“Người đã
đi rồi, chữ còn để lại”
https://tiasang.com.vn/van-hoa/nguoi-da-di-roi-chu-con-de-lai/
Đời
người thì ngắn nhưng đời sách thì dài. Bởi khi đặt cái dài rộng thâm sâu của
con chữ vào giữa cái hạn định khuôn khổ của trang sách, con chữ đã được chắp
cánh để sống một cuộc đời khác, và bao hàm thêm những ý nghĩa khác.
https://cdn.tiasang.com.vn/tiasang-media/2025/06/Chieu-tho-Dang-Dinh-Hung.png
Từ
trái qua phải: họa sĩ Dương Bích Liên, nhà thơ Đặng Đình Hưng, nhà thơ Trần Dần
và họa sĩ Nguyễn Sáng tại nhà của nhà thơ Đặng Đình Hưng năm 1988. Ảnh: Hà Tường
Mỗi
cuốn sách đều có một số phận riêng, cũng như con người. Có biết bao thứ vô
thanh nằm giữa những chữ cái, dấu câu, từ ngữ, đoạn văn, chương phần, giữa những
chữ những từ bị gạch xóa và những chữ những từ được thêm vào, giữa các khoảng
trống và khuôn chữ, bìa sách, gáy sách… Đó là một chuỗi những công việc “con mọn”
âm thầm và gặp không ít trở ngại nhưng không được phép vội, nản, mất kiên nhẫn
hoặc buông xuôi cho qua, nhất là khi mình không làm sách cho mình mà cho bạn
mình. Đó là những gì mà họa sĩ Lê Thiết Cương, người sáng lập Gallery 39, nếm
trải, chiêm nghiệm trong vòng gần hai thập niên trở lại đây, khi tự đứng ra tập
hợp, tổ chức bản thảo rồi in sách “cho những người tôi đã rất thân thiết”, như
chia sẻ của anh với Tia Sáng.
Hai
thập niên ấy, dù rất bận rộn với những ý tưởng, dự án hội họa riêng chung,
nhưng anh vẫn dành một góc, một khoảng không gian độc lập để dành cho những người
bạn của mình, phần lớn là bạn vong niên, để nghĩ về họ và tác phẩm của họ. Việc
dấn thêm một bước, làm sách cho bạn không chỉ đòi hỏi những kỹ năng khác với tư
duy hình khối, đường nét, không gian, màu sắc… ở người họa sĩ mà còn buộc anh
phải ẩn mình đi, nén cái tôi xuống. Hiểu bạn, trân quý bạn như thế, ở đời được
mấy người!
Tất
cả những điều đó đều bắt nguồn từ những cuộc chơi thơ, chiếu thơ.
*****
Gần
hai thập niên làm sách của họa sĩ Lê Thiết Cương bắt nguồn từ một mối quan hệ đặc
biệt trong những năm 1980 và mối quan hệ ấy đưa anh bước vào một salon nghệ thuật
gần như “vô tiền khoáng hậu” tại Việt Nam, cho đến tận bây giờ.
Đó
là không gian văn hóa của nhà thơ Đặng Đình Hưng và bạn bè ông, một vòng tròn kết
nối mà như cách nói của Lê Thiết Cương “toàn những ông kễnh” thi ca và hội họa:
Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm, Nguyễn Tư Nghiêm, Dương Bích Liên, Trần Lưu Hậu… Mỗi
người đều có một vị trí nhất định trên văn đàn nghệ thuật Việt Nam, và giờ đây,
với hậu thế, câu chuyện cuộc đời họ và những khổ nạn, thăng trầm nghệ thuật của
họ giữa lúc sung sức sáng tạo không còn gì là bí mật cấm kị. “Vào những năm
1960, một sự kiện văn học đã đẩy tôi vào một tình trạng hết sức trầm luân về vật
chất cũng như tinh thần” – chuyện của ‘tôi’, Lê Đạt, cũng là chuyện của những
người “đồng bệnh tương lân” khiến họ “Một đời trọn nghi can tội chữ” (Mở,
Lê Đạt). Qua con mắt của nhà văn Nguyên Ngọc “anh Lê Đạt, một trong những nhân
vật trung tâm của sự kiện đó… Trần Dần, như có người gọi, là ‘thủ lĩnh trong
bóng tối’. Hoàng Cầm thì rất tài năng và cũng rất bản năng. Thậm chí đấy là nghệ
sĩ lớn mà yếu đuối”.
Nếu “họa
là thơ vô thanh, và thơ là họa hữu thanh” như cách nói của
nhà triết học Hy
Lạp Plutarch thì họa sĩ Lê Thiết Cương đã may m
điểm giao nghệ
thuật thi và họa, vô thanh và hữu thanh, nơi mở ra
cho anh vô số con đường mới.
“Sự
kiện văn học” Nhân văn Giai phẩm, hay “bi kịch văn chương” như cách nói của gia
đình nhà thơ Trần Dần (trên báo Đại đoàn kết), đã loại nhiều nhà
thơ, nhà văn khỏi dòng chảy văn nghệ chính thống, nghĩa là không được xuất bản
sáng tác của mình, bị chỉnh huấn, kỷ luật và mất việc làm. Khủng khiếp hơn nữa,
trở nên cô đơn, lạc lõng giữa chính nơi mình sống. “Làm sao có thể tưởng tượng
được mình đang là người tử tế thế này, một buổi sáng thức dậy, bỗng nhiên trở
thành thằng hủi, bạn bè hôm qua tay bắt mặt mừng, hôm nay nhìn thấy mình đi bên
này là phải đổi sang hè bên kia…”. Nỗi đau đớn trầm uất của nhà thơ Lê Đạt cũng
là nỗi đau đớn trầm uất của những bạn văn cùng cảnh ngộ, khi bàng hoàng nhận ra
“Tôi như người xa xứ ngay trên quê hương mình”.
Cuộc
sống của họ ngày một khó khăn bởi những năm hậu chiến và trước Đổi mới cũng là
những năm khủng hoảng lương thực (GS. Trần Đức Viên, nguyên Hiệu trưởng Học viện
Nông nghiệp Việt Nam). Ở thành phố, đâu đâu cũng trong tình trạng khan hiếm
lương thực thực phẩm và các loại hàng hóa do tình trạng “ngăn sông, cấm chợ”,
không được phép mang hàng hóa từ địa phương này sang địa phương khác. Hầu hết
các hàng hóa tiêu dùng thiết yếu cho cuộc sống hằng ngày như gạo, thịt, nước mắm,
đường… đều phải phân phối theo chế độ tem phiếu nhưng được hưởng chế độ này là
cán bộ, công nhân viên làm việc trong các cơ quan, nhà máy, xí nghiệp nhà nước.
Những người trong vụ Nhân văn Giai phẩm hoặc không còn trong biên chế nhà nước,
không được hưởng chế độ tem phiếu, phải tự kiếm sống hoặc chỉ được hưởng một
khoản trợ cấp không đáng kể, nên sống rất chật vật.
“…Cuộc
sống hằng ngày
nhỏ
nhen
tàn
bạo
Rác
rưởi gia đình
miếng
cơm
manh
áo
Tàn
phá con người…”
(Cha
tôi, Lê Đạt)
Trong
cảnh khổ sở quay quắt đó, nhà thơ Lê Đạt, Trần Dần… xin được đến thư viện mượn
tài liệu ngoại văn, bởi theo nhà thơ Lê Đạt “một là kiếm sống, thư viện có nhiều
tài liệu có thể dịch sinh nhai, hai là bổ sung vốn kiến thức mà tôi cảm thấy
còn nhẹ ký cũng như thiếu cập nhật vì đã gần 20 năm do bận kháng chiến và hoạn
nạn, tôi không có điều kiện trau dồi”1. Đó cũng là cách để nhà thơ Đặng
Đình Hưng có thu nhập. Những người bạn của ông như nhạc sĩ Huy Du, Trọng Bằng,
Đỗ Nhuận, người là Giám đốc Nhạc viện, Chủ tịch Hội Nhạc sĩ, Bí thư Đảng Đoàn Hội
Nhạc sĩ… đã nghĩ ra cái mẹo để ‘cứu bạn’. “Rất nhiều tài liệu tiếng Anh, tiếng
Nga, tiếng Pháp của Nhạc viện đều được đưa cho ông Hưng dịch vì ông là cao thủ.
Từ trước năm 1954, ông ấy đã đi dịch cho phái đoàn Mỹ ở Liên hiệp các tổ chức hữu
nghị Việt Nam ở phố Quán Thánh rồi”, họa sĩ Lê Thiết Cương kể.
https://cdn.tiasang.com.vn/tiasang-media/2025/06/Le-Thiet-Cuong-lam-sach-anh-7.jpg
Các
bìa sách họa sĩ Lê Thiết Cương làm cho bạn bè. Ảnh: Lê Thiết Cương.
Giữa
bầu không khí đầy u buồn uẩn ức đó, một sự kiện văn hóa chợt đến như một phép cứu
rỗi và trở thành điểm khởi đầu cho salon nghệ thuật Đặng Đình Hưng: tháng 10
năm 1980, Đặng Thái Sơn, con trai nhà thơ Đặng Đình Hưng và nghệ sĩ piano Thái
Thị Liên, giành giải nhất cuộc thi Chopin, một kỳ tích của nghệ sĩ châu Á đầu
tiên và người Việt Nam đầu tiên. Năm 2013, nghệ sĩ Đặng Thái Sơn kể lại “Năm
1970, mẹ tôi được đến cuộc thi quốc tế Chopin tại Warsaw với tư cách khách mời,
chỉ để quan sát. Và bà đã mang về từ cuộc thi toàn bộ bản nhạc và bản thu âm
các tác phẩm của Chopin. Bản thu âm đầu tiên tôi được nghe trong đời là bản
concerto cung Mi thứ của Chopin do Martha Argerich chơi. Cho đến lúc đó, tôi
chưa hề được nghe bất kỳ tác phẩm nào của Bach, Mozart, hay Beethoven – duy nhất
chỉ có Chopin… Hằng đêm, cùng với mẹ, tôi im lặng đọc các bản nhạc của Chopin
dưới ánh nến. Mẹ tôi chơi cho tôi nghe một vài giai điệu ngắn – những bản
nocturne và mazurka. Tôi thấy tất cả đều thật đẹp đẽ và tôi yêu thứ âm nhạc
này. Tôi tập nhạc của ông ngày đêm, và tôi cảm nhận âm nhạc của Chopin chảy
trong máu mình từ đó”2.
Dẫu
biết “sông có khúc, người có lúc” nhưng đó thực sự là một thay đổi ngoạn mục.
Cho đến khoảng năm 1983, nhà thơ Đặng Đình Hưng được Thủ tướng Phạm Văn Đồng tặng
căn hộ hai buồng ở khu tập thể Giảng Võ, kèm một cái điện thoại. Căn hộ đó dạng
tiêu chuẩn cán bộ, liền tường nhà giáo sư violin Bích Ngọc và diễn viên điện ảnh
Trà Giang. Chỉ có thể thấy được giá trị của món quà này khi đặt nó vào bối cảnh
xã hội bấy giờ, “một căn hộ có thể được phân cho vài ba gia đình, thậm chí có
những căn tám, chín người thuộc ba, bốn thế hệ khác nhau cùng sinh sống”, như
nhận xét của PGS. Nguyễn Văn Huy, nguyên Giám đốc Bảo tàng Dân tộc học. “Hồi
đó, nó là kinh khủng. Tôi nhớ cạnh điện thoại có cuốn sổ bé tí với chiếc bút
chì ghi chỉ khoảng dăm số điện thoại, bởi vì Hà Nội khi ấy mấy ai có điện thoại.
Những người bạn ông hay giao du như Lê Đạt, Hoàng Cầm, Trần Dần thì làm gì có
điện thoại. Thỉnh thoảng có việc gì đó thì tiếng chuông mới reo lên, ví dụ anh
Sơn về thì thư ký Thủ tướng Phạm Văn Đồng gọi điện thoại mời hai bố con lên ăn
cơm gia đình thân mật”, họa sĩ Lê Thiết Cương kể.
https://cdn.tiasang.com.vn/tiasang-media/2025/06/BM21-96a-2048x1358.jpg
Chiếu
thơ Đặng Đình Hưng đã góp phần gìn giữ cho thi ca Việt Nam một mạch ngầm sáng tạo
của những tiếng thơ cách tân. Tranh Lê Thiết Cương
Ngoài
một mái nhà, nhà thơ Đặng Đình Hưng bắt đầu có một nguồn “viện trợ” có phần
tươm tất từ con trai. “Mỗi lần như vậy, anh Sơn đều gọi thông báo trước. Bác
Hưng giao cho tôi đi nhận thùng hàng, tôi nhớ có lần thùng chứa hai xe máy
Honda đỏ, khoảng trống còn lại trong thùng hàng là một tí sơn dầu Nga cho bố vẽ,
một vài miếng toan, túi xà phòng bột to năm cân một”, họa sĩ Lê Thiết Cương kể.
“Bác Hưng bảo bán một chiếc xe máy ngay cửa hàng miễn thuế lấy tiền uống rượu,
tiêu pha, còn lại, tôi chia túi xà phòng bột vào từng túi giấy báo, mỗi túi nửa
cân. Tôi đèo xe đạp mang đến cho từng địa chỉ, ví dụ như các bác Trần Lưu Hậu,
Dương Tường… mỗi người nửa cân. Quý lắm, quà anh Sơn gửi”.
Trong
chốn riêng đó, nhà thơ Đặng Đình Hưng thường tổ chức những cuộc tụ họp bạn bè,
những “chiếu thơ”, từ năm 1984 đến khi ông qua đời vào tháng 12 năm 1990. Các
cuộc rượu thơ ấy, ngoài các nhà thơ, còn có cả các họa sĩ, thiếu Nguyễn Sáng là
đủ bộ tứ “Liên, Nghiêm, Sáng, Phái”, trong đó “ông Liên nhà ở dốc Bà Triệu,
sang trọng từ bé, thường đi xe đạp tới”.
Việc
mời mọc bạn bè, ông trông cậy cả vào họa sĩ Lê Thiết Cương. “Vào thời đó, thứ
nhất là điện thoại không có, thứ hai là không có xe máy, cũng không mấy có xe đạp,
nên ‘điện thoại’ toàn là Lê Thiết Cương”. Anh đi đến phố Lãn Ông mời nhà thơ Lê
Đạt, tới phố Lý Quốc Sư mời nhà thơ Hoàng Cầm, tới phố Vũ Lợi mời nhà thơ Trần
Dần…, cứ thế từng người một. “Thường tôi đi đến phố Lãn Ông, truyền cái tin đó
cho cụ Đạt. Cụ thường hỏi mấy giờ, chiều thì cụ bảo ‘tao tự lên’ còn nếu là
ngay bây giờ thì tôi đi vòng vèo ra cửa chợ Đồng Xuân, ở đó có rất nhiều xích
lô, dong một cái về, đặt cụ Đạt lên đó, sau đó đưa về Giảng Võ rồi mời các cụ
ăn cơm, uống rượu, đọc thơ. Xong rồi lại xích lô, đi ra chỗ triển lãm Giảng Võ
gọi xích lô để đưa cụ Đạt về”. Nhà thơ Hoàng Cầm lúc đó tinh thần hay trầm uất,
sức khỏe yếu, uống rượu dễ bị say nên nhà thơ Đặng Đình Hưng dặn ‘loong toong’
Lê Thiết Cương “cẩn thận dìu ông xuống nhà. Riêng với ông Cầm, con luôn nhớ là
xích lô khứ hồi” – “có nghĩa đưa ông Cầm về đến Giảng Võ, dìu ông lên trên gác,
sau đó xuống đưa tiền cho ông xích lô hẹn hai tiếng sau đến đón”, họa sĩ Lê Thiết
Cương giải thích.
HÌNH
: https://cdn.tiasang.com.vn/tiasang-media/2025/06/Le-Thiet-Cuong-lam-sach-anh-4.png
Tuy
diễn ra trong bối cảnh chồng lấn sự thiếu thốn vật chất “áo cơm ghì sát đất”,
cái bóng tỏa “nghi can tội chữ” nhưng các cuộc tụ họp này hầu hết là dành cho
thơ, những dòng thơ mới sáng tác nóng hổi tuôn trào như nham thạch giữa những kẻ
“cùng hội cùng thuyền”. “Các cụ tụ tập toàn nói chuyện văn nghệ và chủ đề trong
các cuộc rượu là thi ca, mà chủ yếu là nói bằng tiếng Pháp”, họa sĩ Lê Thiết
Cương nhớ lại. Thi thoảng mới thấy chen vào đó một vài câu chuyện đời thường cá
nhân, “như bác Trần Dần tâm sự về con trai (Trần Trọng Vũ) muốn được đi học ở
nước ngoài nhưng vì lý lịch của bố nên rất khó khăn. Vậy là phải nhờ bạn thân của
ông là đạo diễn điện ảnh Trần Vũ nói với trên bộ…”. Cuối cùng, chính đạo diễn
Trần Vũ bảo lãnh cho Trần Trọng Vũ đi Pháp và bảo lãnh cho Trần Trọng Văn, anh
Vũ, được học quay phim ở trường Sân khấu điện ảnh.
Có
lẽ, hậu thế sẽ vĩnh viễn không hiểu được rành rẽ điều gì khiến những người thơ ấy,
trong những ngày khốn khó của đời mình, vẫn giữ được mạch nguồn sáng tạo, dẫu vẫn
còn lời chia sẻ của nhà thơ Lê Đạt “Tôi quyết tâm phải vui vẻ để vượt qua, để
viết vì tôi biết một khi mình còn viết được là mình còn sống được mà sống được
là sẽ có ngày mình chiến thắng”. Không rõ cái tấm tình chung thủy với thi ca đã
trở thành nguồn sống cho những người thơ ấy hay chính họ âm thầm tự gặm mòn thịt
xương mình để nuôi thi ca. Nhiều thi phẩm đã được ra đời trong thời kỳ này. Và
khi không được xuất bản thơ thì họ đọc thơ cho nhau nghe. “Tôi còn nhớ những
bài thơ mới làm của ông Cầm toàn là đọc ở nhà ông Hưng. Có lúc tôi xin ông Cầm
một hai câu thơ, thế là ông ấy chép một đoạn, mình xin về cất đi. Có những bài
thơ của ông Cầm, tôi thuộc từ hồi đó”, họa sĩ Lê Thiết Cương trầm ngâm trở về
những ngày yêu ngay câu thơ còn tươi nguyên trong giọng đọc Hoàng Cầm:
“Ta
như con bê vàng lạc dáng chiều xanh
đi mãi tìm sim chẳng chín”
Chiếu
thơ độc nhất vô nhị ấy, có lẽ là nơi cứu rỗi cho những nhà thơ bị đặt bên lề.
Thật kỳ lạ, trong rủi có may, khi không còn được sống ở một khuôn khổ định chế
của nhà nước (formal space), họ đã cùng thảo luận và tạo dựng một không gian
sáng tạo không chính thức của riêng mình (informal space). Sự chia sẻ không
gian cá nhân với bạn bè của nhà thơ Đặng Đình Hưng không chỉ góp phần giúp những
người thơ cùng nhau vượt qua nỗi cô đơn, lạc lõng do bị cô lập với xã hội mà
còn thiết lập được một mạng lưới tương tác, gắn kết để trao cho nhau những phẩm
vật thi ca. Nhờ vậy, thi ca đã được xuất bản theo một hình thức đặc biệt, giữa
những người “đói sân chơi, hành khất chân trời” (Lê Đạt).
Cái
đẹp thường mong manh, salon nghệ thuật của nhà thơ Đặng Đình Hưng cũng vậy, chỉ
tồn tại trong chừng năm, sáu năm cho đến khi ông qua đời vào tháng 12 năm 1990.
Có thể nói rằng, dẫu quãng thời gian ấy quá ngắn ngủi với đời người thì salon ấy
vẫn góp phần gìn giữ cho thi ca Việt Nam một mạch ngầm sáng tạo của những tiếng
thơ cách tân.
Và
nó cũng gieo thêm một hạt mầm nhân duyên mà mấy chục năm sau bừng nở thành các
trang sách bạn bè.
*****
Ký
ức trơn trượt theo các nấc thời gian. Năm 2007, nhóm nhà thơ “chiếu nhất” của
salon Đặng Đình Hưng là Lê Đạt, Trần Dần, Hoàng Cầm cùng được trao giải thưởng
Nhà nước về Văn học nghệ thuật. Trước đó, người bạn vong niên ngày nào đã trở
thành họa sĩ với bút pháp theo phong cách Tối giản (Minimalism) và có triển lãm
ở nước ngoài (năm 1995). “Cổ nhân có một câu rất hay là mình được ngồi với người
tài thì bằng đọc vạn trang sách. Tôi được tiếp xúc với các cụ nhiều nên thấy được
giá trị của tri thức và văn hóa. Nếu không được gặp các cụ thì tôi không được
như ngày hôm nay”, họa sĩ Lê Thiết Cương chia sẻ về mối nhân duyên vô tiền
khoáng hậu trong đời mình.
Họa sĩ tối
giản yêu thơ làm sách cũng tạo ra cái hay và cái khác biệt
ngay từ bìa
sách. Tối giản nghĩa là quên đi cái đao to búa lớn, cũng
quên đi cái nổi
bật khiêu khích trình diễn ở các bìa sách.
Nếu
“họa là thơ vô thanh, và thơ là họa hữu thanh” như cách nói của nhà triết học
Hy Lạp Plutarch thì họa sĩ Lê Thiết Cương đã may mắn ở điểm giao nghệ thuật thi
và họa, vô thanh và hữu thanh, nơi mở ra cho anh vô số con đường mới. Chuyện
làm sách, do đó, đến một cách ngẫu nhiên không định trước. Trước năm 2000, “cuốn
đầu tiên tôi làm, mỏng thôi, một cuốn thơ của Chu Điền, một ông bạn thân của
ông Hưng, học trường Y thời Tây, sau làm ở Bộ Y tế”, họa sĩ Lê Thiết Cương kể.
Lúc ngồi “chiếu ba”, lang bang vòng ngoài, anh nghe lỏm thơ thấy “thơ ông ấy rất
lạ, nghe cái thuộc ngay. Ông Hưng cũng rất thích những thi liệu Việt Nam từ những
chi tiết rất dung dị trong thơ Chu Điền:
“Anh
trót dại làm nải chuối tiêu tháng rét
Để
mùa cốm thơm hồng ngọt em qua
Anh
trót dại làm chiếc chổi tre bung lạt
Để
vườn em lá mục cỏ xanh rì”.
Họa
sĩ Lê Thiết Cương đã bỏ công tập hợp các bài thơ của Chu Điền. Bản thảo sau đó
được anh đưa cho cháu ruột của ông xem trước khi gửi đi nhà in.
https://cdn.tiasang.com.vn/tiasang-media/2025/06/Le-Thiet-Cuong-lam-sach-anh-1.jpg
Nhà
thơ Đặng Đình Hưng và họa sĩ Lê Thiết Cương tại nhà ông Hưng (tập thể C4 Giảng
Võ) năm 1984.
Cuốn
thơ đầu tiên ấy đã mở đường cho họa sĩ Lê Thiết Cương đến với việc làm sách.
Không phải vồ vập “bắt quàng làm họ” những người nổi tiếng mà là làm sách cho
những người mình biết, mình yêu quý, có nhiều kỷ niệm. “Tiền in sách là tiền
bán tranh, thôi thì thay vì uống rượu, mình dành tiền in sách cho bạn”, anh
nói.
Gần
20 cuốn sách anh làm cho bạn bè, cuốn nào cũng là kỷ niệm, trang nào cũng đầy
ký ức.
“Tôi
đi xa ra phố nửa giờ
Tìm
một cái ao ngồi giặt áo cả ngày”
Những
câu thơ Đặng Đình Hưng ghim vào não từ ngày ấy, cả phần chữ lẫn phần họa. Bởi
ông thường có thói quen vẽ thơ trên toan, một cách chơi thơ rất lạ. “Anh Sơn gửi
toan gửi sơn về cho bố. Tôi là người quét nền, đưa cho ông chấm cái bút vào sơn
dầu rồi viết câu thơ xong rồi tôi đóng đinh, treo lên tường cho ông”, họa sĩ Lê
Thiết Cương kể. Thông thường, anh trải toan trước mặt nhà thơ, ông thường chọn
một vài màu mình thích, rồi nhờ pha màu, quét nền. Cao hứng làm hớp rượu, chấm
vào bảng màu, phết bút lên mặt toan câu thơ “Tôi đi xa ra phố nửa giờ…”.
https://cdn.tiasang.com.vn/tiasang-media/2025/06/Le-Thiet-Cuong-lam-sach-anh-3.jpg
Cuốn
“Di cảo Đặng Đình Hưng” ra mắt vào năm 2024
Cuộc
hành trình đơn độc theo một con đường khác của nhà thơ Đặng Đình Hưng đã gợi
lên ở họa sĩ Lê Thiết Cương rất nhiều suy ngẫm. “Mọi cuộc đi đều làm phấn
khích, nhất là phập phồng hy vọng được tới một bến lạ, trong một chiều nâu
αlfa, bằng những bước chân Mêta… Chữ là vật chất – hiện thực, nhưng cuộc chơi với
từng chữ cái đã là một hành trình đầy thử thách”3. Đó là lý do mà
sau khi cùng với các bậc đàn anh Hoàng Hưng, Đặng Hữu Phúc và con trai nhà thơ,
Đặng Thái Sơn xuất bản “Bến lạ” vào cuối năm 2021, Lê Thiết Cương nghĩ về một tập
thơ khác mà trong con mắt của anh, thực sự mở ra cho hậu thế thấy cuộc chơi
thơ, họa chữ của Đặng Đình Hưng. “Sau khi ‘Bến lạ’ ra đời, một vài người bạn
thân có nói rằng ‘trong ngăn kéo gia đình tôi, bố tôi có thơ của Đặng Đình Hưng
tặng, bây giờ tôi đưa cho Cương, biết chỉ có Cương mới có thể làm sách về những
bài thơ chưa được ai biết đó được ra đời’. Do đó, tôi tự bỏ công sức, bỏ tiền
làm cuốn ‘Di cảo Đặng Đình Hưng’”, Lê Thiết Cương kể.
Với
một tấm tình với nhà thơ Đặng Đình Hưng, anh chọn một cách thể hiện mới cho cuốn
thơ này, “nguyên văn ông Hưng bố cục chữ như thế nào thì tôi đưa vào bản thảo
như vậy”. Quá trình chuẩn bị cho cuốn Di cảo lấy mất của Lê Thiết Cương hai năm
bởi nỗi băn khoăn là có cần hỏi lại nghệ sĩ Đặng Thái Sơn không? Sau khi nhà
thơ mất, GS. Đặng Đình Áng, em ruột của ông, quản lý toàn bộ di cảo của ông, và
sau khi ông Áng ốm nặng rồi qua đời thì quyền đó chuyển sang Đặng Thái Sơn.
Nhưng những bài thơ vô tình mà hữu ý rơi vào tay Lê Thiết Cương đều không có
trong tập thơ của gia đình. Cuối cùng, Lê Thiết Cương quyết định gửi đi in ở
NXB Hội Nhà văn, sách dày 250 trang in trên giấy đẹp kèm theo những thủ bút của
nhà thơ và bạn bè ông.
Mỗi
cuốn sách là một thao thức cùng con chữ. Với những người làm sách, ai cũng biết
rằng, có trong tay chất liệu quý là những trang bản thảo hay đã là điều kiện cần
nhưng để phô diễn, khơi gợi được vẻ đẹp, chiều sâu nội tâm của con chữ lại cần
nhiều đến điều kiện đủ là mạch tư duy của người tập hợp bản thảo và tổ chức bản
thảo. Tư duy ấy, cách nhìn nhận ấy lại phải đủ mới để có được một cấu trúc bản
thảo khác biệt so với vô số cuốn sách đã xuất bản của cùng tác giả. “Năm 2023
là năm kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà thơ Hoàng Cầm. Gia đình ông đã cùng với
nhà thơ Hoàng Hưng tái bản cuốn ‘Về Kinh Bắc’. Tôi cũng muốn làm điều gì đó với
ông nhưng không thể làm một cuốn y hệt được. Vì vậy, tôi nghĩ mình cần làm một
cuốn Hoàng Cầm tinh tuyển 100 bài, toàn bài mình thích”, Lê Thiết Cương nói. “Cấu
trúc cuốn sách tôi tự làm. Với tôi đó là việc dễ bởi tôi mê thơ ông Cầm, nó giống
một thứ dân gian hiện đại, ví dụ ‘ta con bê vàng lạc dáng chiều xanh’ thì ai
cũng biết nhưng khi thành thơ thì nó rất hiện đại, ‘đi mãi tìm sim chẳng
chín’”.
https://cdn.tiasang.com.vn/tiasang-media/2025/06/Le-Thiet-Cuong-lam-sach-anh-5.jpg
Thời
Hoa Đỏ -
Thanh Tùng
Họa
sĩ tối giản yêu thơ làm sách cũng tạo ra cái hay và cái khác biệt ngay từ bìa
sách. Tối giản nghĩa là quên đi cái đao to búa lớn, cũng quên đi cái nổi bật
khiêu khích trình diễn ở các bìa sách. Chỉ thấp thoáng những nét vẽ co rút gần
về không, thoạt nhìn thì rời rạc, lặn xuống, chìm khuất đi song hóa ra lại nói
được nhiều, lay động được nhiều, để rồi cảm được một thứ tình nằm sâu ở bên
trong nhưng hóa ra lại vô cùng mãnh liệt. “Cuốn tôi làm cho nhà thơ Thanh Tùng
cũng có nét đặc biệt bởi tôi suy nghĩ rất lung. Tên tuổi Thanh Tùng gắn với bài
thơ ‘Thời hoa đỏ’ thì hẳn cái bìa cũng cần toát lên được điều đó”. Vậy là anh
đi Sài Gòn, ghé thăm cụ Thanh Tùng và tặng cụ một lọ gốm anh làm, trên đó có viết
một câu thơ trong bài “Thời hoa đỏ” rồi nói ‘Cháu chuẩn bị làm cho chú cuốn
thơ’. Nhà thơ lấy bút chép một đoạn “Thời hoa đỏ” tặng họa sĩ Lê Thiết Cương.
Trang thơ đó sau được họa sĩ scan lại và đưa lên trang bìa sách…
Những
năm đọc sách, làm sách song hành với họa đem lại cho Lê Thiết Cương một sự cẩn
trọng, tưởng chừng không ăn nhập với tư chất nghệ sĩ thường thiên về bốc đồng
ngẫu hứng. “Có một buổi ông Hoàng Cầm lên Giảng Võ một mình, nói được cho phép
in thơ và đi đọc thơ. Lúc đó, ông Hưng nói đùa ‘cậu phải chú ý kỹ khâu biên tập,
kẻo họ ‘bôi’ Nhân văn. Nói đùa nhưng sau thành thật, do sự nhếch nhác trong
biên tập, sửa morasse (chính tả) mà sách được in nhưng sai be bét, đầy lỗi
chính tả”, họa sĩ Lê Thiết Cương kể lại lý do vì sao mà anh rèn được tính cẩn
trọng trong làm sách.
Cái
cẩn trọng ấy, không ngờ, đem lại cho anh cơ hội có được một bản thảo độc nhất
vô nhị của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp, người mà nhà văn Nguyên Ngọc từng tự hỏi
“hay anh thuộc một loài người khác, ở đâu đó không biết, cải trang, hóa hình, sống
chen chúc giữa cõi đời này của chúng ta, để theo dõi quan sát cái thế giới người
ngộ nghĩnh và khá lôi thôi này của chúng ta” (Dọc đường). Quãng năm
1995-1996, Lê Thiết Cương bắt đầu gặp Nguyễn Huy Thiệp, con người đã nổi danh từ
năm 1988 khi được đăng một số truyện ngắn trên báo Văn nghệ, truyện
đã được các nhà xuất bản, các đầu nậu in nhiều và cũng lỗi nhiều. “Anh em thỉnh
thoảng ngồi với nhau ở quán cà phê Quỳnh Bát Đàn, lân la nói chuyện mới biết
ông Thiệp có mở xưởng làm khung tranh cho các họa sĩ. Từ đó, thay vì đóng khung
chỗ cũ thì đóng ở chỗ ông Thiệp. Dần dần thân với nhau”, họa sĩ Lê Thiết Cương
nhớ lại.
https://cdn.tiasang.com.vn/tiasang-media/2025/06/Le-Thiet-Cuong-lam-sach-anh-6.jpg
Ấn
bản truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp năm 2006
Vì
thế, mới có chuyện là vào năm 2006, họa sĩ Lê Thiết Cương đứng ra làm tuyển tập
truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, “một chuyện cực kỳ quan trọng” như cách nói của
anh, đòi hỏi sự cẩn trọng tới từng chi tiết. Để có được một bản thảo tốt, nhà
văn Nguyễn Huy Thiệp hầu như ngày nào cũng tới nhà Lê Thiết Cương, ngồi vào máy
tính, dò lại từng chữ một, phát hiện ra ‘chỗ này họ đánh sai chữ này chữ kia’.
Cứ mỗi buổi chiều hoặc hai, ba buổi chiều mới xong một truyện.
Làm
sách cho bạn mới công phu như thế, và làm sách thế mới thú! Cái thú ở đây còn
là đi mời mười mấy họa sĩ, như Đặng Xuân Hòa, Đào Hải Phong, Thành Chương…, để
minh họa cho sách. “Mình tự tay in truyện, mang đến nhà từng người, hẹn ngày hẹn
giờ đến lấy bản minh họa của các ông các bà ấy về chụp lại rồi trả lại bản gốc
cho họ”. Tỉ mẩn và công phu nên mùa hè năm 2006, tập sách ra đời trong sự mãn
nguyện của tác giả. “Tập truyện ngắn năm đó của Nguyễn Huy Thiệp như một cuốn từ
điển của ông Thiệp, không chỉ vì ông sửa từng câu từng chữ mà còn là cuốn tuyển
tập đầu tiên mà ông tự lựa chọn. Ông cũng tự viết vài dòng giải thích tại sao
tôi lại chọn truyện ngắn này. Cho đến năm 2006, chưa có cuốn nào được xuất bản
mà lại có ghi chú của chính ông Thiệp ở cuối truyện”, họa sĩ Lê Thiết Cương
nói.
Bạn
bè, hội họa, thi ca, những lớp lớp giao thoa chồng lấn trên miền không, miền
có. Những cuốn sách làm cho bạn bè như đường nối những cá tính nghệ thuật, đặt
họ vào một không gian, nơi những tấm tình với chữ nghĩa tỏa ra một thứ ánh sáng
rất lạ.
Bởi
thấy chữ là thấy người, trong thăm thẳm tâm can. □
----------------------
Tài
liệu tham khảo:
Lê
Đạt. Đối thoại với đời và thơ. NXB Trẻ. 2008
Nguyễn
Văn Chính. Tự sự dân tộc học. NXB Hà Nội. 2023
———–
1.
https://tiasang.com.vn/van-hoa/tho-va-vat-ly-hien-dai-28584/
2.
https://tiasang.com.vn/van-hoa/am-nhac-nang-con-nguoi-len-cao-hon-6053/
3.
https://tiasang.com.vn/van-hoa/gap-ben-la-mot-chieu-nau-lfa-6247/
Bài
đăng Tia Sáng số 12/2025
No comments:
Post a Comment