Giải mã sự thành công
của Israel và người Do Thái
Hoàng Anh Tuấn
https://nghiencuuquocte.org/2014/10/10/giai-ma-thanh-cong-cua-israel-va-nguoi-do-thai/
Bài
liên quan: Tìm hiểu Israel và
dân tộc Do Thái
Thành
công của người Do Thái nhiều người đã biết, đã nghe từ lâu và có thể kể cả
ngày, cả tháng cũng không hết. Là người đã tìm hiểu câu chuyện này cả chục năm
nay, càng đi sâu tìm hiểu về những thành công của Israel và người Do Thái, tôi
càng thấy phức tạp nhưng cũng hết sức thú vị. Chuyến đi Israel lần này, ngoài
các công việc thường lệ, rất nhiều cuộc gặp gỡ, trao đổi, thảo luận với nhiều
người, nhiều giới, nhiều nơi khác nhau giúp tôi kiểm chứng, củng cố thêm các nhận
định trước đây của mình; biết thêm nhiều vấn đề mới; đồng thời cũng xóa bỏ một
số các định kiến một chiều, phiến diện.
Có
rất nhiều câu hỏi đeo đẳng trong suốt quá trình tìm hiểu để có câu trả lời thấu
đáo, đại loại như:
1. Tại sao chỉ chiếm một
phần nhỏ của dân số thế giới, nhưng người Do Thái lại có sự thông tuệ vượt thời
gian, hơn hẳn các dân tộc khác trên thế giới? Nếu tính theo chỉ số IQ, chỉ số
trung bình của người Do Thái là 110 so với chỉ số trung bình 100 của thế giới.
Tuy mức chênh lệch IQ chỉ là 10, nhưng tỷ lệ thiên tài trong nhóm những người
có IQ 110 cao hơn nhóm có chỉ số IQ 100 tới 120-150 lần!
2. Phải chăng người Do
Thái có “gien” thông minh hơn người và “gien” này được lưu giữ và truyền từ đời
này qua đời khác?
Câu
chuyện này đã được nhiều nhà khoa học âm thầm nghiên cứu để tìm câu trả lời thấu
đáo. Tuy nhiên, người Do Thái lại “bác bỏ” điều nay, cho rằng sở dĩ người Do
Thái thành công là do điều kiện, hoàn cảnh bắt buộc họ phải nỗ lực, sáng tạo và
vươn lên không ngừng để thích nghi với hoàn cảnh. Vậy thực, hư câu chuyện này
ra sao?
3. Nếu như có “gien”
Do Thái như vậy thì “gien” này được “lưu giữ” và phát triển ra sao từ thời “Cụ
Tổ” của người Do Thái đến nay và trong hoàn cảnh họ bị ly tán, tha phương cầu
thực?
Người
Do Thái hiện nay đều coi Thủy tổ của mình là ông Abraham (và cũng là của người
Hồi giáo – Người Hồi giáo gọi là Ibrahim) ra đời cách đây khoảng 4000 năm, và
Nhà Tiên tri Moses, ra đời cách đây khoảng 3600 năm. Ông Mosses đã dẫn dắt các
nô lệ người Do Thái chạy trốn khỏi Ai Cập và đến khu vực Bắc Israel hiện nay,
thống nhất 12 bộ lạc khác để lập ra nhà nước Do Thái. Hiện nay Israel là quốc
gia Do Thái duy nhất trên thế giới, người dân đa phần là người Do Thái và quốc
đạo là Đạo Do Thái. Để dễ hình dung, nếu có một nước khác có đặc trưng tương tự
như Israel, chẳng hạn Trung Quốc, thì đặc trưng nước đó sẽ là: Người Trung Quốc,
nước Trung Quốc, Đạo Trung Quốc. Nhưng trên thực tế ta thấy: người Hán, nước
Trung Quốc và Đạo Khổng.
4. Tại khu vực hiện gồm
phía Bắc Ai Cập, lãnh thổ Israel, Palestine, Gioóc-đa-ni hiện nay, khu vực phía
Nam Syria, và phía Đông Bắc Iraq vốn trước đây là khu vực tranh chấp quyết liệt
giữa bộ lạc Do Thái với các bộ lạc khác trong khu vực, cũng như giữa các đế chế
lân bang với nhau như Roma, Assyria, Babilon, Ottoman… nhằm kiểm soát khu vực đồng
bằng ven biển Israel và khu đồi cao Jerusalem để cho được gần với Đức Chúa trời.
Sau sự kiện Ngôi đền thứ nhất của người Do Thái bị đốt năm 586 trước Công
Nguyên thì mục tiêu xâm lược là để chiếm miền đất thánh Jerusalem, nơi cả 3 tôn
giáo (Do Thái, Thiên chúa, Hồi giáo) đều coi là đất thiêng của mình.
Vậy
tại sao trong khi hầu hết các bộ tộc du mục khác bị đồng hóa, hoặc bị tuyệt diệt,
nhưng người Do Thái lại “thoát” được nạn này (tuy rằng người Do Thái cũng trải
qua nạn diệt chủng Holocaust và một số cuộc truy sát tập thể trong quá khứ)? Vậy
họ đã “thoát” bằng cách nào?
5. Tại sao người Do
Thái lại có truyền thống hiếu học và tỷ lệ biết chữ rất cao so với những dân du
mục cùng thời? Tại sao người Do Thái lại đi tiên phong trong rất nhiều lĩnh vực
như khoa học tự nhiên, luật, khoa học chính trị, công nghiệp giải trí…?
Từ
hàng ngàn năm trước công nguyên trẻ em Do Thái hầu hết biết đọc biết viết, và
khi lưu lạc ở châu Âu, người Do Thái cũng có tỷ lệ biết đọc, biết viết cao hơn
người bản địa. Cần nhớ, trước thời kỳ Phục Hưng cả châu Âu chìm đắm trong u muội,
tỷ lệ mù chữ lên tới 80-90% dân số. Đến những năm 1930 của thế kỷ trước, người
Do Thái gần như độc quyền trong lĩnh vực nghiên cứu năng lượng nguyên tử, thậm
chí thời kỳ đó người ta còn gọi ngành khoa học này là “ngành khoa học Do Thái”.
Nhìn
rộng hơn, không chỉ người Do Thái quan tâm đến chuyện học hành của con cái, mà
người Đông Á, kể cả Việt Nam, cũng vậy và có thể kể ra không ít các tấm gương
thành công đáng ngưỡng mộ. Nhiều gia đình sẵn sàng bán nhà, bán cửa để đầu tư
chuyện học hành của con cái. Tuy nhiên đạt đến đỉnh cao trí tuệ như Albert
Einstein, Karl Marx, Noam Chomski và rất nhiều nhà khoa học đoạt giải Nobel gốc
Do Thái lại là một câu chuyện hoàn toàn khác. Tại sao người Do Thái làm được
chuyện đó?
6. Trên thế giới đã từng
có dân tộc nào bị trục xuất, sống lưu vong trên hai ngàn năm mà vẫn giữ được bản
sắc, tiếng nói, chữ viết và tập tục của mình như người Do Thái không?
7. Các giáo sĩ (Rabbi),
Hội đồng giáo sĩ và những người Do Thái chính thống là những người có địa vị và
tiếng nói quan trọng trong xã hội. Vậy họ có vai trò ra sao trong việc duy trì
tập tục, bản sắc và “nòi giống” Do Thái?
8. Tại sao mô hình
Kibbudz của người Do Thái lại thành công và có sức sống kỳ diệu ở Israel, trong
khi mô hình này lại không thành công hoặc không thể thành công ở các quốc gia
khác. Cốt lõi tạo nên thành công của các Kibbudz là gì?
9. Khi người Do Thái
được thực hiện giấc mơ “Phục quốc” năm 1948, hàng trăm ngàn người Do Thái từ
trên 70 quốc gia khác nhau trên khắp thế giới đổ về mảnh đất Israel, họ đã sát
cánh cùng nhau bắt tay xây dựng và bảo vệ đất nước. Tiếp đó, sau các biến động ở
Liên Xô và châu Âu trong những năm 1989-1990, 1,5 triệu người Do Thái (tức trên
1/4 dân số) trở về “cố quốc”. Mỹ, Australia, Canada cũng là quốc gia của những
người nhập cư, nhưng chưa từng chứng kiến lượng lớn người nhập cư đổ về (tính
theo tỷ lệ dân số) trong một thời gian ngắn đến vậy. Tuy đến từ nhiều xứ sở
khác nhau, nhưng hầu hết những người Do Thái không bị gặp các rào cản ngôn ngữ
và nhanh chóng hội nhập vào xã hội mới. Chuyện này thực hư thế nào và được thực
hiện ra sao?
Còn
rất nhiều các câu hỏi khác nữa. Vấn đề đặt ra là mô hình Israel và bài học
thành công của người Do Thái (tạm bỏ qua một bên các khiếm khuyết và một số
“thói hư, tật xấu” của người Do Thái) có thể học được không và áp dụng ở quy mô
nào (gia đình, dòng họ, công ty, thiết chế, đất nước…)?
Israel:
Cường quốc nông nghiệp giữa sa mạc
Do
điều kiện tự nhiên, sa mạc chiếm đến 60% tổng số 20.000 km2 diện tích, nên đất
đai canh tác còn lại của Israel rất ít và chủ yếu nằm ở khu vực đồng bằng ven
biển. Tuy nhiên, điều này không ngăn cản Israel trở thành nước có nền nông nghiệp
phát triển nhất thế giới, chủ yếu nhờ đi tiên phong trong nghiên cứu khoa học
và ứng dụng các thành tựu khoa học-công nghệ vào sản xuất nông nghiệp.
Đi
thăm các cơ sở nông nghiệp Israel mới thấy trình độ công nghiệp hóa nông nghiệp
và khả năng lập kế hoạch sản xuất, dự báo thị trường của Israel đạt đến trình độ
rất cao. Có lẽ dùng từ “nông dân” đối với họ là không chính xác, mà là công
nhân nông nghiệp. Ngoài ra, đó là sự kết hợp chặt chẽ giữa 4 “Nhà”, gồm: (i)
Nhà nước; (ii) Nhà khoa học; (iii) Nhà buôn; và (iv) Nhà nông. “Nhà nông” ở đây
cần được hiểu là người bỏ vốn đầu tư, tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào quá
trình sản xuất nông nghiệp.
Đất
đai ở Israel được nhà nước quản lý rất chặt chẽ. Nhà ở của dân thì xây trên các
triền núi đá, khó cải tạo thành đất nông nghiệp, còn đất đồng bằng tuyệt đối sử
dụng cho trồng trọt và canh tác. Thậm chí đất hoang mạc, nhưng tương đối bằng
phẳng có thể cải tạo thành đất nông nghiệp thì cũng không được làm nhà ở trên
đó.
Israel
đi tiên phong trên thế giới trong lĩnh vực cải tạo đất hoang mạc, sa mạc thành
đất nông nghiệp trù phú. Quy trình như sau (để đơn giản hóa): (i) San bằng đất
hoang mạc, sỏi đá; (ii) Phủ lên đó 1 lớp đất dày, ít nhất là 1/2 m; (iii) Trồng
các loại cỏ hoặc cây dại không cần tưới nước khoảng từ 3-5 năm, để biến đất chết
thành đất màu; (iv) Sau quá trình cải tạo này, đất hoang mạc biến thành đất
nông nghiệp và được giao cho các chủ đất (nhà đầu tư) để tiến hành sản xuất.
Về
mặt sinh thái, bước vào thế kỷ 21, Israel là nước duy nhất trên thế giới đã mở
rộng được diện tích rừng và quỹ đất nông nghiệp.
Tuy
là nước nhỏ, có 8 triệu dân, nhưng Israel lại có hệ thống đường dẫn nước tái sử
dụng dài nhất thế giới. Toàn bộ lượng nước thải được dẫn trở lại các trung tâm
xử lý, lọc lại, sau đó được dẫn ngược trở lại theo các đường ống để sử dụng tưới
tiêu cho nông nghiệp.
Hệ
thống ống dẫn nước tưới được dẫn đến từng khoảnh vườn, tới từng cây và việc tưới
được vi tính hóa qua hệ thống điều khiển ở trung tâm về thời gian tưới, lượng
nước tưới sao cho phù hợp nhất với thời tiết, độ sinh trưởng của từng loại cây.
Cũng từ trung tâm, các kỹ sư nông nghiệp sử dụng luôn đường ống dẫn nước để dẫn
phân bón hoặc chất dinh dưỡng cần cho cây theo định kỳ.
Tại
đầu từng khoảnh vườn, có bảng ghi chi tiết vườn trồng cây gì, giống nào, từ khi
nào… Nhìn chung các cây trồng (cam, bưỏi, cà chua, ớt.. ) là những loại cây trồng
có năng suất cao, đã được lai ghép cho phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng Israel
là chịu nắng, chịu khô, chịu sâu bệnh nhưng lại cho năng suất cao và chất lượng
quả, trái cây tốt.
Mỗi
cây cam hoặc bưởi trông thấp như vậy nhưng lại rất sai quả và có thể cho đến
vài tạ quả/cây khi đến mùa thu hoạch. Với lợi thế là trồng cây quả nhiệt đới có
chất lượng cao, ổn định, hệ thống kiểm định chất lượng chặt chẽ, ở ngay sát
châu Âu và cung cấp những hoa quả nhiệt đới “trái vụ” khi châu Âu bước vào mùa
đông nên hoa quả Israel có rất nhiều lợi thế về giá và thị trường.
Đây
có lẽ chính là mô hình đầu tư, sản xuất, phát triển và kinh doanh nông nghiệp
mà một nước nông nghiệp như chúng ta cần học hỏi và để làm giàu tại ngay chính
mảnh đất quê hương mình. Nếu so với Israel, có lẽ đất đai miền Trung Việt Nam
còn màu mỡ và có các điều kiện tự nhiên để sản xuất tốt hơn nhiều. Ngay một nước
có nền nông nghiệp phát triển nhất ở khu vực như Thái Lan cũng có hàng ngàn thực
tập sinh lao động trong các trang trại, mà thực chất là lao động xuất khẩu.
Có
điều ít người để ý là trong khi thực tập sinh Việt Nam chăm chỉ làm lụng, tiết
kiệm từng đồng gửi về cho gia đình, vợ con, thì khá nhiều “lao động” Thái là
các “tình báo” nông nghiệp. Họ là các kỹ sư, con cái các chủ nông trại Thái, những
người nuôi chí làm giàu bằng nghề nông và sử dụng thời gian lao động tại Israel
như một hình thức “khổ nhục kế”, âm thầm tìm hiểu quy trình sản xuất, kinh
doanh, quản lý… để tìm đường khởi nghiệp làm giàu cho mình và cho nước Thái sau
này.
Vậy
ta nên và sẽ làm gì? Xin nhường câu trả lời cho các bạn trẻ.
Kinh
Do Thái, lối sống, bản sắc, và tiếng Hebrew
Có
ba câu chuyện ngồi ngẫm lại thấy khá hay và cũng phần nào liên quan đến chủ đề
sắp bàn dưới đây.
CÂU CHUYỆN
1: Công
việc đã xong, nhưng rủi một cái là không thể bay về được vì là ngày Thứ 7 nên
hãng hàng không Israel El Al không làm việc. Nhưng lại có cái may là nhờ đó hiểu
được thêm về kỳ nghỉ cuối tuần Thứ 6 và Thứ 7 (lễ Sabbath, người Do Thái đi làm
từ Chủ nhật đến hết Thứ 5) của người Do Thái. Khi đi trên đường, đặc biệt ngày
Thứ 7, thấy đường phố vắng ngắt và gặp không ít đàn ông Do Thái chính thống
(Jewish Orthodox) mặc bộ đồ đen, đầu cũng đội mũ đen rộng vành, đứng trên vỉa
hè, hai tay cầm quyển Kinh thánh Do Thái đọc lẩm nhẩm hàng tiếng đồng hồ với động
tác hết sức thành kính và giữa trời nắng chang chang, trong khi đầu gật tới gật
lui. Điều này không chỉ gây cho tôi sự ngạc nhiên thích thú, mà còn gợi ra rất
nhiều điều.
CÂU CHUYỆN
2: Trước
đó, khi chia tay Đại sứ Dan Stav, người tháp tùng trong suốt chuyến đi, tôi có
nói rằng “Khi tôi mới đến nơi, ông Đại sứ có nói Bộ Ngoại giao Israel có khoảng
1000 nhà ngoại giao. Giờ đây khi đã xong các cuộc tiếp xúc tôi chỉ đồng ý một nửa.
Các ông không chỉ có 1000 nhà ngoại giao, mà đó còn là 1000 Giáo sư nữa”. Dan
ngửa mặt cười ha hả. Quả thực, hiếm có nước nào, kể cả các cường quốc, lại có
nhiều nhà ngoại giao nắm giữ các vị trí chủ chốt nhưng lại có trình độ khá đều
tay, am hiểu sâu chuyên môn và có thể trình bày vấn đề mạch lạc như một giáo sư
đại học. Không chỉ rành chuyên môn, họ còn thể hiện tác phong hết sức chuyên
nghiệp, động tác mạnh mẽ, dứt khoát.
CÂU CHUYỆN
3: Khi
vào phòng làm việc với Lãnh đạo Bộ Ngoại giao và Bộ Quốc Phòng của họ, tôi hơi
ngạc nhiên khi thấy phòng khách bày biện khá đơn giản, không rõ chỗ ngồi của chủ
và khách. Bèn hỏi cô lễ tân là ngồi thế nào, cô để “Sếp” cô ngồi đâu. Câu trả lời
là: Các ông ngồi thế nào thì tùy và chỉ cần để một chỗ cho ông ấy ngồi là OK.
Sau này mới thấy rõ hơn, trừ một số cuộc gặp phải tuân thủ một số nghi lễ ngoại
giao bắt buộc, việc ngồi tự do (free sitting) tạo không khí thảo luận thoải mái
và bình đẳng giữa chủ và khách, càng ngạc nhiên hơn khi đây cũng chính là cách
người Israel ngồi khi thảo luận nội bộ!
Quay
trở lại Phần 1, tôi thấy rằng các câu trả lời về nguyên nhân thành công của người
Do Thái, sự cố kết của dân tộc này đều khởi nguồn từ 3 yếu tố chính (i) cuốn
Kinh Do Thái (Jewish Bible), (ii) cách thức duy trì Đạo, bản sắc và lối sống Do
Thái; và (iii) tiếng Hebrew. Các vấn đề khác như “gien” và tố chất thông minh của
người Do Thái; tính hiếu học, ham hiểu biết và sáng tạo; cách duy trì và tổ chức
cuộc sống, đời sống xã hội một cách văn minh, lành mạnh của họ đều bắt nguồn từ
3 yếu tố trên. Và cũng thật trớ trêu, đây lại là nguyên nhân chính khiến họ bị
xua đuổi, miệt thị, truy sát trong hơn 20 thế kỷ qua. Tôi cũng nghiệm thấy rất
ít dân tộc, quốc gia có thể học được theo họ, trừ phi anh cũng trở thành… người
Do thái như họ!
Ta hãy đi
từng vấn đề một:
Thứ nhất, Israel là đất
nước duy nhất trên thế giới được định hình bởi 4 yếu tố mang đậm chất Do Thái
là: (i) Dân tộc Do Thái, (ii) Đạo Do Thái, (iii) văn hóa Do Thái, và (iv) Đất
nước Do Thái.
Trong
các tôn giáo trên thế giới, Đạo Do Thái được ghi nhận là đạo có tuổi đời lâu thứ
hai trên thế giới (ra đời cách đây khoảng 3000 năm), sau Đạo Hindu (ra đời cách
đây khoảng 4000 năm). Tuy nhiên, do Hindu là đạo đa thần, nên Do Thái giáo có
thể xem là đạo độc thần (Monotheistic) ra đời sớm nhất thế giới. Đạo Độc thần
là đạo chỉ thờ 1 vị chúa/thần/hoặc thánh duy nhất. Đạo Do Thái chỉ thờ duy nhất
Chúa trời, nên trên bàn thờ trong nhà thờ Do Thái họ trang trí đơn giản, không
thờ người hoặc động vật. Họ cho rằng, người là người, dứt khoát không thể là
chúa hay thánh được và chỉ có một Đức Chúa trời duy nhất. Phải chăng điều này
làm cho người Do Thái cũng như sinh hoạt tôn giáo của họ “dân chủ” hơn do không
bị phân tán, mất bớt quyền lực qua các nhân vật trung gian?
Một
điều rất đặc biệt là trong cuốn Kinh Torah (gồm 5 tập, ghi lại các lời của Nhà
tiên tri Moses) có ghi người Do Thái được Đức chúa trời chọn (the Chosen
People) để truyền đạt thông điệp của Chúa cho các dân tộc khác, dẫn dắt và khai
sáng các dân tộc khác. Người Do Thái rất tin vào điều này, tin vào “sứ mạng” được
Chúa giao phó. Đây có lẽ là động lực lớn nhất khiến người Do Thái luôn tìm cách
đạt đến đỉnh cao của khoa học, phấn đấu đủ tầm trí tuệ “dẫn dắt” nhân loại như
họ nghĩ đã được “Chúa lựa chọn”. Do đó, điểm nổi bật nhất ở người Do Thái là họ
thấy mục đích cao nhất của cuộc sống là sáng tạo, chứ không chỉ là kiếm tiền,
và kiếm tiền cũng như sự giàu có của họ thực ra là hệ quả của các lao động sáng
tạo chứ không phải mục đích mà họ theo đuổi.
Thứ
hai, trong
bất kỳ tôn giáo nào, tính “Giáo điều” đều tồn tại, duy chỉ khác nhau về mức độ.
“Giáo điều” là những điều được ghi trong kinh/kinh thánh hoặc được các Bề trên
giảng và được coi mặc nhiên đúng, không bàn cãi. Tuy nhiên, bản kinh Torah của
người Do Thái lại rất gợi mở để mọi người suy nghĩ, khám phá. Trong 5 cuốn Kinh
Torah thì có đến 4 cuốn nói về luật và 1 cuốn về các vấn đề trong cuộc sống,
sinh hoạt hàng ngày. Torah ghi các vấn đề trong cuộc sống, đặt ra các câu hỏi,
gợi mở để suy nghĩ, nhưng lại không chỉ có một câu trả lời, mà có nhiều câu trả
lời tùy thuộc bối cảnh khác nhau, và thậm chí còn để khoảng trống để mọi người
cho trí tưởng tượng bay bổng với các hỏi và câu trả lời. Trong bữa cơm gia đình
cuối ngày, hoặc trong ngày Sabbath, các thành viên trong gia đình, trong cộng đồng
đọc và tranh luận các điều ghi trong kinh thánh, và có thể chính điều này làm
tăng thêm năng lực trí tuệ, làm cho họ rất giỏi về luật.
Thứ
ba, các
bạn Israel cho biết, cuốn Kinh Torah giống như một cuốn sách khoa học hơn là một
cuốn kinh với các “Giáo điều”. Chẳng hạn, trong Kinh Torah ghi rõ ngày Thứ 7 là
ngày Chúa nghỉ ngơi, nên tất cả mọi người Israel, kể cả các nô lệ và súc vật
không được làm việc trong những ngày này. Ngày lễ Thứ 7 của họ gọi là ngày lễ
Do Thái (Sabbath) được xem là ngày “nghỉ tuyệt đối”, theo đó Chúa khuyên các
thành viên trong gia đình dành thời gian này bên nhau, cùng trò chuyện, đi
chơi, vợ chồng “yêu” nhau, gia đình cùng nhau đi đến nhà thờ (Synagogue). Trong
ngày này, mọi người không được bật lửa (vì thời xa xưa, bật lửa có nghĩa là phải
vào bếp nấu nướng, tức vẫn “đi làm”) và ăn đồ ăn được chuẩn bị từ hôm trước. Thậm
chí thang máy trong các cao ốc cũng để “chế độ Sabath”, tức người Do Thái không
dùng tay bấm nút (biểu hiện của “làm việc”), mà để thang tự chạy automatic và mở
cửa trước từng tầng một từ tầng thấp nhất đến tầng cao nhất của tòa nhà. Ngày
Chủ nhật là ngày làm việc đầu tiên của họ, và điều ngạc nhiên là theo cách gọi
trong Kinh thánh Do Thái các ngày làm việc trong tuần theo tuần tự là các ngày
“sáng tạo”, chứ không phải ngày “đi làm”.
Chỉ bấy
nhiêu thôi cũng gợi ra một số điều thú vị:
·
Ngày
thứ 7 nghỉ tuyệt đối để lấy sức lao động cho các ngày khác trong tuần và đây có
thể là nguồn cảm hứng cho việc đấu tranh đòi quyền của người lao động sau này;
·
Lễ
Sabbath tạo sự gắn kết giữa các thành viên trong gia đình (khi cả nhà cùng ngồi
ăn quay quần bên nhau), và giữa các thành viên trong cộng đồng (khi hàng xóm
cùng kéo nhau đến nhà thờ);
·
Là
cơ sở của việc đấu tranh giành quyền bình đẳng phụ nữ (không lao động trong
ngày Sabbath) sau này, cũng như quyền của động vật;
·
Vợ
chồng “sản xuất” em bé trong ngày nghỉ khi tinh thần thoải mái thì đứa trẻ sau
này cũng sẽ thông tuệ hơn.
Người
Do Thái coi trọng chuyện học hành
Người
Do Thái rất chú trọng đến chuyện học hành và chữ nghĩa của con cái. Cuốn Kinh
Talmud từ cách đây trên 2000 năm đã yêu cầu các ông bố, bà mẹ phải dạy cho con
cái biết đọc, biết viết từ năm lên 6 tuổi. Điều này, cũng như một số giáo lý
khác trong kinh Talmud, được người Do Thái thực hiện hết sức nghiêm túc (sẽ nói
kỹ sau), một phần vì thấy đúng, một phần vì sợ bị cộng đồng xa lánh. Do đó, từ
cách đây trên 2000 năm người Do Thái cơ bản xóa được nạn mù chữ, với trên 90%
người dân biết đọc, biết viết.
Đối
với cuộc sống của con người hiện đại thời nay, điều này là quá sức bình thường.
Tuy nhiên, đặt trong bối cảnh người Do Thái là những người du mục, nông dân, thậm
chí tha phương cầu thực mà vẫn giữ được truyền thống này, trong bối cảnh tới
trên 90% dân châu Âu và các sắc dân khác ở Bắc Phi, Trung Đông ở xung quanh thời
đó mù chữ thì đây quả là điều phi thường. Không chỉ thời nay người Do Thái mới
được trọng dụng và phát huy vai trò, mà vào thời cực thịnh của Đạo Hồi (thế kỷ
IX-XIII) sau Công nguyên, người Do Thái được người Hồi giáo tin dùng và đóng
vai trò nổi trội là các thương gia biết tính toán, “ăn nên, làm ra” với hệ thống
buôn bán kéo dài từ Trung Đông, qua Nam Á và Đông Nam Á, thậm chí tới Thượng Hải.
Vậy
trong điều kiện bị chiếm đóng và lưu lạc, họ duy trì được chữ viết và tiếng nói
của mình ra sao trong hàng ngàn năm mà không bị mai một? Câu trả lời chính là sự
sùng đạo và cuốn kinh Do Thái viết bằng tiếng Hebrew.
Hầu
hết những người Do Thái mà tôi gặp, dù là người Chính thống hay người Do Thái
bình thường, đều nói rằng khi gặp nạn, vật đầu tiên và cũng là vật quý giá nhất
mà người Do Thái đem theo đầu tiên đó chính là CUỐN KINH THÁNH, chứ không phải
bất cứ vật dụng nào khác. Cuốn Kinh thánh Do Thái (Hebrew Bible) đối với họ vừa
là đức tin, vừa là lịch sử, vừa là nguồn tri thức, vừa giúp họ giữ được bản sắc,
vừa giúp họ có tương lai:
Một
là,
sự sùng đạo, khiến người Do Thái phải đọc kinh liên tục, đọc thuộc làu, đọc ở
trong nhà, đọc ngoài đường, đọc ở nhà thờ… giúp người Do Thái giữ được tiếng
nói, nhận diện được ngôn ngữ đặc trưng của mình và được truyền từ đời này qua đời
khác.
Hai
là,
khi lưu lạc sang các xứ khác nhau, ngữ âm của họ có bị thay đổi do phát âm theo
thổ ngữ địa phương, nhưng cơ bản họ vẫn hiểu được nhau dù lang bạt hàng ngàn
năm, và tới tận 73 quốc gia và lãnh thổ khác nhau. Điều đó giải thích tại sao
người Do Thái từ “tứ xứ” đổ về, nhưng đã nhanh chóng gắn kết với nhau ngay sau
khi Israel được tái lập năm 1948.
Ba
là,
không chỉ thạo tiếng Hebrew, mà người Do Thái còn thạo tiếng bản địa nơi họ
sinh sống. Như vậy trên thực tế, người Do Thái sử dụng thông thạo hai ngoại ngữ
từ rất sớm. Khoa học đã chứng minh, những người hoặc nhóm cộng đồng sử dụng được
trên 1 ngoại ngữ thường có chỉ số IQ lớn hơn nhóm, hoặc người sử dụng ít ngôn
ngữ hơn. Không chỉ vậy, kinh thánh không chỉ là phương tiện duy trì ngôn ngữ,
mà còn giúp họ mở mang các kiến thức luật, kinh tế và khoa học thông thường ở
trong đó.
Bốn
là,
niềm ao ước tột cùng trở về Jerusalem cũng được ghi trong Kinh thánh. Thời cổ đại,
dù muốn đi đâu, làm ăn gì, thì người Do Thái cũng quy ước về quần tụ tại
Jerusalem để hành lễ ít nhất là 4 lần 1 năm. Đến nay, truyền thống đó vẫn được
duy trì và người Do Thái ở Israel thường về Jerusalem mỗi năm một lần, còn người
Do Thái ở khắp nơi trên thế giới thì về ít nhất 1 lần trong đời. Kinh Thánh Do
Thái ra đời trong bối cảnh người dân Do Thái đã từng mất tổ quốc, mất Jerusalem
trong một thời kỳ dài từ hàng trăm năm trước đó. Do đó, Kinh Thánh nhắc nhở người
Do Thái rất kỹ về điều này. Truyền thống có từ cả ngàn năm nay và đến nay vẫn
được duy trì trong cộng đồng Do Thái, là khi gặp nhau, hoặc khi viết thư, họ
thường nói đến việc “sớm hẹn gặp nhau tại Jerusalem”, “hẹn gặp tại Jerusalem
vào năm tới”. Do đó, ước nguyện trở về Jerusalem, lấy lại Jerusalem luôn cháy
bóng trong mỗi người Do Thái và họ không bao giờ quên điều này khi tha hương.
Đạo
Do Thái và việc duy trì nòi giống
Việc
thực hiện nghiêm ngặt các phong tục tập quán của Do Thái giáo giúp người Do
Thái sàng lọc gien “xấu”, lấy và nhân giống gien “tốt”. Thực ra, không chỉ người
Do Thái làm vậy, mà các dân tộc khác như ngoài Hoa và Việt Nam cũng có những vần
thơ để chọn người xứng đôi, vừa lứa như “Trai anh hùng, gái thuyền quyên”, “Nữ
tuệ tam tài nguyên thị đối” (Gái giỏi trai tài nom thật đối), v.v…. Chắc chắn
đây không chỉ là chuyện “tâm đầu, ý hợp” của trai gái, mà còn liên quan đến việc
duy trì nòi giống sau này.
Nếu
như người Đông Á chỉ dừng lại ở mức “khuyên răn” thì người Do Thái đã “luật
hóa” và “hệ thống hóa” được việc chọn lọc có chủ đích thay cho việc chọn lọc tự
nhiên, vô thức để “hoàn thiện” và “phát triển” gien của mình:
Một là, trong Đạo Do thái, Giáo sĩ (các Rabbis) là những
người được chọn từ những người thông minh nhất. Các Rabbis là người diễn giải
Kinh thánh có uy tín và trọng lượng nhất, duy trì các giá trị “chính thống” và
được xã hội hết sức trọng vọng. Tuy là thầy tu, nhưng các Rabbis vẫn có con như
những người bình thường, và thậm chí có rất nhiều con. Do có uy tín cao trong
xã hội, nên họ dễ dàng chọn hôn thê và hôn thê được họ ưu tiên chọn thường là
con cái của các học giả (scholars), rồi sau đó mới đến con các nhà buôn.
Hai là, không chỉ các Rabbis chọn như vậy, kinh thánh
Do Thái thậm chí còn khuyên mọi người là nếu có tiền của thì hãy tìm cách cho
con cái của mình lấy con gái của các học giả. Kinh thánh khuyến khích người Do
Thái sinh nhiều con, cho rằng sinh 13 con thì sẽ có nhiều may mắn. Nhưng trên
thực tế lại có các “phanh hãm” đối với người nghèo, người ít học là sinh ra con
cái nhưng phải đảm bảo các điều kiện kinh tế và tài chính. Chính điều này làm
cho người nghèo, người ở tầng lớp thấp không “sinh tràn lan”, mà sinh có trách
nhiệm và số người này chiếm tỷ lệ ngày một ít đi trong so sánh tương đối với những
người có “gien” tốt, hoặc có điều kiện vật chất tốt hơn. Trải qua hàng ngàn năm
chọn lọc có điều kiện như vậy nên việc có được nhiều gien tốt trong người Do
Thái là điều dễ hiểu.
Ba là, trong quan niệm Do Thái chính thống, và ngay
tại các khu vực người Do thái chính thống sinh sống hiện nay tại Israel, phụ nữ,
con gái không bao giờ được “bén mảng” đến Nhà thờ. Trái lại, đàn ông dù bận
công việc đến mấy cũng tìm cách đến nhà thờ vào lúc 6h chiều hàng ngày để làm lễ
trước khi về nhà. Tuy nhiên, phụ nữ Do Thái lại được xem là có “quyền năng” tuyệt
đối trong việc duy trì nòi giống. Con của một phụ nữ Do Thái đương nhiên được
coi là người Do Thái, còn con của người đàn ông Do Thái với một phụ nữ không phải
Do Thái thì chỉ được coi là người Israel (nếu như sống ở Isael), chứ không được
coi là người Do Thái. Thời xa xưa, việc gia đình người Do Thái có một cô con
gái lấy chồng không phải người Do Thái bị coi là “nỗi nhục” của cả gia đình và
dòng họ, và người bố “từ con” bằng cách đào một nấm mộ giả coi như đứa con mình
dứt ruột đẻ ra đã chết.
Nhiều
nhà thần học mà tôi có điều kiện tiếp xúc cho rằng Đạo Do Thái hiện là một
trong số ít tôn giáo “giữ” được “kỷ cương” khá tốt. Tuy nhiên vẫn còn có nhiều
ý kiến khác nhau xung quanh câu chuyện này và cần nghiên cứu sâu hơn mới có câu
trả lời thỏa đáng. Quả thực, bất kỳ tôn giáo lớn hoặc quan trọng nào đều đứng
trước 3 thách thức lớn trong quá trình phát triển, đó là:
·
Duy
trì được sự thống nhất, giữa các dòng, nhánh, xu hướng khác nhau trong cùng một
tôn giáo, duy trì một đức tin chung trong thể thống nhất. Ví dụ, sự phân liệt
rõ nhất thể hiện ở Đạo Hồi hiện nay với các dòng Shia, Suni, rồi nhánh Wahabis
thuộc Suni, nhánh Alewite, Druze thuộc dòng Shia…, mà dòng, nhánh nào cũng cho
mình mới là “chính thống”, còn những dòng, nhánh khác là “ngoại đạo”, cần bị loại
bỏ để làm “trong sạch” Đạo Hồi;
·
“Đồng
hành” cùng xã hội hiện đại, nhưng vẫn duy trì các giá trị, các nguyên tắc “cốt
lõi” (tức tính chất “chính thống”, mặc dù việc diễn giải và tự nhận các tính chất
này còn nhiều điều phải bàn);
·
Tránh
việc tạo ra một tầng lớp “tăng lữ” mới, với các đặc quyền, đặc lợi, hủy hoại
chính tôn giáo của mình.
Do Thái
giáo cũng không phải là ngoại lệ, nhưng ít gặp các “vấn nạn” ở trên hơn, do:
·
Ngay
khi ra đời, Do Thái giáo đã không có “vấn nạn”, đưa đến sự kình chống nhau sâu
sắc giữa các dòng tu. Đạo Hồi chẳng hạn, ngay sau khi Nhà tiên tri Mohamed qua
đời, sự giằng xé giữa những người cho rằng cần phải chọn người thừa kế hoặc có
dòng màu trực hệ để “hướng đạo” hạy chọn những người có khả năng nhất trong việc
kế thừa và phát triển di sản của Mohamed đã đưa đến việc phân chia Hồi giáo
thành 2 nhánh lớn là Shia và Suni. Do Thái giáo cũng có những dòng hết sức cực
đoan, thậm chí không công nhận Nhà nước Israel, nhưng họ vẫn hợp tác, và không
đi đến chỗ đối đầu nhau bằng bạo lực. Những người có tác dụng giữ sự hòa hợp và
thống nhất Đạo Do Thái là các giáo sĩ và Hội đồng giáo sĩ.
·
Trong
hệ thống luật dân sự của Israel, còn có luật Do Thái Halakha tương tự như luật
Sharia của Hồi giáo mà một số nước như Arab Saudi, Brunei… áp dụng. Halakha bao
gồm 613 điều răn (commandments) với hệ thống tòa án riêng, và các “bản án” tôn
giáo đối với người có đạo thậm chí còn đáng sợ và nghiêm khắc hơn các bản án
dân sự. Luật Halakha tồn tại trong mọi ngóc ngách của đời sống xã hội, can thiệp
sâu và điều chỉnh rất nhiều quy tắc, tập tục của đời sống xã hội. Nếu không
tuân theo Halakha, các Rabbis có quyền rút “Phép thông công” (excommunicate) –
tương đương với một bản án tử hình – và điều này cũng đồng nghĩa với việc khi
qua đời, linh hồn người chịu hình phạt đó không được bay lên Thiên đàng.
·
Người
theo Đạo chính thống Orthodox tin và tự chọn cho mình lối sống theo các giá trị
truyền thống và nguyên tắc nguyên thủy. Tuy nhiên, họ không tìm cách áp đặt lối
sống của mình hay kỳ thị những người thế tục. Bản thân các Giáo sĩ (Rabbis) và
những người Orthodox không được hưởng đặc quyền, đặc lợi, họ thỏa mãn với cuộc
sống thanh bạch của mình. Trong đạo Hồi chẳng hạn, những người Wahabbis cũng có
cuộc sống thanh bạch, khắc khổ, nhưng điều nguy hại là họ lại tìm cách áp đặt lối
sống của mình lên những dòng, nhánh khác.
·
Khác
với các Đạo giáo khác là tìm mọi cách truyền đạo để mở rộng thành viên, càng
nhiều càng tốt. Tuy nhiên, để trở thành một người Do Thái rất khó, phải có căn
cứ, bằng chứng xác nhận tới ít nhất 4 đời trước đó và quy theo mẫu hệ. Họ cho rằng,
đã là “thiên sứ nhà trời”, “được chúa chọn” thì chỉ có ít người được hưởng vinh
dự, chứ đâu có thể kết nạp tràn lan, cứ vào đến synagogue (nhà thờ Do Thái) là
trở thành Do Thái ngay được.
Trong
những điều kiện khắc nghiệt thời kỳ Đế quốc La mã là bá chủ khu vực Trung Đông,
để tránh bị truy đuổi và tận diệt, người Do Thái buộc phải cải đạo sang đạo
Thiên chúa. Tuy nhiên họ lại cải đạo trở lại thành người Do Thái khi điều kiện
cho phép. Bản thân Hitler là người rất căm thù dân Do Thái, một cộng đồng đoàn
kết nhưng sống tách biệt với người bản xứ. Trong con mắt Hitler, đã sinh ra là
một người Do Thái thì sẽ luôn luôn là một người Do Thái, cải đạo chẳng giúp ích
gì, và quyết truy sát 1 người nếu tìm được bằng chứng trước đó 4 đời họ là người
Do Thái.
Tản
mạn thay lời kết: Chuyện ăn uống và tố chất của người Do Thái
Đồ
ăn Kosher (Kosher food) là đồ ăn được chế biến và ăn theo kiểu Do Thái. Đối với
người Do Thái Chính thống, việc sử dụng Kosher là điều gần như bắt buộc, còn đối
với người thế tục thì tùy lựa chọn. Các canteen phục vụ tai các cơ quan chính
phủ Israel như Bộ Ngoại giao hay Bộ Quốc phòng nghiễm nhiên là các nhà hàng phục
đồ ăn Kosher. Đồ ăn Kosher hiện ngày càng trở nên phổ biến tại Israel và trên
khắp thế giới và không chỉ người Do thái chính thống mới dùng. Hiện nay, có
100.000 loại thực phẩm Kosher khác nhau được bán trên phạm vi toàn thế giới.
Vậy
Kosher là gì và ăn như thế nào? Trong Halakha quy định rất rõ, chi tiết và khá
phức tạp, nhưng chung quy lại có một số điểm chính:
Về các thức
ăn Kosher:
·
Một
số con vật ăn được: chỉ ăn những con vật có móng chẻ, ăn cỏ và nhai thức ăn lại
như bò, dê, cừu. Các con vật không ăn được là lợn, ngựa, và lạc đà. Lợn tuy
có móng chẻ nhưng không nhai lại, còn ngựa, lạc đà tuy ăn cỏ nhưng không có
móng chẻ.
·
Ăn
các loài có cánh như gà, vịt, ngỗng, bồ câu… Không ăn các loài chim ăn thịt như
diều hâu, chim ưng, đại bàng.
·
Ăn
các loài cá có vây và vẩy như các hồi, cá ngừ, cá trích… Không ăn các con cá
không vảy như lươn, các trê, cá tầm, tôm, tép, nghêu sò, ốc hến, các loài bò
sát, côn trùng.
·
Các
thức ăn trung tính như trái cây, nước trái cây, ngũ cốc, trứng gà vịt, mật ong,
rượu vang, chè, café.
Về cách ăn
đồ Kosher:
·
Chỉ
uống sữa và các vật phẩm chế biến từ sữa của các con vật Kosher như bò, dê, cừu.
Chỉ được dùng sữa và các vật phẩm chế từ sữa 6 tiếng sau khi dùng thịt, hoặc 30
phút trước khi ăn thịt chứ không được ăn, uống đồng thời. Đồ chế biến sữa và thịt,
kể cả chậu rửa bát nhất thiết phải dùng riêng.
·
Lúa
mì, gạo, và một số loại rau, củ nhất định thì ăn được. Không ăn, uống nước trái
cây hoặc đồ chế biến từ các loại loại quả như cam, quýt, bưởi… dưới 3 tuổi.
·
Không
ăn nội tạng động vật hay gia cầm; không ăn phần phía sau của con thú và không
ăn thịt, cá đồng thời.
·
Khi
ăn thịt phải lấy hết sạch máu và người chế biến phải học cách giết con vật sao
cho con vật chết nhanh nhất, không đau đớn, nhưng lại ra được hết tiết. Thậm chỉ
còn phải rửa sạch và ngâm miếng thịt trong nước 30 phút trước khi chế biến để
ra hết máu,
·
Các
nhà hàng Kosher nhất thiết phải do đầu bếp Do thái chính thống trực tiếp nấu nướng
và bị phạt rất nặng, kể cả tước giấy phép kinh doanh, hành nghề nếu vi phạm.
Có
lẽ trên thế giới không có dân tộc nào có kiểu ăn “kiêng, khem” phức tạp và rườm
rà như người Do Thái chính thống. Các nhà hàng phục vụ đồ ăn Kosher thường đắt
hơn từ 20-30% so với nhà hàng thông thường, vậy mà lúc nào cũng đông khách ăn.
Theo
tôi, đây không chỉ là đồ ăn kiêng của người Do Thái, mà THỰC CHẤT KOSHER LÀ ĐỒ
ĂN, CÁCH ĂN THÔNG MINH, KHOA HỌC, THẬM CHÍ LÀ LÝ TƯỞNG không chỉ của người Do
Thái, mà của con người nói chung. Nếu chỉ khuyên nhủ thông thường sẽ ít người
theo, nhưng khi khoa học được “phủ” một lớp màu tôn giáo thì Kosher đã trở nên
thành món ăn kỳ ảo, mê hoặc và quyến rũ.
Tạm cắt
nghĩa một số thứ:
·
Theo
người Do Thái, con vật cũng như con người đều có linh hồn. Nếu làm cho con vật
chết đau đớn thì nó sẽ oán trách và cả người thịt lẫn người ăn nó đều bị “quở
phạt”. Do đó, giết nhanh để con vật mau chóng được hóa kiếp lên thiên đàng.
·
Khi
con vật cắt được tiết nghĩa là con vật còn tươi, chứ không phải ăn đồ ôi. Thú
tính và sự ngu muội của con vật nằm ở “dòng máu”, và ăn thú vật hay gia cầm có
tiết sẽ làm con người lâu dần nhiễm “thú tính” và đầu óc trở nên trì độn, còn
nòi giống đi đến chỗ thoái hóa.
·
Thịt
ăn cùng với cá không còn tác dụng bổ dưỡng nữa, mà triệt tiêu lẫn nhau. Còn
trái cây trong 3 năm đầu thường chứa nhiều chất, độc tố có hại cho cơ thể.
·
Uống
sữa sau khi ăn thịt không tốt cho sức khỏe vì bản thân thịt nhiều chất đạm, lâu
tiêu lại có thêm chất bổ dưỡng khác nữa làm cho cơ thể không thể hấp thụ nổi và
dễ sinh bệnh.
·
Trong
điều kiện thiên nhiên hết sức khắc nghiệt của vùng Bắc Phi – Trung Đông, việc
ăn uống tốt giúp người Do Thái chống chọi tốt hơn với khí hậu khắc nghiệt, làm
cho không chỉ thể trạng khỏe khoắn mà trí tuệ của họ cũng hơn người. Các cụ nhà
ta chả nói bệnh vào từ mồm đó sao?
Như
vậy, trải qua cả ngàn năm, với cuốn Kinh Thánh Hebrew, người Do Thái không chỉ
thành công trong việc bảo tồn, mà còn phát triển bản sắc, văn hóa, tôn giáo của
mình. Không những vậy, thông qua ăn uống, cuộc sống tinh thần lành mạnh, làm
cho “gien Do Thái” vốn đã ưu việt, ngày một trở nên ưu việt hơn. Khác với các
tôn giáo khác, người Do Thái không tìm cách phát triển tôn giáo của mình qua
con đường truyền đạo như Đạo Hồi, Đạo Thiên chúa, hay Đạo Phật, mà tìm cách giữ
sao cho Do Thái giáo càng “thuần khiết” càng tốt. Phải chăng những người được
Chúa “chọn mặt gửi vàng” đâu có thể phát triển tràn lan được!
Có
lẽ chính vì vậy mà cách đây từ trên 3.000 năm Nhà tiên tri Moses của người Do
Thái đã lường trước điều này khi ông, ngay từ khi đó, đã hình dung ra rằng nếu
người Do Thái làm theo các lời răn dạy của ông thì họ sẽ trở thành đối tượng bị
săn đuổi và tận diệt của nhiều sắc dân khác và vì vậy đã chuẩn bị cho họ hành
trang đầy đủ trong cả ngàn năm thiên di trước khi “trở về Jerusalem”. Điều ngạc
ngạc nhiên là người Do Thái không than thân, trách phận mà họ coi đó là “sự thử
thách” của Chúa trời đối với dân tộc Do Thái!
---------------------------------
TS. Hoàng
Anh Tuấn là
Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chiến lược và Ngoại giao, Bộ Ngoại giao Việt
Nam. Bài viết tổng hợp những ghi chép đăng lần đầu trên trang Facebook của
tác giả về chuyến công tác tới Israel gần đây, thể hiện quan điểm cá
nhân, không phải quan điểm của cơ quan nơi tác giả công tác.
[efb_likebox fanpage_url=”DAnghiencuuquocte” box_width=”620″ box_height=””
locale=”en_US” responsive=”0″ show_faces=”1″ show_stream=”0″ hide_cover=”0″
small_header=”0″ hide_cta=”0″ ]
No comments:
Post a Comment