Hôm trước
mình mới xem lại trên Youtube 1 video quay lại talk show Midnight talks. Diễn
giả là TS Nguyễn Sĩ Dũng, được giới thiệu Nguyên Phó CN VP QH, từng trong tổ tư
vấn của TTg Nguyễn Tấn Dũng và được người host là TS Nguyễn Anh Tú (GĐ NXB ĐH
Kinh tế Quốc dân) giới thiệu là “chuyên gia hàng đầu về khoa học chính trị,
tham gia soạn thảo luật/hiến pháp”, đại khái là chuyên gia hàng đầu về KHCT của
chế độ ta. Có thể là người rành về thể chế nhất từ trước đến nay do đã từng ở vị
trí tư vấn chính sách cho TTg?
TS trình
bày khoảng 45 phút về vấn đề thể chế, bàn về CON ĐƯỜNG GIÚP VIỆT NAM HÓA RỒNG.
Ông đưa ra mô hình Nhà nước kiến tạo phát triển của các nước/lãnh thổ Đông Bắc
Á (Nhật, Hàn, Đài), ông cho cả TQ và Singapore vào nhóm này.
Mô hình nhà nước Kiến tạo phát triển không phải là
1 khái niệm mới, ông Dũng dùng lại thôi.
Nhà nước kiến tạo phát triển là một
hình thức của chủ nghĩa tư bản nhà nước. Nó được áp dụng ở Đông Bắc Á trong thời chiến tranh lạnh
như là một mô hình chủ nghĩa tư bản trong đó nhà nước đóng vai trò lớn trong việc
định hướng và hỗ trợ nền kinh tế, nhưng nhà nước không kiểm soát nền kinh tế,
không phải kinh tế kế hoạch kiểu CS.
Mô hình
nhà nước nói trên được nhắc tới có sự giống nhau về điều hành kinh tế thôi, chứ
về mô hình thể chế là khác nhau (tổng thống, bán tổng thống, nghị viện, quân chủ
lập hiến…). Mình chỉ không hiểu sao TS Dũng lại nhét luôn mô hình nhà nước
Singapore và TQ vào nhóm này? Rõ ràng nhà nước TQ thì can thiệp vào kinh tế mạnh
hơn Nhật, Hàn, Đài (CS mà), còn Singapore thì can thiệp ít hơn nhiều. Singapore
thì giống Hongkong hơn, con đường phát triển kinh tế rất khác với con rồng kia.
Theo như lý giải của TS Dũng thì ông cho rằng là vì mấy nước này CÓ VĂN HÓA
ĐÔNG BẮC Á. Nói thực là nhận xét như vậy khá là hời hợt, không đi vào bản chất
của mỗi nước và mình vẫn cho rằng mô hình Đông Bắc Á kia chỉ bao gồm 3 con rồng
đó mà thôi. Họ phát triển dựa vào xuất khẩu, ban đầu thì nhà nước bảo hộ thương
mại để tăng cán cân xuất khẩu. Dùng xuất khẩu, chủ yếu là hàng lắp ráp cho phương
Tây, để tăng trưởng kinh tế. Hàn và Đài thì sau khi phát trưởng tương đối rồi
thì dân chủ hóa, trước đó họ vẫn duy trì độc tài.
TQ cũng học
theo 3 con rồng kia, dựa vào xuất khẩu và làm công xưởng cho thế giới để tăng
trưởng kinh tế. Nhưng nhà nước TQ kiểm soát kinh tế nhiều hơn 3 nước kia. Nhưng
TQ còn có doanh nghiệp nhà nước, nhà nước vẫn kiểm soát 1 số ngành, còn 3 nước
kia thì không. Họ có thể can thiệp vào các tập đoàn tư nhân, kiểu Park Chung
Hee ép các Chaebol làm việc này việc khác, chứ họ không để doanh nghiệp nhà nước
trực tiếp làm. Khác nhau rất nhiều đó.
Việt Nam
thực ra lâu nay cũng đang đi theo con đường đó của TQ, tuy không dám nhận công
khai là như vậy. Vì thế, cần nói toẹt ra là Việt Nam đang theo mô hình copy của
TQ, chứ không phải Kiến tạo phát triển của Đông Bắc Á. Vì thể chế CS làm sao mà
đi theo mô hình tư bản kia được, như TS Dũng có nói là “Chúng ta không tự nhảy
qua đầu mình được”. Thực tế về tự do kinh tế, tức là về mức độ kiểm soát của
nhà nước thì Việt Nam con đang nặng hơn TQ. Vì TQ không còn DN Quân đội từ 20
năm rồi, Việt Nam thì vẫn còn. DN QĐ làm việc trong cả lĩnh vực dân sự thì là
quái thai của nền kinh tế.
Tóm lại,
tuy đề xuất mô hình nhà nước Kiến tạo phát triển (đúng ra là của 3 con rồng)
nhưng TS lại gán ghép TQ và Singapore vào đó để né đi việc Việt Nam đang theo
mô hình TQ, là thủ pháp pha loãng hình ảnh TQ vào với hình ảnh 3 con rồng cộng
với Singapore. Ông cũng luôn mồm ca ngợi sự tăng trưởng vượt bậc của TQ và coi
đó là 1 bài học chuẩn mực nhất cho Việt Nam. Lý giải của ông đơn giản chỉ là vì
Việt Nam và các nước kia có sự tương đồng về văn hóa Nho giáo và cộng thêm lý
do dưới đây.
TS Dũng dẫn
ra các trường hợp khác thừa hưởng mô hình thể chế kiểu Anh ở các nước cựu thuộc
địa. Nhưng có nước thành công như Mỹ, Úc, New Zealand, Canada nhưng thất bại ở Ấn
Độ, Philippines, Pakistan và các nước châu Phi (có lẽ ông ám chỉ Zimbabwe?). Lý
do ông đưa ra cũng rất giản đơn là vì: “Các nước đó không có văn hóa tương đồng
với Anh, là nguyên nhân căn bản nhất”. Tức là mô hình nhà nước Điều chỉnh (kiểu
Anh Mỹ, thị trường tự điều tiết, nhà nước ít can thiệp) đã không thành công vì
lý do văn hóa.
TS Dũng
còn cho rằng mô hình nhà nước phúc lợi kiểu Bắc Âu cũng chỉ thành công ở Bắc Âu
và không thành công ở nơi nào khác cũng vì lý do văn hóa. Ông cho rằng văn hóa
Bắc Âu người ta “Biết thế nào là đủ, không cần thật nhiều, người ta làm ra 10 đồng
mà nhà nước thu thuế 8 đồng người ta vẫn chấp nhận”.
Thực ra chả
phải do văn hóa Bắc Âu nó vậy mà do các CP Bắc Âu họ minh bạch, ít tham nhũng
nhất thế giới, nên người dân tin tưởng mà đóng thuế cao. Họ tin rằng tiền thuế
của họ không bị thất thoát, đơn giản vậy thôi. Họ đóng thuế cao để chính họ và
con cháu họ được hưởng phúc lợi cao thôi. Dân Bắc Âu cũng có dân trí cao, tinh
thần tự lực và liêm sỉ cũng cao nên họ mới không ỉ lại ngồi không để hưởng trợ
cấp.
Qua những nhận định trên, mình thấy TS Dũng lấy lý
do chủ yếu (không thấy nhắc thêm lý do nào khác) là văn hóa là rất hời hợt, sơ
sài, không xứng với danh xưng là chuyên
gia hàng đầu về khoa học chính trị và thể chế, với những vị trí đã từng nắm giữ.
Mình cũng
tìm hiểu về lý do 1 số nước theo thể chế dân chủ, cựu thuộc địa Anh, thì lại
giàu mà 1 số nước lại không thành công. Tìm câu trả lời không dễ, không đơn giản
như TS Dũng trình bày. Trước mình đã viết status phân tích lý do tại sao Ấn Độ
và Philippines DC mà vẫn nghèo, đặc biệt là tại sao Zimbabwe cựu thuộc địa của
Anh mà lại siêu nghèo. Ai theo dõi mình lâu chắc đều biết. Lý do tóm tắt lại
cũng không phải vì vấn đề văn hóa mà chủ yếu liên quan tới dân trí của những kẻ nắm quyền. Dân trí ở đây được hiểu là nhận thức
chính trị, kinh tế.
Tại sao có
nước cựu thuộc địa Anh/Mỹ lại giàu mà vẫn có nước nghèo?
Các nước cựu
thuộc địa Anh như Mỹ, Úc, New Zealand, Canada (chính xác ra là có cả cựu thuộc
địa Pháp, do Mỹ và Canada có bang thuộc Pháp) không hoàn toàn thừa hưởng mô
hình thể chế kiểu Anh. Mỹ có mô hình thể chế hoàn toàn khác biệt so với Anh.
Các nước trên, cả Nam Phi nữa, đều là thuộc địa di dân da trắng, khi giành độc lập thì cũng là
dân da trắng cướp chính quyền. Tức là nhóm thực dân ở thuộc địa giành độc lập
khỏi mẫu quốc, chứ không phải dân bản xứ giành độc lập. Người bản xứ vẫn
nằm dưới quyền cai trị của dân da trắng, thực dân cũ. Vì thế về mặt dân trí thì
những người lãnh đạo các xứ này chẳng kém gì dân mẫu quốc cả. Tất nhiên vì cũng
là da trắng nên văn hóa là 1, nhưng chỉ thấy văn hóa tương đồng thì tức là chỉ
thấy cây mà không thấy rừng. Vì văn hóa không thể dùng để điều hành quốc gia.
Kiến thức mới là thứ để điều hành nhà nước được.
Còn các nước
không thành công như Zimbabwe, Ấn Độ, Pakistan, Philippines, Myanmar?
Các nước
này, trừ Zimbabwe, có đặc điểm chung là giành độc lập khá sớm sau khi thế chiến
2 kết thúc, khoảng năm 1947 và chính quyền mới đều do dân bản xứ điều hành. Đa
phần các nước này đều đánh đuổi bằng bạo lực hay áp lực để người da trắng không
còn vai trò gì nữa (bao gồm cả Zimbabwe).
Ấn Độ và
Pakistan và Bangladesh vốn là nước Ấn Độ thời thuộc Anh, khi độc lập thì tách
làm Ấn Độ và Pakistan, rồi sau đó Pakistan tách riêng Bangladesh.
Ấn Độ sau
khi giành độc lập 1 cách ôn hòa từ thực dân Anh thì chạy theo KINH TẾ KẾ HOẠCH
theo mô hình LX. Tương tự vậy với Myanmar. Pakistan và Myanmar 1 thời gian dài
được quản lý bởi độc tài quân sự.
Như vậy là
3 nước tách ra từ Ấn Độ thuộc Anh không hề được kế thừa mô hình thể chế kiểu
Anh như TS Dũng nói. Đặc biệt là Ấn Độ dân chủ nhưng kinh tế kế hoạch dưới thời
gia đình Ghandi nắm quyền và mới chỉ cải cách vào thập niên 90.
Philippines
cũng có độc lập từ Mỹ nhưng nhanh chóng rơi vào nền độc tài của Ferdinand
Marcos gần 3 thập kỷ. Đây là nền độc tài tham nhũng nặng nề, nên kinh tế kiệt
quệ.
Viết cụ thể
nữa thì quá dài. Mọi người có thể tham khảo cuốn Vì sao các quốc gia thất bại? Để biết thêm chi tiết. Lý do thất bại
hay thành công không thể trả lời đơn giản chỉ là do văn hóa. Về đại thể, các nước
cựu thuộc địa không thành công đều do dân bản xứ nắm quyền, họ đánh đuổi thực
dân và ngả theo cánh tả (kinh tế kế hoạch) hoặc theo CS hay độc tài, điểm chung
là thiếu tự do kinh tế do độc tài hoặc kinh tế kế hoạch.
Ba nước
con rồng kia có 1 con đường khác, Nhật chưa từng là thuộc địa, nhưng 2 nước kia
lại là thuộc địa của Nhật. Nên thực tế là Nhật giữ vai trò anh cả trong 3 con rồng
Đông Bắc Á do trước thế chiến Nhật đã là cường quốc do cải cách thế chế theo mô
hình Anh, Mỹ. Vì thế nên giai đoạn hậu chiến họ nhanh chóng hóa rồng và đi sau
là Hàn, Đài. Hàn, Đài cũng từng có chính quyền độc tài, nhưng họ vẫn duy trì được
kinh tế tự do. Vì vậy, mô hình chính xác nhất để có tăng trưởng của họ là duy
trì được kinh tế tự do, nhà nước chỉ tác động 1 phần, như định hướng các tập
đoàn tư nhân nhưng không làm thay. Văn hóa Nho giáo tương đồng chỉ là sự trùng
hợp ngẫu nhiên. Việt Nam và TQ cũng có văn hóa Nho giáo nhưng đã đi theo đường
khác, chỉ hơi na ná mô hình của 3 nước kia mà thôi.
Còn sự
thành công của Singapore rất khác, họ không đánh đuổi thực dân Anh mà đấu tranh
ôn hòa để có thêm 20 năm học hỏi từ người Anh, tới thập kỷ 60 mới có độc lập.
Tuy cũng do dân bản xứ nắm quyền nhưng vì không có đào tận gốc trốc tận rễ nên
họ vẫn kế thừa được mô hình thể chế và kinh tế của Anh (kinh tế tự do). Đó là
lý do Singapore và Malaysia khá thành công. Singapore có thuận lợi hơn Malaysia
vì có logistics (cảng biển) nên có thị trường Tài chính quốc tế phát triển (ăn
theo cảng quốc tế). Người Hoa chiếm đa số cũng là thuận lợi về dân trí (kinh tế)
của Singapore.
Cũng khá
buồn cười khi TS Dũng cho rằng TTg Phúc và TTg Chính đang đi theo mô hình kinh
tế kiểu phương Tây chứ không phải mô hình Kiến tạo phát triển (nay đã lỗi thời).
Thực ra là các Ttg Việt Nam vẫn đang lẽo đẽo chạy theo mô
hình TQ. Tất nhiên có phần cố gắng tự do hóa thêm nền kinh tế nhưng
vẫn thua xa TQ chứ so sao được với phương Tây.
Tổng kết lại,
TS Dũng có một phần trình bày không dài nhưng còn chứa rất nhiều vấn đề gây
tranh cãi với những lý giải gượng ép và hời hợt về văn hóa và Nho giáo, để đề
xuất 1 mô hình nhà nước kiểu Đông Bắc Á “mở rộng”, lẽ ra cần nói thẳng
là mô hình TQ
thì dễ hình dung hơn là tung hỏa mù là Nhà nước kiến tạo phát triển kiểu Tư bản
nhà nước kiểm soát 1 phần nền kinh tế, hiện này cũng không còn được áp dụng ở
chính 3 nước trên.
Mô hình TQ hiện nay đúng là phù hợp với
Việt Nam nhất, lý do chính
là để duy trì được chế độ chứ chả phải do văn hóa tương đồng mà là thể chế
tương đồng. TS Dũng
có 1 số phát biểu cấp tiến như phê phán tham nhũng, phê phán Việt Nam là khó chống
tham nhũng do cơ quan tư pháp không độc lập. Nhưng nhìn chung là ông cũng không
thể tự nhảy qua đầu mình được, vì cái gốc là quan chức nhà nước, cũng chỉ có thể
nhận thức nửa chừng xuân như vậy, sẽ rơi vào vòng luẩn quẩn giữa duy trì chế độ
và phát triển kinh tế, chống tham nhũng.
.
Hình : https://www.facebook.com/photo?fbid=2380829602069989&set=a.109210389231933
.
No comments:
Post a Comment