Làm cho nước Mỹ đơn độc trở lại
Margaret MacMillan
- Foreign
Affairs
Nguyễn
Thị Kim Phụng, biên
dịch - Nghiên
Cứu Quốc Tế
https://nghiencuuquocte.org/2025/07/23/lam-cho-nuoc-my-don-doc-tro-lai/
Lịch
sử hầu như không có tiền lệ nào cho việc Washington từ bỏ các liên minh của
chính mình.
Henry
Kissinger từng ví mình như chàng cao bồi đơn độc cưỡi ngựa vào thành phố để dẹp
yên những kẻ xấu. Nhưng vị ngoại trưởng Mỹ, người cũng từng là cố vấn an ninh
quốc gia, lại có cách nhìn khác khi đối phó với các cường quốc. Thần tượng của
ông là chính khách người Áo Klemens von Metternich, người bằng cách nào đó đã tập
hợp được một nhóm khó tin gồm Áo, Anh, Phổ, Nga, và một số đồng minh nhỏ hơn
cùng các nhà lãnh đạo không mấy hòa hợp của họ thành một liên minh cuối cùng đã
đánh bại Napoleon vào năm 1815. Như Kissinger đã hiểu được, ngay cả những cao bồi
đơn độc cũng cần có bạn bè.
VIDEO
:
Làm cho nước
Mỹ đơn độc trở lại
https://www.youtube.com/watch?v=mour6MOAOjo
Đây
có lẽ là một sự thật mà Tổng thống Mỹ Donald Trump đã bỏ qua. Kể từ khi trở lại
nhiệm sở vào tháng 1, Trump đã gọi các đồng minh thân cận nhất của Mỹ là những
kẻ lừa đảo và ăn bám. Ông khẳng định Nhật Bản và các đối tác thương mại châu Á
khác đã “được nuông chiều thái quá,” còn các nước láng giềng Bắc Mỹ thì bị cáo
buộc xuất khẩu ma túy và tội phạm. Ông thẳng thừng công khai dán nhãn các nhà
lãnh đạo của một số đối tác dân chủ quan trọng nhất của Mỹ là những kẻ hết thời,
yếu đuối, hoặc không trung thực, trong khi dành nhiều lời khen ngợi cho những
lãnh đạo chuyên chế mà ông cho là dễ đối phó hơn, như Thủ tướng Hungary Viktor
Orbán (“một nhà lãnh đạo rất vĩ đại”), Tổng thống Salvador Nayib Bukele (“một
người bạn tuyệt vời”), lãnh đạo Triều Tiên Kim Jong Un (“một người thông
minh”), và – cho đến rất gần đây – là Tổng thống Nga Vladimir Putin, người mà
ông gọi là “thiên tài” và “rất khôn ngoan” trong việc tấn công Ukraine. Trong một
sự kiện không thể tưởng tượng được dưới thời các chính quyền trước, bao gồm cả
chính quyền đầu tiên của Trump, vào tháng 2 vừa qua, Mỹ đã chống lại các đồng
minh dân chủ của mình và đứng về phía Nga cùng các quốc gia chuyên chế khác,
như Triều Tiên và Belarus, khi bỏ phiếu chống lại nghị quyết của Liên Hiệp Quốc
nhằm lên án hành động xâm lược của Nga đối với Ukraine, đồng thời bảo vệ chủ
quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Ukraine
Bài
đang hot
Báo
Trung Quốc bình luận về cuộc tập trận chung đầu tiên giữa quân đội Trung – Việt
Có
lẽ điều khó hiểu nhất là vào thời điểm Washington đang cố gắng kiềm chế Trung
Quốc và củng cố khả năng phòng thủ của Mỹ tại Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương,
chính quyền Trump lại chuẩn bị áp thuế quan trừng phạt lên Hàn Quốc và Nhật Bản,
những đồng minh châu Á thân cận nhất của Mỹ, cũng như lên một danh sách dài các
đối tác châu Âu mà họ đang cố gắng giữ tránh xa khỏi Bắc Kinh. Các đồng minh của
Mỹ trên toàn thế giới cũng lo ngại trước những phát biểu công khai của Trump và
các thành viên trong nội các của ông rằng cái gọi là “chiếc ô hạt nhân” – ý tưởng
rằng khả năng răn đe hạt nhân của Mỹ sẽ đảm bảo cho hàng phòng thủ của đồng
minh – không còn là điều chắc chắn nữa. Mức độ hoài nghi hiện nay lớn đến mức
vào tháng 7, Pháp và Anh đã công bố một thỏa thuận mới để bắt đầu cung cấp khả
năng răn đe hạt nhân mở rộng cho châu Âu, và các đồng minh như Hàn Quốc, Ba
Lan, và thậm chí cả Nhật Bản đã bắt đầu cân nhắc việc sở hữu vũ khí hạt nhân của
riêng mình.
Quá
khứ có rất nhiều ví dụ về các cường quốc thế giới bất hòa với các đối tác liên
minh cũ hoặc tìm kiếm những đối tác mới. Nhưng thật khó để tìm ra một trường hợp
mà nhà lãnh đạo của một liên minh lớn lại có thể dễ dàng và tàn nhẫn gạt bỏ những
đồng minh mà phần lớn đều đáng tin cậy và đã chấp nhận sự lãnh đạo của mình. Nếu
Mỹ muốn các nguồn tài nguyên của Canada hoặc Greenland, thì những nguồn tài
nguyên đó luôn có sẵn. Việc đe dọa sáp nhập chỉ phản tác dụng, khơi dậy tinh thần
chống Mỹ như nó đang làm. Đúng là các đồng minh NATO của Washington đã không
chi đủ cho quốc phòng, nhưng một phần là do Mỹ đã khăng khăng suốt nhiều thập kỷ
về việc họ phải giữ vai trò thống trị. Và khi bị thúc ép, như tại hội nghị thượng
đỉnh NATO gần đây nhất hồi tháng 6, các thành viên của liên minh xuyên Đại Tây
Dương đã chấp nhận tăng ngân sách quốc phòng, hoặc cam kết sẽ làm như vậy, lên
mức mà chỉ vài năm trước đây còn không thể tưởng tượng được.
Thật
khó để tìm ra một lời giải thích hợp lý cho các chính sách của chính quyền
Trump thứ hai. Tổng thống có thể thiếu kiên nhẫn với các liên minh hiện có,
nhưng ông lại đưa ra rất ít lựa chọn thay thế ngoài một sự gắn bó rõ ràng với
khái niệm cũ về các vùng ảnh hưởng, trong đó một số ít cường quốc thống trị các
nước láng giềng gần nhất, và các tổ chức đa phương, nếu còn tồn tại, sẽ có rất
ít quyền lực hoặc thẩm quyền. Một thế giới như vậy sẽ mang đến những mối đe dọa
lớn hơn trong tương lai cho Mỹ, khi họ phải cạnh tranh với các khu vực khác –
có lẽ bao gồm một châu Á do Trung Quốc thống trị và có thể là một khu vực riêng
của Nga ở Đông Âu và Trung Á, trong khi các cường quốc nhỏ hơn trong mỗi khu vực
hoặc chấp nhận số phận của mình, thường là một cách miễn cưỡng, hoặc tìm kiếm
những bá quyền mới.
Bằng
cách phá bỏ các liên minh từng phục vụ tốt cho mình, Mỹ đang đứng trước nguy cơ
sụp đổ toàn diện về ổn định và trật tự, điều mà về lâu dài sẽ khiến họ phải trả
giá rất đắt, dù là về chi tiêu quân sự hay các cuộc thương chiến dai dẳng, khi
mỗi cường quốc đều tìm kiếm lợi thế ở nơi mà lợi ích của họ giao thoa với nhau.
Việc thiếu vắng các tiền lệ lịch sử cho hành vi như vậy không cho thấy một
chính sách khôn ngoan kiểu Machiavelli nhằm củng cố quyền lực của Mỹ; thay vào
đó, nó cho thấy một nước Mỹ đang hành động chống lại lợi ích của chính mình một
cách khó hiểu, làm suy yếu một trong những nguồn sức mạnh chủ chốt của nó. Và
điều này xảy ra ngay thời điểm mà vị thế lãnh đạo toàn cầu cùng sự thống trị về
kinh tế và công nghệ của Mỹ đang chịu áp lực ngày càng tăng từ Trung Quốc và
các đối thủ lớn khác.
QUY
TẮC QUYỀN LỰC
Suốt
nhiều thế kỷ, giá trị của các liên minh, ngay cả giữa các quốc gia cực kỳ khác
biệt, đã được chấp nhận như một yếu tố quan trọng của quan hệ quốc tế. Từ xa
xưa trong lịch sử, các nhóm, dù là thị tộc hay quốc gia, đã liên kết với nhau để
cùng chống lại kẻ thù chung. Vào thế kỷ 5 trước Công nguyên, Liên minh Delian của
các thành bang Hy Lạp đã đánh bại Đế chế Ba Tư; vào năm 1815, Đại Liên minh gồm
Áo, Anh, Phổ, và Nga đã hợp lực để đánh bại nước Pháp của Napoleon. Mục đích
chung có thể gắn kết những đối tác không thể ngờ tới nhất, như nước Pháp theo
Công giáo và Đế chế Ottoman theo Hồi giáo, những người đã liên kết lực lượng
vào thế kỷ 16 và vẫn là đồng minh của nhau trong hơn hai thế kỷ, hoặc như Liên
Xô của Joseph Stalin với Anh và Mỹ, những nước đã cùng nhau đánh bại Đức và Nhật
Bản và các cường quốc phe Trục khác trong Thế chiến II.
Trước
khi thế giới được kết nối chặt chẽ và khi giao tiếp vẫn còn khó khăn, địa lý đã
cho phép một số quốc gia tồn tại mà không cần đồng minh. Nhật Bản đã có thể duy
trì sự cô lập của mình trong hai thế kỷ rưỡi cho đến khi buộc phải đối mặt với
một thế giới khác biệt và rộng lớn hơn vào năm 1853, khi Phó đề đốc Mỹ Matthew
Perry đến với quốc đảo này. Được bảo vệ bởi hai đại dương và không có kẻ thù
hùng mạnh nào dọc theo biên giới đất liền, Mỹ đã tự hào trong phần lớn lịch sử
của mình về việc tránh các liên minh. Ngay cả khi miễn cưỡng tham gia Thế chiến
I về phe Hiệp ước, Tổng thống Woodrow Wilson vẫn khẳng định rằng Mỹ là một “cường
quốc liên kết” chứ không phải là một đồng minh. Chỉ sau năm 1945, Mỹ mới từ bỏ
sự nghi ngờ đối với các liên minh. Đứng trước một Liên Xô thù địch và một Trung
Quốc cộng sản, đối tác thân cận của Liên Xô khi đó, lần đầu tiên trong lịch sử,
Mỹ đã tham gia vào các liên minh phòng thủ trong thời bình, mà quan trọng nhất
trong số đó là NATO. Như chúng ta thấy ngày nay, chủ nghĩa biệt lập trong chính
sách đối ngoại của Mỹ chưa bao giờ hoàn toàn biến mất.
Như
chính quyền Truman đã học được 80 năm trước, ngay cả các quốc gia hùng mạnh
cũng cần đồng minh, một phần vì lý do uy tín, nhưng phần khác là vì sức mạnh của
cường quốc có giới hạn và việc duy trì nó rất tốn kém. Vào cuối thế kỷ 19, Đế
quốc Anh, đế quốc lớn nhất thế giới từng chứng kiến, đã trải qua điều mà sử gia
Paul Kennedy gọi là “sự dàn trải quá mức của đế quốc” khi phải đối đầu với cả
những đối thủ cũ như Pháp và Nga, lẫn những đối thủ mới hơn như Đức, Nhật Bản,
và Mỹ. Nền kinh tế Anh vẫn hùng mạnh và hải quân của họ vẫn thống trị các đại
dương, nhưng các nước khác đang dần bắt kịp. Bộ Tài chính Anh và người dân Anh
cũng bắt đầu phàn nàn về cái giá phải trả để duy trì sự thống trị.
Sự
phẫn nộ lan rộng của người Anh đã trở nên rõ ràng khi nước này phải chật vật để
đàn áp hai nước cộng hòa Afrikaner nhỏ bé (Cộng hòa Transvaal và Nhà nước Tự do
Orange) trong Chiến tranh Nam Phi 1899-1902. Những chiến thắng ban đầu của người
Afrikaner không chỉ cho thấy sự bất lực của Quân đội Anh, mà còn được hoan
nghênh rộng rãi trên khắp thế giới. Việc đối xử tàn bạo đối với thường dân
Afrikaner lại càng làm suy yếu danh tiếng của Đế quốc Anh. Tại Triển lãm Paris
năm 1900, đám đông ngưỡng mộ đã chất đầy hoa tại gian của Cộng hòa Transvaal.
Việc chứng kiến mức độ căm ghét dành cho họ đã khiến người Anh bị sốc và nhận
ra rằng ngay cả họ cũng cần có bạn bè. Ngay sau đó, chính phủ Anh đã đạt được một
vài thỏa thuận với các đối thủ là Pháp, Nhật Bản, và Nga. Điều này làm giảm
nguy cơ xung đột với mỗi nước và khuyến khích hợp tác, từ đó cũng làm giảm bớt
sự dàn trải quá mức. Anh, trong mắt những người đương thời, vẫn là cường quốc
thống trị thế giới, có thể nói là cho đến giữa Thế chiến II.
Như
kinh nghiệm của Anh đã chứng minh, sức mạnh toàn cầu không thể chỉ được đo lường
bằng nguồn lực quân sự. Việc thống kê số lượng súng, tàu, máy bay, sản lượng
kinh tế, hay sức mạnh khoa học và công nghệ tương đối dễ dàng, nhưng việc đánh
giá năng lực, khả năng tổ chức, quản lý hiệu quả, hoặc tinh thần thì không dễ
chút nào. Nga có vẻ mạnh mẽ trước cuộc xâm lược toàn diện vào Ukraine năm 2022,
và là một đồng minh đáng mơ ước đối với Trung Quốc, Iran, và Triều Tiên. Giờ
đây, sau ba năm rưỡi chiến tranh không thành công và phải chịu nhiều tổn thất nặng
nề, Nga có thể trở thành một gánh nặng. Một quốc gia phải có uy tín trong mắt
người khác, cho dù đó là đồng minh, kẻ thù, hay chính người dân của nước đó.
Khi Liên Xô vào những năm 1980 và sau đó là Mỹ trong những thập kỷ đầu tiên của
thế kỷ này thất bại ở Afghanistan bất chấp ưu thế quân sự vượt trội của họ, những
thất bại đó đã làm nản lòng các đồng minh của chính họ, đẩy những người không
cam kết ra xa hơn, và làm lung lay niềm tin của người dân vào chính phủ của họ,
trong khi khuyến khích những kẻ thù tiềm tàng. Cuộc cách mạng Bolshevik năm
1917, diễn ra sau những thất bại về mặt quân sự của Nga, lẽ ra phải cảnh báo
chính chế độ Xô-viết về hậu quả của sự thất bại – và cũng nên là lời cảnh báo
cho Putin ngày nay.
Quyền
lực cũng không phải là hằng số. Dù ở bên chiến thắng trong cả hai cuộc chiến
tranh thế giới, nhưng người Anh đã chứng kiến tài nguyên của mình cạn kiệt và đế
chế của mình tan rã. Liệu Mỹ có còn hùng mạnh như trước đây không? Mỹ đã có những
thất bại ở nước ngoài, đáng chú ý là ở Afghanistan và Iraq, và đang ngày càng
chia rẽ trong nước, đồng thời có nợ quốc gia ở mức khổng lồ, trong khi đầu tư
vào cơ sở hạ tầng quan trọng lại giảm sút. Hơn nữa, trong thời đại của tên lửa
ngày càng nhanh và có tầm bắn xa, địa lý không còn là rào cản đối với kẻ thù
như trước đây. Vậy nên người ta lại càng có nhiều lý do để vun đắp liên minh với
các cường quốc có thiện cảm hơn là ruồng bỏ họ. Canada chưa bao giờ là mối đe dọa
đối với Mỹ, ngoại trừ trong môn khúc côn cầu, và người Canada từ lâu đã xem người
Mỹ là họ hàng thân thiết của mình. Đường biên giới giữa hai nước là đường biên
giới không được bảo vệ dài nhất thế giới, và hai nền kinh tế đã gắn bó chặt chẽ
với nhau.
Tuy
nhiên, những gì Trump đã làm với bài phát biểu về tiểu bang thứ 51, việc áp đặt
thuế quan trừng phạt, và lời đe dọa rằng Mỹ sẽ không bảo vệ Canada theo hệ thống
phòng thủ tên lửa Vòm Vàng được đề xuất trừ phi nước này trả tiền (và ông cứ
liên tục tăng khoản tiền), đã khiến một dân tộc vốn hiền lành nổi giận. Tại
Ottawa, tâm trạng chung là sốc và không tin nổi. Những gì từng được cho là nền
tảng không thể chối cãi của chính sách đối ngoại Canada đang tan chảy như những
dòng sông băng ở Greenland. Quan hệ đang bị phá hủy sẽ không dễ dàng được hàn gắn,
chắc chắn là không thể trong một thế hệ. Và vì điều gì?
NHỮNG
NGƯỜI LÀM VƯỜN CHĂM CHỈ
Giống
như nhiều quan hệ giữa người với người khác, các liên minh đòi hỏi phải nỗ lực:
việc quản lý chúng đòi hỏi sự kiên nhẫn, khoan dung, kỹ năng, và giống như một
khu vườn, các quan hệ cũng cần được chăm sóc thường xuyên. Rủi ro thường rất
cao, và tính cách của các nhà lãnh đạo và nhà ngoại giao liên quan có thể rất
quan trọng. Ngoại giao không phải là đi dự tiệc cocktail, dù giao lưu là một phần
của nó. Thay vào đó, ngoại giao là việc hiểu sâu hơn về các quốc gia khác, cũng
như các nhà lãnh đạo của họ, và học cách đàm phán với họ. Việc công khai chỉ
trích các đồng minh về những lỗi lầm của họ, như Phó Tổng thống J.D. Vance đã
làm với các nước châu Âu tại Hội nghị An ninh Munich vào tháng 2, hoặc ra lệnh
và lăng mạ trên mạng xã hội, như Tổng thống Trump làm gần như hàng ngày, hoặc
công khai các bức thư gửi cho các nguyên thủ quốc gia khác trước khi chúng được
gửi đến người nhận, chỉ khiến sự phẫn nộ tích tụ ngày một nhiều và khiến các
quan hệ cá nhân trong tương lai trở nên trắc trở hơn.
Nếu
Kissinger không thể thiết lập quan hệ tôn trọng lẫn nhau với người đồng cấp
Trung Quốc Chu Ân Lai, thì việc mở ra quan hệ giữa Mỹ và Trung Quốc dưới thời
chính quyền Nixon có thể đã bị trì hoãn trong nhiều năm. Trường hợp của Thủ tướng
Anh Winston Churchill và Tổng thống Mỹ Franklin Roosevelt có lẽ còn đáng chú ý
hơn. Kể từ khi chiến tranh nổ ra ở châu Âu vào năm 1939, như lời Churchill, ông
đã nỗ lực ve vãn Roosevelt như một kẻ đi cầu hôn. Ông biết rằng, để chiến thắng,
Anh cần các nguồn lực của Mỹ như súng và tiền, và cuối cùng, ông thiết tha hy vọng
sẽ có cả lực lượng Mỹ. Về phần mình, Roosevelt không muốn người Anh thất bại.
Dù lúc đầu ông bị hạn chế bởi công chúng Mỹ, những người phản đối việc tham chiến,
nhưng ông đã mở rộng quyền hạn của tổng thống để cung cấp hỗ trợ nhiều nhất có
thể.
Trong
lúc Thế chiến II diễn ra, hai nhà lãnh đạo đã di chuyển hàng ngàn dặm bằng tàu
thủy và máy bay để gặp nhau và gặp cả Stalin, thường xuyên phải đối mặt với
nguy hiểm về sức khỏe và tính mạng. Nếu không có quan hệ cá nhân bền chặt giữa
Churchill và Roosevelt, thì những bất đồng và mâu thuẫn vốn tồn tại trong bất kỳ
liên minh nào chắc chắn sẽ cản trở việc hoạch định chiến lược chung và viện trợ
quân sự quan trọng của Mỹ theo Đạo luật Cho vay-Cho thuê. Quan hệ đối tác giữa
hai nước đã được mở rộng và củng cố bởi hàng ngàn chuyên gia, nhà quản lý, nhà
báo, trí thức, và quân nhân đang tại ngũ, những người đã học được cách làm việc
cùng nhau, dù không phải lúc nào cũng dễ dàng.
Hãy
xem xét tình bạn sâu sắc và hiếm có mà John Dill, đại diện quân sự cấp cao của
Anh tại Washington, đã thiết lập với vị tướng kín tiếng, George Marshall, Tổng
tham mưu trưởng Lục quân Mỹ và là cố vấn quân sự quan trọng nhất của Roosevelt.
Cùng nhau, hai vị tướng đã có thể dung hòa những chia rẽ thường sâu sắc và đôi
khi gay gắt giữa các đồng nghiệp và giữa các lãnh đạo chính trị của họ. Dù
Churchill và những người kế nhiệm đã phóng đại mức độ đặc biệt của “quan hệ đặc
biệt” thời hậu chiến, nhưng nó đã mang lại lợi ích cho cả Mỹ và Anh, từ cuộc
Không vận Berlin vào đầu Chiến tranh Lạnh cho đến khi Bức tường Berlin sụp đổ
vào cuối thời kỳ đó.
Các
liên minh cũng khó có thể tồn tại lâu hơn mục đích trước mắt của chúng.
Churchill và Roosevelt đã kém thành công hơn nhiều trong nỗ lực xây dựng một
tình bạn lâu dài hơn với Stalin và Liên Xô của ông. Khoảng cách giữa các nền
dân chủ và chế độ chuyên chế Xô-viết là quá lớn: ký ức của Liên Xô về sự can
thiệp của Đồng minh Hiệp ước chống lại những người Bolshevik vào cuối Thế chiến
I, quan hệ căng thẳng trong những năm giữa hai cuộc thế chiến, và những nghi ngờ
sâu sắc, một phần xuất phát từ lịch sử Nga và một phần xuất phát từ những giả định
của chủ nghĩa Marx về trận chiến cuối cùng sắp tới giữa chủ nghĩa tư bản và chủ
nghĩa xã hội, đã khiến các quan hệ bình thường gần như là không thể. Nhu cầu
đánh bại Đức Quốc xã và chế độ độc tài quân phiệt Nhật là chất keo chính gắn kết
Đại Liên minh lại với nhau, và khi điều đó biến mất, thì quan hệ cũng biến mất.
Hiện tượng này đã lặp đi lặp lại nhiều lần xuyên suốt lịch sử, cho dù là trong
sự sụp đổ của Liên minh Delian sau khi Ba Tư bị đánh bại, hay khi các Quốc gia
Balkan gây chiến với nhau vào năm 1913 sau khi đã cùng nhau đánh bại Đế chế
Ottoman.
Dù
không thể đo lường được, nhưng những cảm xúc như thích hay ghét, ngưỡng mộ
khinh thường – những điều thường ngày trong quan hệ giữa con người – đóng một
vai trò quan trọng trong việc tạo dựng và phá vỡ các liên minh. Tình bạn cá
nhân, sự tôn trọng, và tin tưởng lẫn nhau là dầu bôi trơn trong cỗ máy phức tạp
giúp các liên minh tồn tại lâu dài. Trong nhiều dịp kể từ năm 1945, các nhà
lãnh đạo Anh và Mỹ – Harold Macmillan và John F. Kennedy, Margaret Thatcher và
Ronald Reagan, George W. Bush và Tony Blair, và hơn thế – đã có những quan hệ tốt
đẹp giúp củng cố quan hệ đối tác giữa hai quốc gia. Tuy nhiên, nếu thiếu đi sự
gắn kết như vậy, hoặc chí ít là một mức độ tin tưởng nhất định giữa các nhà
lãnh đạo, thì quan hệ có thể xấu đi nhanh chóng một cách đáng ngạc nhiên, như
thế giới đang chứng kiến một lần nữa ngày nay. Alexander I của Nga đã khó chịu
dưới sự bảo trợ của Napoleon và dần dần ngả về phía kẻ thù của ông. Mao Trạch
Đông và các đồng chí của ông ngày càng bực bội trước những giả định về sự vượt
trội và vai trò lãnh đạo phong trào cộng sản thế giới của Liên Xô, trong khi
người kế nhiệm Stalin, Nikita Khrushchev, cho rằng người Trung Quốc xảo quyệt
và không đáng tin cậy – góp phần vào sự chia rẽ Trung-Xô công khai và đầy cay đắng
sau năm 1962.
VỨT
BỎ CƠ HỘI
Kể
từ năm 1945, hàng loạt các quốc gia ở Châu Á, Châu Âu, và Trung Đông đã phụ thuộc
vào quan hệ an ninh với Washington. Nhóm này bao gồm 31 thành viên còn lại của
NATO; các quốc gia Châu Á có liên minh quân sự chính thức với Mỹ, như
Australia, Nhật Bản, và Hàn Quốc; và các quốc gia có quan hệ đối tác quân sự ít
chính thức hơn nhưng vẫn sâu rộng, như Israel và Ả Rập Saudi. Và còn có những
quốc gia trên khắp thế giới như Chile và Việt Nam, những nước có xu hướng hợp
tác với Mỹ trên cơ sở hữu nghị. Loạt quốc gia đa dạng ấn tượng này đã chào đón
sự bảo vệ và lãnh đạo của Mỹ trong nhiều thập kỷ kể từ khi Thế chiến II kết
thúc, không chỉ vì sự hùng mạnh của siêu cường, mà còn vì nó đại diện cho hy vọng
về một thế giới tốt đẹp và công bằng hơn.
Nhưng
giờ đây, có một khả năng thực sự rằng liên minh phương Tây đang gia nhập danh
sách những liên minh thất bại. Trump luôn cảm thấy không thoải mái với việc cho
và nhận trong chính trị liên minh. Điều này có thể một phần xuất phát từ kinh
nghiệm kinh doanh của chính ông, khi ông thường là ông chủ không ai có thể phản
đối. Ông điều hành các công ty của mình từ những văn phòng nhỏ, khác với các tập
đoàn lớn có cấu trúc và ban quản trị thuê ngoài. Trong chương trình Người Tập Sự
(The Apprentice) của mình, câu nói nổi tiếng của ông là: “Anh bị sa thải!”
Trong
nhiệm kỳ đầu tiên, Trump có vẻ đặc biệt không thoải mái tại các cuộc họp đa
phương, nơi ông phải đối xử với các nhà lãnh đạo khác như những nhân vật ngang
hàng, chẳng hạn như cuộc họp G-7 ở Canada năm 2018, nơi ông đến muộn và rời đi
sớm, nhưng trước đó đã tranh cãi với các nhà lãnh đạo khác về chính sách thương
mại và thuế quan của họ. Ông tiếp tục gây sốc cho các đồng minh khi đơn phương
rút khỏi các thỏa thuận quan trọng và được đàm phán cẩn thận như Hiệp định Khí
hậu Paris và Kế hoạch Hành động Toàn diện Chung nhằm hạn chế năng lực phát triển
vũ khí hạt nhân của Iran (một thỏa thuận có nét tương đồng rõ rệt với thỏa thuận
mà chính quyền Trump thứ hai đã đề xuất với Iran, chí ít là cho đến khi họ bị
lôi kéo vào việc ném bom các địa điểm hạt nhân của Iran vào tháng 6). Nhấn mạnh
một tuyên bố đã trở thành chủ đề chính trong nhiệm kỳ thứ hai của mình, ông
phàn nàn rằng “Chúng ta giống như con heo đất mà mọi người đều đến cướp.”
Ngày
nay, Trump được tự do hành động theo cảm tính hơn bởi những cố vấn kỳ cựu và
đáng kính từng đứng lên chống lại ông trong nhiệm kỳ đầu đã bị thay thế bởi những
kẻ nịnh hót và bợ đỡ. Thỉnh thoảng, Trump vẫn phải đối phó với các cường quốc
dân chủ khác, thậm chí là các tổ chức đa phương, và ông đã thể hiện rõ sự thiếu
kiên nhẫn với họ. Chỉ trừ một vài ngoại lệ, Phòng Bầu dục đã trở thành sân khấu
để Trump thể hiện quyền lực thống trị của mình, và khi ông xuất hiện tại các cuộc
họp quốc tế, ông luôn giữ nó càng ngắn gọn càng tốt. Và những lời lăng mạ vô cớ
– đối với các đồng minh NATO, Liên minh Châu Âu, các nước BRICS, Liên Hiệp Quốc,
hay Tổ chức Y tế Thế giới – vẫn tiếp tục tuôn ra từ Tổng thống. Thật khó để nhận
ra mục đích nào khác ngoài việc giữ ông là trung tâm của sự chú ý.
Trump
thích xem quan hệ quốc tế như một loạt các giao dịch, tổ chức các cuộc gặp mặt
trực tiếp hoặc các cuộc điện đàm dài với từng nhà lãnh đạo ở từng thời điểm, và
dường như ông cảm thấy thoải mái với các nhà độc tài quyền lực hơn hẳn là các
chính khách dân chủ. Nếu cần, ông sẽ dùng vũ lực để ép buộc cả bạn bè lẫn đối
thủ phải khuất phục, với giả định rằng họ sẽ từ bỏ bất kỳ sự phản đối nào nếu lời
đề nghị trên bàn đủ tốt, hoặc nếu Washington nắm trong tay quân bài mạnh nhất.
(“Ông không có quân bài nào ngay lúc này đâu,” ông mỉa mai Tổng thống Ukraine
Volodymyr Zelensky trong cuộc trò chuyện nổi tiếng ở Phòng Bầu dục).
Nhưng
giá mà mọi chuyện đơn giản như vậy. Các quốc gia không phải lúc nào cũng hành động
dựa trên những gì người khác cho là lợi ích tốt nhất của họ. Năm 1940, Hitler
nghĩ rằng Anh không còn lựa chọn nào khác ngoài việc đầu hàng, giống như Putin
tin rằng Ukraine sẽ đầu hàng chỉ trong vài ngày trước cuộc xâm lược của Nga.
Như Roosevelt đã nhận ra vào thời điểm ông qua đời vào mùa xuân năm 1945, các
nhà lãnh đạo có thể định nghĩa lợi ích theo nhiều cách khác nhau. Niềm tin cùng
sự khác biệt trong văn hóa và tính cách cá nhân có thể quan trọng ngang bằng với
những yếu tố khách quan hơn như nhân khẩu học hoặc địa lý. Stalin đến từ một thế
giới rất khác, có những trải nghiệm và mục tiêu rất khác so với người con trai
sở hữu nhiều đặc quyền của một gia tộc Mỹ nổi tiếng lâu đời.
THẢM CẢNH
CỦA NƯỚC MỸ
Trong
thế giới của Trump, lòng tin và sự tôn trọng lẫn nhau, vốn rất khó thiết lập
nhưng rất dễ phá hủy, lại không quan trọng. Các bên sẽ hợp tác nếu điều đó phù
hợp với lợi ích của họ và chỉ hợp tác cho đến khi một đề nghị tốt hơn xuất hiện.
Nga nhìn thấy lợi ích của tình bạn từ Mỹ. Các đồng minh châu Âu sẽ cằn nhằn
nhưng họ phải làm theo những gì Washington muốn, hoặc sẽ thấy mình đơn độc và
không có bạn bè. Trung Quốc sẽ đàm phán về thương mại, ví dụ sẽ hứa mua các sản
phẩm nông nghiệp của Mỹ, vì không muốn bị loại khỏi thị trường Mỹ. Và nếu Bắc
Kinh muốn Đài Loan, tại sao không để họ có được hòn đảo miễn là Mỹ nhận được điều
gì đó đổi lại? Tổng thống dường như cho rằng các đồng minh hiện tại và tiềm
năng cũng nhìn nhận quan hệ quốc tế giống như ông. Nếu bạn thua một hiệp, bạn
có thể thắng hiệp tiếp theo. Vấn đề là, các quốc gia, giống như các cá nhân, đều
có ký ức lâu dài về những sai lầm hoặc thất bại trong quá khứ, như chính Trump
nên biết.
Lòng
tin giữa các cá nhân hay quốc gia rất khó đo lường, nhưng các quan hệ lâu dài
và hiệu quả không thể tồn tại nếu không có nó. Trong Chiến tranh Lạnh, các cuộc
đàm phán giữa Liên Xô và Mỹ về kiểm soát vũ khí rất mệt mỏi và bị kéo dài bởi
vì không bên nào tin tưởng bên kia. Những sự cố như chuyến bay U-2 bị chặn của
phi công Mỹ Gary Powers trên bầu trời Liên Xô năm 1960, hay vụ Liên Xô bắn hạ
máy bay chở khách của Hàn Quốc năm 1983, thường bị bên kia coi là bằng chứng của
ý đồ xấu. Ngược lại, dù chắc chắn có những căng thẳng giữa Mỹ và các đồng minh,
nhưng nhìn chung mỗi bên đều cho rằng các đối tác của mình đang hành động một
cách thiện chí, và sẵn sàng thảo luận những vấn đề hóc búa và tìm kiếm các giải
pháp mà cả hai bên đều chấp nhận được. Ngày nay, điều đó đã không còn tồn tại
và không thể dễ dàng hoặc nhanh chóng xây dựng lại.
Mỹ
hiện đang trải qua những gì Anh đã trải qua ngay cả trong thời kỳ hoàng kim của
đế chế. Trở thành cường quốc quân sự lớn nhất thế giới là một gánh nặng lớn, và
một phần vì thế nên nợ công của Mỹ đã liên tục tăng lên đến mức chóng mặt. Các
cường quốc tham vọng, đặc biệt là Trung Quốc, đang đổ nguồn lực vào một cuộc chạy
đua vũ trang ngày càng tốn kém. Và, như đã xảy ra nhiều lần trước đây, các quốc
gia khác cũng bị cám dỗ từ bỏ cường quốc cũ để theo cường quốc mới, hoặc liên kết
chống lại cường quốc cũ để tận dụng cái mà họ cho là sự suy tàn của nó. Nếu
thái độ thù địch hiện tại của Trump đối với các liên minh được duy trì, và nếu
chính quyền tiếp tục xúc phạm, hạ thấp, và thậm chí gây tổn hại về kinh tế cho
các đối tác lâu năm của mình, thì Mỹ sẽ thấy thế giới ngày càng trở nên thù địch.
Các
đồng minh cũ hoặc các cường quốc không cam kết có thể quyết định, như Cộng hòa
Slovakia hoặc Serbia đã làm, rằng nước Nga của Putin là một lựa chọn tốt hơn;
những nước khác có thể bỏ qua Mỹ bằng các thỏa thuận thương mại mới, hoặc như
đang xảy ra với các quốc gia châu Âu và Canada, chia sẻ quá trình sản xuất quân
sự, lập kế hoạch, và răn đe lẫn nhau, với giả định rằng Mỹ không còn là một đồng
minh đáng tin cậy nữa. Như một điềm báo về những gì sắp xảy ra, Canada vừa vận
chuyển container khí đốt tự nhiên hóa lỏng đầu tiên của mình đến Châu Á. Người
Anh từng gọi vị thế của họ trên thế giới là “sự cô lập huy hoàng” cho đến khi họ
nhận ra cái giá phải trả là quá đắt. Nước Mỹ của Trump cũng có thể sớm nhận ra
rằng, trong thế kỷ 21 đầy rẫy hiểm nguy, những huy hoàng đó đã bị đánh giá quá
cao.
----------------------------
Margaret
Macmillan
là giáo sư danh dự ngành Lịch sử Quốc tế tại Đại học Oxford và là tác giả cuốn
“War: How Conflict Shaped Us and The War That Ended Peace: The Road to 1914.”
Nguồn: Margaret
MacMillan, “Making
America Alone Again,” Foreign Affairs, 21/07/2025
No comments:
Post a Comment