kinh tế
12/07/22
https://thongluan-rdp.org/quan-di-m/item/25460-g-u-nga-trong-cu-c-thu-hung-kinh-t
Kể từ sau
khi Nga phát động cuộc xâm lăng vào một quốc gia có chủ quyền được Liên Hợp Quốc
công nhận là Ukraine, đã có gần 4000 lệnh trừng phạt của cộng đồng quốc tế nhắm
vào những kẻ chóp bu Nga đã gây ra tội ác xâm lược. Những người lương thiện tin
rằng đêm tối sẽ qua, cả Nga và Ukraine sẽ cùng sang trang để bước vào một kỷ
nguyên mới của đất nước họ: Kỷ nguyên dân chủ đa nguyên. Nhưng đồng thời cũng
có không ít người ủng hộ quân xâm lược Nga, chỉ trích và mỉa mai các lệnh trừng
phạt của phương Tây là vô ích và sẽ không cứu vãn được tình hình chiến cục, đồng
thời họ cũng kỳ vọng rằng sự kéo dài của cuộc chiến sẽ khiến tinh thần ủng hộ của
dân chúng phương Tây dành cho Ukraine sẽ giảm dần vì chính quyền các nước phương
Tây phải tìm lời giải cho giá cả năng lượng, lạm phát cũng như phải làm thế nào
để có thể vừa hỗ trợ Ukraine vừa có thể hạn chế tác dụng phụ của các lệnh trừng
phạt. Vậy các lệnh trừng phạt Nga có "vô ích" như nhiều người nghĩ dưới
góc độ của kinh tế vĩ mô? Hôm nay chúng ta sẽ thảo luận vấn đề này nhằm làm
sáng tỏ trước những luận điệu xuyên tạc của các kênh truyền thông độc tài.
1. Căn bệnh Hà Lan
Tại sao lại
nói đến đất nước Hà Lan trong khi vấn đề của bài viết này là phân tích tác động
của các lệnh trừng phạt lên nền kinh tế Nga? Thực sự căn bệnh Hà Lan đã từng được
Venezuela "trình diễn" trong năm 2010 và nay lại được đế quốc phát
xít Nga "remix" với nhạc trưởng là Putin. Vậy căn bệnh Hà Lan là gì?
Trong lĩnh
vực kinh tế học, căn bệnh Hà Lan xảy ra vào năm 1960 tại Hà Lan là một hiện tượng
một nền kinh tế của một quốc gia tăng trưởng quá nhanh nhờ tập trung vào một
ngành "có khả năng xuất khẩu" (tradable) mang lại nguồn thu ngoại tệ
lớn làm tỷ giá đồng nội tệ của quốc gia đó tăng phi mã khiến sức cạnh tranh
trong nền kinh tế toàn cầu của quốc gia đó giảm. Nhưng tai hại hơn đó là nguồn
lực kinh tế quốc gia đó bị phân bổ tập trung một ngành khai thác tài nguyên
thiên nhiên khiến các ngành sản xuất khác (bao gồm cả ngành sản xuất hàng hóa
phục vụ trong nước và ngành sản xuất hàng hóa phục vụ xuất nhập khẩu) không
phát triển được và cuối cùng là sự sụp đổ trong lưu thông hàng hóa dẫn tới
"lạm phát rút ruột hàng hóa" (shrinkflation). Nói một cách ngắn gọn,
thuật ngữ căn bệnh Hà Lan nhằm chỉ nguy cơ suy giảm mạnh của khu vực sản xuất của
một quốc gia khi tập trung khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên để xuất khẩu.
Ngoài ra, nó cũng dùng để chỉ tình trạng giảm sút của nền kinh tế do có sự gia
tăng dòng ngoại tệ nói chung như sự tăng nhanh giá tài nguyên thiên nhiên xuất
khẩu hay nguồn viện trợ từ nước ngoài, nguồn vốn FDI.
Đầu tiên
hãy bàn đến hai giai đoạn của nền kinh tế Nga sau khi tổng thống Putin phát động
cuộc chiến xâm lược Ukraine. Trong hai giai đoạn thì giai đoạn một thì chính là
nguyên nhân của giai đoạn hai mà yếu tố đã thúc đẩy là những chính sách ngông
cuồng do Putin và đồng đảng ban hành, còn giai đoạn hai của nền kinh tế Nga thể
hiện rõ nét hậu quả của căn bệnh Hà Lan.
a. Giai đoạn từ 24/2/2022 đến 31/5/2022
Giai đoạn
một không quá quan trọng nên sẽ được nói một cách ngắn gọn và súc tích nhất có
thể. Trong giai đoạn này nền kinh tế Nga dần bị thu hẹp do các lệnh cấm vận của
phương Tây có tính chất tăng nặng theo thời gian. Lúc này Nga cũng gặp nhiều thất
bại nặng nề vì ảo tưởng của Putin là "người Ukraine sẽ mang hoa ra đón
quân Nga". Giá trị đồng nội tệ Ruble bị giảm do lệnh trừng phạt mạnh nhất
trong giai đoạn này là loại các ngân hàng lớn của Nga khỏi hệ thống thanh toán
quốc tế SWIFT. Việc chặn Nga khỏi SWIFT khiến khả năng lưu thông hàng hóa của
Nga trên thị trường quốc tế trở nên kém đi, cộng thêm việc Mỹ và các đồng minh
Phương Tây quyết định đóng băng khối tài sản thuộc các định chế tài chính có
liên quan đến các thành phần chóp bu tại Nga dẫn đến việc chi trả cho những tổn
thất chiến tranh trong giai đoạn này trở nên khó khăn.
Các lệnh
trừng phạt của phương Tây khiến Nga đột ngột bị hạn chế giao dịch thương mại để
đổi lấy ngoại tệ và các khoản tiết kiệm của giới chóp bu ở các nước trên thế giới
cộng thêm một loạt các hành động của các thành phần trong nền kinh tế như các
nhà đầu tư tháo vốn khỏi Nga, các ngành sản xuất của Nga không kịp chuyển đổi
sang các ngành sản xuất bắt buộc phục vụ xuất khẩu, giá cổ phiếu tại Nga giảm...
dẫn đến lạm phát tăng phi mã và đỉnh điểm trong tháng 3, giá đồng Ruble mất 40%
giá trị khiến lạm phát nước này vượt quá 9% (có nghĩa lạm phát tại Nga chính thức
tăng phi mã kể từ tháng 1 năm 2016).
b. Giai đoạn từ 1/6/2022 đến hiện tại.
Giải thích căn bệnh Hà Lan
Giai đoạn
hai của nền kinh tế Nga đã chứng kiến đợt tăng giá mạnh của đồng ruble. Nhiều
nhà kinh tế không hề cảm thấy bất ngờ vì họ đã nhìn thấy một loạt sự thay đổi
trong chính sách của Putin nhằm ép các ngành sản xuất và khai thác phải sản xuất
hàng hóa và sản phẩm để phục vụ cho xuất khẩu nhằm chống lại tình trạng kiệt quệ
ngoại tệ. Ở một chiều hướng khác ngoài lãnh thổ Nga, Trung Quốc và Ấn Độ đã trở
thành hai khách hàng lớn nhập dầu thô của Nga. Nga nhận thấy việc có hai thị
trường thay thế này đã giải quyết tình trạng thiếu hụt ngoại tệ nên đã quay
sang đe dọa và cắt nguồn cung dầu sang các nước Phương Tây. Nhưng điều gì cũng
có cái giá của nó. Nga ỷ bản thân có dầu mỏ, chỉ việc xúc và đem bán và giờ cái
kết là phải đổi sang đồng Ruble mới. Và đây chính là hậu quả của căn bệnh Hà
Lan (Dutch disease).
Các lệnh cấm
vận của phương Tây chủ yếu với mục đích ngăn chặn mọi nguồn lực có thể hỗ trợ
cho quân đội Nga, trong đó có 1 lệnh cấm vận nghiêm khắc nhất mà Liên Hiệp Châu
Âu phải mất nhiều tháng đàm phán: Cấm nhập khẩu dầu mỏ từ Nga (30/5/2022). Lệnh
cấm vận dầu mỏ ngay lập tức phát huy tác dụng hạn chế doanh thu của Nga nhưng
Châu Âu dường như đã quá chậm trễ khi áp lệnh trừng phạt này. Trong khoảng thời
gian Châu Âu bắt đầu áp các lệnh trừng phạt lên Nga thì Nga đã tìm được thị trường
mới là Trung Quốc và Ấn Độ, thành công né được lệnh trừng phạt này. Và như một
hệ quả của quy luật cung cầu, giá dầu mỏ tăng nhanh chóng khiến Nga liên tục
thu về ngoại tệ dẫn đến giá trị đồng Ruble tăng phi mã bất chấp việc các định
chế tài chính - ngân hàng lớn trên thế giới như FED, BoC, BoE, SNB,... liên tục
tăng lãi suất nhằm kìm chế lạm phát và cố gắng làm đồng nội tệ của bản thân quốc
gia tăng giá trị so với các nước trên thế giới (một động thái nhằm hạ giá nhập
khẩu vì lạm phát đã tàn phá các ngành sản xuất phục vụ xuất khẩu khiến các
ngành này không thể phát triển nên việc nâng giá nội tệ quan trọng hơn là hạ
giá để dễ dàng xuất khẩu).
https://live.staticflickr.com/65535/52211378168_af80242137.jpg
Khi bị
Phương Tây ruồng bỏ Nga sẽ sớm trở thành chư hầu của Trung Quốc ?
Nhưng Nga
cũng không vui vẻ gì khi thu được ngoại tệ. Như đã nói, Putin đã ban hành các
chính sách nhằm ép các doanh nghiệp phải sản xuất các sản phẩm và mặt hàng phục
vụ cho xuất khẩu nhằm tăng dự trữ ngoại hối sau khi nhận thấy các lệnh trừng phạt
của phương Tây không phải là nói suông. Putin không hề chuẩn bị cho nền kinh tế
để đương đầu với các lệnh trừng phạt có thể sẽ bị phương Tây áp đặt như nhiều
người nghĩ mà ngược lại, dường như y nghĩ rằng phương Tây sẽ phản ứng yếu ớt
như khi Nga chiếm vùng Crimea của Ukraine. Chính sách ngông cuồng của Putin khiến
các doanh nghiệp buộc phải xoay xở nhằm thu lợi nhuận tối đa và không có gì lý
tưởng hơn là dồn hết nguồn lực kinh tế vào việc múc dầu lên và bán, một công việc
đơn giản và dễ kiếm được siêu lợi nhuận trong bối cảnh giá dầu tăng. Và Nga lại
đi vào vết xe đổ như Venezuela và Hà Lan chỉ vì... kinh tế phát triển quá nhanh
mà dẫn đến lạm phát!
Nhiều người
sẽ phì cười, cho rằng việc đồng nội tệ tăng giá thì làm thế nào mà dẫn đến lạm
phát? Nhưng nó đã diễn ra và được chứng minh bởi hai nhà kinh tế học W. Max
Corden và J. Peter Neary vào năm 1982. Theo đó, hai nhà kinh tế học dựa trên giả
thiết rằng nền kinh tế quốc dân có triệu chứng của "căn bệnh Hà Lan"
được chia làm hai khu vực: khu vực xuất khẩu (tradable sector) và khu vực không
xuất khẩu (non-tradable sector). Trong đó khu vực xuất khẩu được chia làm hai
khu vực nhỏ là khu vực bùng nổ tức khu vực khai thác tài nguyên và khu vực trì
trệ tức khu vực chế tạo.
Khi các
ngành khai thác tài nguyên bùng nổ, lượng cầu về lao động của khu vực này tăng
lên, lao động từ các khu vực sản xuất khác sẽ chuyển sang khu vực khai thác làm
cho khu vực sản xuất bị thiếu cung lao động và trở nên suy thoái, quá trình này
được gọi là "phi công nghiệp hóa trực tiếp". Trong khi đó, sự phát
triển mạnh mẽ của khu vực khai thác đã làm tăng thu nhập cho người lao động
trong lĩnh vực này dẫn đến nhu cầu tiêu dùng của họ cũng tăng lên và làm tăng
trưởng khu vực không xuất khẩu. Sự tăng trưởng này kéo theo sự di chuyển nguồn
lực từ khu vực chế tạo sang khu vực không xuất khẩu khiến cho khu vực chế tạo
trở nên ngày càng trì trệ, quá trình này được gọi là "phi công nghiệp hóa
gián tiếp". Hai nhà kinh tế học W. Max Corden và J. Peter Neary gọi đây là
"hiệu ứng di chuyển nguồn lực" của căn bệnh Hà Lan.
Nói một
cách đơn giản, "phi công nghiệp hóa" là quá trình thay đổi về mặt xã
hội và kinh tế khi quá trình này loại bỏ năng suất lao động hoặc hoạt động công
nghiệp, đặc biệt là công nghiệp nặng và công nghiệp sản xuất. Đối với Nga,
ngành công nghiệp nặng tương ứng với khu vực khai thác tài nguyên thô (khu vực
1 của nền kinh tế) và ngành công nghiệp sản xuất hay còn gọi là ngành công nghiệp
nhẹ tương ứng với khu vực chế tạo (khu vực hai của nền kinh tế). Còn 3 khu vực
của nền kinh tế là khu vực ba (công nghiệp dịch vụ hay dịch vụ), khu vực bốn (dịch
vụ thông tin) và khu vực năm (dịch vụ con người) thì tôi sẽ không bàn tới vì
Nga thực chất không phải là nước phát triển quá mạnh đến mức các ngành dịch vụ
chiếm tỷ trọng áp đảo trong nền kinh tế, cùng lắm nó chỉ chiếm đa số phần trăm
quá bán và không thể phát triển quá 70% như các nền kinh tế phát triển. Nếu có
ai phản đối và cho rằng Nga rất mạnh về công nghệ thông tin thì họ chẳng hiểu
gì về nền kinh tế vì ngành công nghệ thông tin của Nga chỉ phát triển nhằm
"phá hoại" thông tin của "các quốc gia thù địch" chứ không
tạo ra giá trị thặng dư đáng kể nào cho nền kinh tế Nga (bằng chứng là ngành
công nghiệp quốc phòng của Nga lạc hậu đến mức không thể chống lại cuộc chiến
điện tử do vũ khí phương Tây viện trợ cho Ukraine gây ra khiến Nga tổn thất lớn
đến mức phải "tổng động viên" tại các vùng ly khai và "khuyến
khích" nhà độc tài Lukashenko gây hấn với Ukraine).
Tóm lại, ý
tôi muốn nói đến là gì? Đó là nền kinh tế Nga tuyệt nhiên không có sự phát triển
vượt bậc nào của các ngành dịch vụ, đó một đặc điểm của các chế độ độc tài. Chỉ
có các ngành dịch vụ sinh ra để phục vụ và phát triển con người chứ không phải
để bóc lột như các ngành công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp nặng. Lạm phát và
"phi công nghiệp hóa" chỉ là hệ quả tất yếu của việc tăng cường đầu
tư quá mức vào các ngành công nghiệp để kiếm nhanh lợi nhuận và không chú trọng
phát triển cân bằng các ngành dịch vụ mà quên mất "hiệu ứng tiêu
dùng" sẽ tạo sức ép lên giá cả các mặt hàng thuộc khu vực không xuất khẩu
(dịch vụ, y tế, giáo dục, tài chính, vận chuyển,...).
Tiếp theo,
hãy đến với nguyên nhân đã trực tiếp gây ra lạm phát tại Nga: "hiệu ứng
tiêu dùng". "Hiệu ứng tiêu dùng" xảy ra khi những người có thu
nhập từ yếu tố bùng nổ tăng lên, và lượng thu nhập này sẽ được chi cho cả hai mặt
hàng là mặt hàng có khả năng xuất nhập khẩu (hàng khả thương, Tradable) và mặt
hàng chỉ được sản xuất để phục vụ nội địa (hàng nội địa, Non-tradable). Nếu cầu
của hàng nội địa so với thu nhập co dãn thì thu nhập tăng sẽ đẩy giá hàng nội địa
tăng. Khi giá hàng nội địa tăng nghĩa là đầu vào của hàng khả thương cũng tăng
theo như giá của nguyên, nhiên liệu hay lương nhân công. Tuy nhiên, giá của
hàng khả thương lại cố định bởi đó là những mặt hàng được giao dịch quốc tế và
bị áp dụng nguyên tắc một giá. Do vậy, khi chi phí sản xuất tăng, lợi nhuận xuất
khẩu của các nhà sản xuất hàng khả thương sẽ bị giảm. Do đó, cầu hàng khả
thương tăng sẽ được thay thế bằng các mặt hàng nhập khẩu. Khi tỷ giá danh nghĩa
là cố định, thu nhập tăng nhưng sẽ không kéo theo giá của hàng khả thương tăng
theo. Khi đó, cầu của hàng nội địa tăng sẽ làm giá tăng và do đó tỷ giá hối
đoái thực tế giảm theo.
Đối với
Nga, khi tỷ giá hối đoái thực giảm, hàng hóa trong nước trở nên đắt đỏ hơn so với
hàng quốc tế nhưng đồng nội tệ vẫn mạnh và lạm phát trong nước vẫn cao dẫn đến
hiện tượng "lạm phát rút ruột hàng hóa". Điều này xảy ra không phải
do quy luật thị trường mà là do các lệnh cấm vận của phương Tây áp đặt lên Nga
khiến Nga dù muốn tiêu bớt các đồng ngoại tệ thì cũng lấy làm khó vì có tiền
nhưng không nhập khẩu được thứ gì dù đồng nội tệ mạnh giúp giá hàng hóa nhập khẩu
rẻ tương đối so với hàng nội địa. Nói một cách dân giã như tổng bí thư Trọng
thì "Tiền bạc lắm làm gì, chết có mang theo được đâu!". Hết cách,
ngân hàng trung ương Nga phải giảm lãi suất từ 11% xuống 9,5% và nó cũng là
nguyên nhân dẫn đến việc đổi tiền của Nga.
https://live.staticflickr.com/65535/52211379603_24f6865f1f.jpg
Nga in
thêm tiền mới vì muốn quản lý chặt nền kinh tế ?
2. Thấm đòn trừng phạt của phương Tây, Nga đổi
sang đồng Ruble mới
a. Hậu quả của việc đồng rúp tăng giá
phi mã và các lệnh trừng phạt của phương Tây áp đặt lên Nga.
Những người
lo ngại hoặc huênh hoang cho rằng nền kinh tế Nga đã phục hồi, ngân hàng trung
ương Nga đã thành công trong việc chặn đứng đà tăng giá cao nhất kể từ năm 2018
thì một là không hiểu nền kinh tế vận hành như thế nào, hai là mắc chứng cuồng
Putin quá đáng mà chỉ biết nghe mấy lời tâng bốc "khả năng lãnh đạo tài
tình" của đám chóp bu thân cận Putin. Lạm phát và giá trị đồng nội tệ
không đơn giản tỷ lệ nghịch như nhiều người vẫn nghĩ, nhiều nhà kinh tế học đã
chỉ ra hiện tượng giá trị đồng nội tệ tăng nhưng lạm phát vẫn cao là nghịch lý
"tỷ giá Potemkin". Trong Kinh tế học và chính trị, thuật ngữ “làng
Potemkin” (Potemkin Village) ám chỉ bất kỳ công trình (theo nghĩa đen hoặc nghĩa
bóng) có mục đích duy nhất là cung cấp vẻ ngoài hào nhoáng cho một quốc gia
đang hoạt động kém hiệu quả, khiến mọi người tin rằng đất nước đang phát triển
tốt hơn. Thuật ngữ này xuất phát từ việc Grigory Potemkin dựng lên những khu
làng di động giả dọc các bờ sông Dnieper nhằm đánh lừa Catherine II về sự trù
phú của khu vực Ukraine và bán đảo Crimea, vốn nằm dưới quyền quản lý của
Potemkin, trong chuyến đi thị sát của bà tới khu vực này vào năm 1787. Qua đó,
chúng ta có thể thấy tỷ giá đồng Ruble không là một thước đo sức khỏe nền kinh
tế Nga. Cơ quan thống kê liên bang Nga Rosstat đã thừa nhận rằng số người Nga sống
dưới ngưỡng nghèo đã tăng từ 12 triệu người lên 21 triệu người trong quý
1/2022. Vậy hậu quả là gì?
Nguyên liệu
sản xuất thiếu hụt, hàng tiêu dùng tăng giá vì khan hiếm đang dần phổ biến tại
Nga, đang cảnh báo một tương lai ảm đạm cho kinh tế nước này. Chẳng hạn, sau
khi các lệnh trừng phạt làm cản trở hoạt động sản xuất tại nhà máy của Avtotor ở
Kaliningrad, hãng ôtô Nga quyết định tung ra chương trình xổ số miễn phí trúng
các lô đất rộng 4 ha kèm cơ hội mua khoai tây giống để nhân viên có thể tự trồng
trọt lương thực trong “tình hình kinh tế khó khăn”. Trong lĩnh vực công nghiệp
(bao gồm hóa chất, dầu, khí đốt và sản xuất) khối lượng nhập khẩu trung bình
trong 4 tuần giảm 88% so với đầu tháng Hai, theo đơn vị chuyên theo dõi chuỗi
cung ứng FourKites. Khối lượng nhập khẩu liên quan đến tiêu dùng giảm 76%, khiến
người Nga gặp khó khăn trong việc mua hàng. Các bệnh viện bị hạn chế các bộ phận
và vật tư thay thế cho máy lọc máu và máy thở.
Từ khi Nga
xâm lược Ukraine, hàng nghìn công ty nước ngoài đã rút khỏi Nga, khiến nhiều
người Nga lâm vào cảnh thất nghiệp. Vào giữa tháng 5, bộ kinh tế Nga đã dự báo
tỷ lệ thất nghiệp ở nước này sẽ tăng lên mức gần 7% trong năm nay, từ mức dưới
5% của năm ngoái, và sớm nhất phải đến năm 2025 mới có thể quay trở lại mức cũ.
Trong khi đó, lạm phát của Nga không tỷ lệ nghịch với thất nghiệp như nhiều
sinh viên kinh tế Việt Nam "phán" mà nó vẫn ở mức cao, bộ đôi lạm
phát và thất nghiệp tạo nên hiện tượng đình lạm tại Nga. Tuy lạm phát tại Nga
đã dịu đi đôi chút nhưng vẫn đang ở vùng đỉnh của 20 năm do khan hiếm hàng hóa.
Giá thực phẩm ở nước này hiện đã tăng khoảng 20% so với cùng kỳ năm ngoái,
trong khi thu nhập khả dụng thực tế của người dân trong 3 tháng đầu năm nay giảm
1,2% so với cùng kỳ năm ngoái. Đỉnh cao nhất là vào ngày 25/06/2022, Nga vỡ nợ
chủ quyền lần đầu tiên kể từ sau 100 năm khi chính quyền cộng sản tuyên bố
không công nhận các khoản nợ có từ thời Sa Hoàng.
Dòng cuối
tôi muốn lưu ý cho các bạn sinh viên kinh tế: Đừng bao giờ chỉ học mỗi chương
trình kinh tế được dạy tại một trường đại học vì nó phiến diện và không bao
quát toàn bộ vấn đề. Muốn học kinh tế phải tự tìm tài liệu đọc để hiểu bản chất
sự vật hiện tượng hơn là học vẹt để được điểm cao trong các kỳ thi cuối kỳ. Việc
các bạn hiểu sai về lạm phát nó tương tự như các bạn hiểu sai về bản chất của
nhà nước dân chủ vậy. Lưu ý một lần và mãi mãi: Lạm phát tăng không phải lúc
nào cũng xấu, lạm phát tăng chỉ gây hại cho nền kinh tế khi nền kinh tế không
tăng sản lượng lưu thông hàng hóa và lạm phát tăng sẽ có lợi khi khối lượng lưu
thông hàng hóa trong nền kinh tế tăng tương ứng. Khi lạm phát tăng cùng với khả
năng lưu thông hàng hóa trong nền kinh tế thì không chỉ chi phí sản xuất, giá cả
hàng hóa tăng mà thu nhập của người tiêu dùng cũng tăng và vốn của nhà đầu tư
cũng tăng, nền kinh tế trong trường hợp này phát triển để mở rộng quy mô hoạt động.
b. Nga đổi tiền để làm gì?
Việc Nga
xâm chiếm vô cớ Ukraine đã khiến mức độ tín nhiệm của quốc gia này trên thế giới
giảm nghiêm trọng, bằng chứng là trong các cuộc họp cấp cao trên trường quốc tế
thì một là ngoại trưởng Nga bỏ đi hai là ngoại trưởng của các nước bỏ đi khi một
trong hai bên phát biểu quan điểm của mình. Lưu thông tín nhiệm là một dạng lưu
thông trong nền kinh tế nhưng không được đánh giá đo đạt như các loại lưu thông
khác vì đặc tính cơ bản của nó: Tính nhân bản. Điều này giải thích tại sao Mỹ từ
chối mua hàng ở Tân Cương vì Trung Quốc vi phạm nhân quyền hay các nước Châu Âu
cắn răn chấp nhận các biện pháp cấm nhập khẩu dầu của Nga vì các hành động lạm
dụng nhân quyền tại Bucha, Ukraine...và điều này cũng giải thích nốt hành động
mua dầu giá rẻ của Nga mà Trung Quốc đang thực hiện (Ấn Độ là một trường hợp
ngoại lệ đáng xấu hổ của các nước thuộc khối không liên kết, dễ hiểu vì bản chất
văn hóa của Ấn Độ vốn không tôn trọng nhân quyền). Lưu thông tín nhiệm là nền tảng
cho lưu thông tín dụng, Nga chỉ có thể lưu thông tín dụng tại các quốc gia còn
tín nhiệm Nga, thị trường của Nga đã thu hẹp từ bao quát quốc tế xuống cục bộ
vài quốc gia.
Hiện tại
Nga đang dùng dầu mỏ để bảo hộ giá trị đồng tiền do bị thế giới cô lập (trừ những
nước không tôn trọng nhân quyền) và bị ép để trở thành một nền kinh tế tập
trung thì khi lưu thông quốc tế càng nhiều càng làm Nga tốn kém tài nguyên và dẫn
đến suy yếu trong dài hạn. Càng nhiều giao dịch mua bán tài nguyên, Nga sẽ càng
kiệt quệ vì Nga chả được lợi gì khi bán một lượng lớn dầu mỏ mà chỉ thu được về
một sấp giấy lộn không có khả năng lưu thông quốc tế và nguy cơ lạm dụng lưu
thông tiền tệ nội địa. Nhất là khi Nga trở thành nhà cung cấp dầu hàng đầu cho
Trung Quốc thì càng dễ bị Trung Quốc mặc cả để mua được dầu giá rẻ bởi ngoài
Trung Quốc ra thì không quốc gia nào muốn bản thân bị ảnh hưởng bởi mức độ tín
nhiệm thấp của Nga, tránh việc không vay được nợ trong tương lai như Nga. Trong
khi Nga cầm nhiều tiền mà không thể nhập khẩu được những mặt hàng phục vụ cho
lưu thông nội địa thì những pháp nhân còn làm ăn với Nga vẫn có thể dùng số tiền
đóng băng kia đem đổi lấy tài nguyên của Nga.
Vậy nên,
phải hiểu rằng động thái đổi mẫu tiền của Nga là nhằm tăng khả năng chi phối của
chính phủ Nga trong các giao dịch quốc tế và nội địa. Ba lý do có thể kể đến:
Một là muốn giao dịch trực tiếp với Nga bằng
đồng ruble cũ thì phải thông qua chính phủ Nga mà đại diện là hệ thống ngân
hàng của Nga, phải đổi đồng ruble cũ sang đồng ruble mới rồi mới dùng đồng
ruble mới đó để mua hàng hóa và tài nguyên được. Và trong quá trình này sẽ phải
chịu sự chi phối, điều phối của chính phủ Nga.
Hai là khống chế được lượng tiền giấy đang
lưu thông trong chính nước Nga, tránh việc bị các kênh giao dịch ngầm lũng đoạn
thị trường và mệnh giá đồng ruble.
Và ba, cũng là quan trọng nhất. Nó đánh dấu
sự quyết tâm của Nga trong việc cắt đứt hệ thống lưu thông tiền tệ trong nền
kinh tế thị trường để chính thức trở về với nền kinh tế tập trung, giúp chính
phủ chi phối người dân và người dân hoàn toàn lệ thuộc vào chính phủ. Không phải
ngẫu nhiên mà tổng thống Putin kêu gọi các doanh nhân Nga quay về đầu tư cho
chính nước Nga.
Lúc này
thì đồng tiền không còn được lưu thông tự do nữa (không thể mua ngoại tệ, không
thể đem ra nước ngoài để chi tiêu, không thể mua được hàng hóa quốc tế, không
thể chuyển khoản ra nước ngoài...), mà chỉ có thể giao dịch với nơi phát hành
là chính phủ, vậy thì nó sẽ không khác gì tem phiếu, để dần dần thì người dân
có tiền cũng chỉ có thể mua được những gì mà chính phủ cho phép lưu thông trong
nền kinh tế.
Dòng cuối
cùng này là vài kết luận đơn giản: dù Nga có làm điều gì đi chăng nữa thì nền
kinh tế Nga vẫn sẽ tụt hậu và tụt hậu một cách bi đát vì từ chối các giá trị tiến
bộ của loài người. Mặt khác nếu Nga vẫn tiếp tục bán dầu cho Trung Quốc thì vẫn
sẽ luôn ở cửa dưới vì mức độ tín nhiệm của Trung Quốc trong những năm gần đây
tuy có thấp nhưng không đến mức âm vô cùng như Nga và vì thế có tiếng nói hơn
khi mua dầu của Nga, Nga sẽ trở thành cu li để Trung Quốc mặc sức làm lợi từ
nguồn tài nguyên của chính mình vì Nga không hiểu một vấn đề giản dị: Thị trường
nhỏ thì khả năng lưu thông nhỏ và tính công bằng cũng sẽ ít được đảm bảo.
Vài lời
nói vui sau cuối: Luật nhân quả chẳng chừa một ai, trước kia, Stalin nhìn thấy
tiềm năng của cuộc nội chiến quốc - cộng tại Trung Quốc thì đã làm "từ thiện
kiểu Liên Xô" theo thể thức hàng đổi hàng và đương nhiên Liên Xô luôn ở cửa
trên vì các vũ khí mà họ viện trợ cho đảng cộng sản Trung Quốc là các vũ khí của
quân phát xít Đức và Nhật, trong khi giá trị hàng hóa mà Trung Quốc trao đổi cho
Liên Xô luôn lớn hơn những món đồ mà Liên Xô từ thiện cho Trung Quốc. Sau này
khi Trung Quốc cần các món vũ khí mới nhất thì Liên Xô dùng dằng và chỉ chịu viện
trợ khi Trung Quốc chấp nhận ký kết một khoản tín dụng ngoại tệ 300 triệu dolar
(15 tỷ dolar theo thời giá hiện nay) cùng với lời cam kết đẩy lùi các căn cứ
quân sự Mỹ ở Trung Quốc và cũng từ đó nền kinh tế Trung Quốc bị trói chặt vào nền
kinh tế Liên Xô cho tới cuối những năm của thế kỷ trước. Tình thế hiện nay dường
như bị đảo ngược lại khi Trung Quốc đang là một nền kinh tế phát triển mạnh mẽ
trong khi Nga lại là một đế quốc đang suy tàn. Nền kinh tế của Trung Quốc lớn
hơn 6 lần (tính theo sức mua tương đương) so với Nga (30 nghìn tỷ so với 4,365
nghìn tỷ đô-la Mỹ, nguồn: IMF).
Sự lớn mạnh
của Trung Quốc có thể cho Nga nhiều thứ như thị trường tỷ dân, thành phần cho
các hệ thống vũ khí của Nga và đương nhiên cả những thiết bị an ninh mạng
chuyên giám sát người dân Nga... Cái bẫy mà Trung Quốc đặt ra quá hấp dẫn đến mức
đồng nhân dân tệ đang trở thành nguồn dự trữ ngoại hối chủ yếu của Nga (tỷ trọng
dolar giảm một nửa xuống 23% trong năm 2018, trong khi tỷ trọng của đồng nhân
dân tệ tăng từ 3% lên 14%).
Nga không còn là một đối tác bình đẳng nữa mà đang phát triển thành một “nước
chư hầu của Trung Quốc”. Và như lời của cố thủ tướng người Anh Winston
Churchill nói: "Không có bạn bè vĩnh viễn, không có kẻ thù vĩnh viễn. Chỉ
có lợi ích quốc gia là vĩnh viễn". Dù Trung Quốc và Nga tuyên bố với thế
giới là "đôi bạn vàng", "tình bạn không giới hạn"... nhưng
vẫn luôn có giới hạn trên thực tế, Trung Quốc không thích thú việc bị kéo vào
các lệnh trừng phạt của Nga và cũng không muốn giúp Nga né các lệnh trừng phạt,
Trung Quốc hiểu những lệnh trừng cấm vận các chất bán dẫn và những lệnh trừng
phạt thứ cấp tài chính có thể khiến nền kinh tế của nước này lao đao.
Thiên Cầm
(12/7/2022)
No comments:
Post a Comment