Sự sụp đổ của Miền Nam Việt Nam - trách nhiệm và hậu quả
23/09/2023
https://www.danchimviet.info/su-sup-do-cua-mien-nam-viet-nam-trach-nhiem-va-hau-qua/09/2023/29694/
I - Ai chịu trách nhiệm việc Miền Nam sụp đổ?
“Quốc Gia Hưng Vong Thất Phu hữu trách”. Khi mất
nước, tất cả mọi người dân đều phải chịu trách nhiệm. Mỗi người hãy tự vấn,
“mình đã làm gì khi tổ quốc lâm nguy?”
Nhưng dù sao, người lãnh đạo, chỉ huy, tức là
người có quyền ra quyết định sẽ phải chịu trách nhiệm trước hết và trên hết. Trận
chiến ở Cao Nguyên đã mở đầu cho sự sụp đổ của miền Nam, như vậy vị Tư Lệnh
Vùng 2, Thiếu Tướng Nguyễn Văn Phú phải là người chịu trách nhiệm trước tiên.
Tướng Phú đã đơn phương quyết định phòng thủ Pleiku, Kontum; phòng thủ nhẹ ở
Ban Mê Thuột, vì ông tin rằng, khác với dự đoán của Phòng 2 (Phòng Tình Báo), địch
quân sẽ đánh Pleiku, nơi đặt đại bản doanh của ông. Chưa biết nếu tin theo đề
nghị của Ban Tham Mưu để tăng cường phòng thủ Ban Mê Thuột thì có thể cầm cự được
không, nhưng chắc chắn đối phương không thể đột nhập chiếm Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu ở
Trung Tâm thành phố chỉ trong 1 tiếng đồng hồ, rồi sau đó Tiểu đoàn 82 BĐQ đã đột
nhập vào trung tâm thành phố áp sát đối phương, nhưng phải rút lui vì không có
tăng viện. Cuối cùng đối phương đã làm chủ toàn thành phố một cách dễ dàng vào
trưa hôm sau.
Người kế tiếp chịu trách nhiệm là Tổng Thống
Nguyễn Văn Thiệu. Ông đã không làm tròn nhiệm vụ của cấp chỉ huy khi không yểm
trợ được cho Tướng Phú. Cuốn “The Decent Interval” của Frank Snepp (trg. 193)
ghi: “Ở hội nghị Cam Ranh, ông Phú cho Tổng thống Thiệu biết rằng tất cả mọi
con đường xuống vùng duyên hải đã bị đối
phương ngăn chặn. Ông chỉ có thể giữ được Cao Nguyên khoảng hơn một tháng nếu
có quân tăng viện, đạn dược và không yểm. Nghe vậy Tổng thống Thiệu nhìn Tướng
Phú và lắc đầu: Không có gì hết, không có quân, không có thiết bị. Quân đội
đang bị rải ra khắp nước, các kho dự trữ cần được giữ ở gần những vùng cần bảo
vệ. Như vậy không có cách gì tăng cường phòng thủ Pleiku, Kontum. Cách duy nhất
là bỏ hai tỉnh này, đưa quân xuống củng cố vùng Duyên Hải và hỗ trợ cho cuộc phản
công lấy lại Ban Mê Thuột.” Rút cách nào và bao giờ rút Tổng thống Thiệu không
chỉ thị mà để Tướng Phú quyết định.
Chiến tranh Việt Nam ngoài tính chất nội chiến
còn là chiến tranh ủy nhiệm (Proxy War). Miền Nam bị Hoa Kỳ, lãnh đạo Phương
Tây, xúi giục. Miền Bắc bị Liên Xô, Trung Cộng xúi dục. Hoa Kỳ đã ủy nhiệm Miền
Nam làm tiền đồn của Thế Giới Tự Do ngăn chặn sự bành trướng của Đế Quốc Cộng Sản
thì Hoa Kỳ có trách nhiệm phải yểm trợ đầy
đủ. Nhưng sau khi hòa hoãn với Trung Cộng năm 1972 thì Hoa Kỳ lơ là đồng
minh Việt Nam Cộng Hòa, rồi cuối cùng
thì bỏ rơi luôn. Như vậy trách nhiệm phải là chính phủ Hoa Kỳ.
Ở Mỹ, Quốc Hội nắm quyền quyết định chính sách
qua quyền quyết định ngân sách, như vậy, Quốc hội Hoa Kỳ, với tư cách cơ quan
có quyền hạn cao nhất, cũng là cơ quan có trách nhiệm.
Trong Quốc Hội, những Dân Biểu, Nghị Sĩ lại bị
ảnh hưởng bởi các nhà báo. Các vị này luôn viết bài không chính xác, thiên lệch
có hại cho Miền Nam. Bởi thế chính các nhà báo Hoa Kỳ và Phương Tây cũng phải
chịu trách nhiệm trong sự sụp đổ của miền Nam.
Đứng ngoài hệ thống chỉ huy quốc gia, tuy
không có quyền nhưng uy tín của những trí thức lớn khuynh tả Phương Tây như
Jean Paul Sartre, Bertrand Russell v…v đã góp phần kêu gọi thế giới ủng hộ miền
Bắc, giúp họ chiến thắng. Như vậy chính họ cũng phải chịu trách nhiệm về sự sụp đổ của miền Nam.
Trước 1975 lý thuyết Karl Marx là vô địch, đã ảnh
hưởng phần lớn trí thức khuynh tả Phương Tây, kéo theo đám đông quần chúng sẵn
sàng biểu tình ủng hộ miền Bắc, một vùng đất cộng sản. Trong một khóa đào tạo
sĩ quan chiến tranh chính trị cấp trung đoàn năm 1969, khi mãn khóa, Đại tá Lâm
Ngươn Tánh, chỉ huy trưởng trường Đại Học Chiến Tranh Chính Trị Đà Lạt đã có cuộc
tiếp xúc với từng nhóm nhỏ 3 sĩ quan học viên, Đại Tá Tánh hỏi, “Các anh thấy
có thể mang các điều học hỏi ở trường này về áp dụng trong đơn vị được không?”
Hai vị sĩ quan kia hăng hái trả lời, “Dạ được! Khi về đơn vị chúng tôi sẽ mang
những điều học hỏi ở trường này về áp dụng trong đơn vị.” Đại tá Tánh tỏ vẻ phấn
khởi. Nhưng tới phiên tôi, thì cả Đại tá chỉ huy trưởng với 2 sĩ quan đồng khóa
tròn mắt ngạc nhiên. Tôi trình bày với Đại Tá chỉ huy trưởng rằng, “Thưa Đại
tá, chương trình học gồm 2 phần. Phần Tâm Lý Chiến có mục đích giúp vui cho anh
em quân nhân thì tôi thấy hữu ích; còn phần chính huấn tôi thấy không áp dụng
được gì.” Tất cả im lặng tiếp tục dồn ánh mắt về tôi. Tôi tiếp tục, “Lý thuyết
Mác xít là một lý thuyết tổng hợp triết lý, chính trị, kinh tế, xã hội, và lịch
sử rất chặt chẽ. Hiện nay ngoài những phản biện đơn lẻ về kinh tế và triết lý,
chưa có một lý thuyết tổng hợp nào đánh đổ hệ thống Mác xít. Khuyết điểm đó không
phải của riêng trường này, cũng không phải của riêng Việt Nam, mà của toàn thế
giới.” Đại Tá Chỉ Huy Trưởng không nói gì, lặng lẽ nói cám ơn rồi bắt tay chúng
tôi tạm biệt.
Chưa kể, bản tuyên ngôn cộng sản của Karl Marx
và Engels có câu cuối hết sức thu hút tầng lớp nghèo, chiếm đa số trên thế giới,
đặc biệt tại Việt Nam, “Vô sản khắp thế giới hãy đoàn kết lại! Chúng ta không
có gì để mất ngoài xích xiềng.” (“The proletarians have nothing to lose but
their chains. They have a world to win. Workingmen of all countries, unite.”) Sự
hấp dẫn của lý thuyết Mác xít đã khiến Miền Nam phải sụp đổ.
Như vậy sự sụp đổ của miền Nam chính là sự thất
bại của thế giới Tự Do– Nguyên nhân là sự “ngu muội” của nhân loại. Miền Nam chỉ
là một thành phần của thế giới tự do nên sụp đổ theo là đương nhiên.
II - Hậu quả của sự sụp đổ của Miền Nam Việt Nam.
Tại sao cùng bị chia cắt nhưng Tây Đức và Nam
Hàn đứng vững? Về chính trị thì ba quốc gia bị chia cắt giống nhau nhưng về địa
thế (địa chính trị) và văn hóa thì khác nhau, cho nên mỗi dân tộc có một định mệnh
khác nhau. Địa chính trị của Nam Việt Nam như thế thì số phận của miền Nam phải
như thế! Dù cho ai lên lãnh đạo cũng không xoay chuyển được số phận. Đây không
phải là thuyết định mệnh mà là lý thuyết địa chính trị (geopolitics, một ngành
khoa học khảo cứu ảnh hưởng của địa lý–gồm cả môi trường, tài nguyên và văn
hóa– trên chính trị quốc nội và quan hệ quốc tế). Chỉ khi nào văn hóa nhân loại
thay đổi thì chính trị quốc tế mới thay đổi. Miền Nam xụp đổ vì trình độ chung
của nhân loại, nhưng cũng là yếu tố khởi đầu cho sự thay đổi văn hóa của nhân
loại theo chiều hướng tốt hơn. Sự xụp đổ của miền Nam đã giúp nhân loại (thế giới tự do) tỉnh ngộ, kéo theo sự tỉnh
ngộ và sự thay đổi thể chế ở toàn khối cộng sản.
Cùng với sự chiếm đoạt miền Nam của cộng sản,
hàng triệu người miền Nam bất chấp hiểm nguy của bão tố, hải tặc đã ào ạt ra
đi. Hàng trăm ngàn người đã vùi thân trên biển cả. Hàng triệu người khác đã sống
sót sau vùi dập từ địa ngục trần gian bởi đói khát lênh đênh trên biển cả dưới
trời giông bão. Hàng chục ngàn người khác bị hải tặc giết hại, bắt cóc, hãm hiếp,
hành hạ. Trước thảm trạng thuyền nhân nạn nhân của cộng sản, thế giới đã mủi
lòng thương xót dang vòng tay cứu vớt. Ngày 20 Tháng Bảy, 1979, tại thành phố
Geneve, Thụy Sĩ, 65 quốc gia đã họp bàn tìm cách cứu giúp thuyền nhân Việt Nam.
Kể từ đó nhân loại mới hiểu sự tàn ác của cộng sản. Văn hóa nhân loại thay đổi
tất yếu đưa tới sự thay đổi xã hội. Sự thay đổi văn hóa tiệm tiến nhưng có khả
năng lan rộng. Không biết trong các thay đổi xã hội ở Đông Âu cộng sản có mấy
phần trăm do ảnh hưởng của thảm trạng thuyền nhân nạn nhân của cộng sản Việt
Nam? Nhưng trong một thế giới toàn cầu thì ảnh hưởng hỗ tương về văn hóa là chắc
chắn xảy ra. Từ một thế giới đa số ủng hộ cộng sản, chỉ một thời gian sau thảm
trạng thuyền nhân Việt Nam, thế giới đã quay 180 độ, kéo xập đổ khối cộng sản
Đông Âu, rồi tiếp đến là xây những tượng đài tưởng niệm hơn 100 triệu nạn nhân
của cộng sản, trong đó có người Việt. Một cách hình tượng, có thể ví trong giai
đoạn chiến tranh Việt Nam, thế giới đang mông muội ở trong thời kỳ Trung cổ
(The Middle Ages). Khi miền Nam sụp đổ, làn sóng thuyền nhân Việt Nam tị nạn cộng
sản đã khiến thế giới tỉnh mộng, xét lại những giá trị cũ, tương tự như trong
thời kỳ Phục Hưng của Âu châu (The Renaissance). Mười bốn năm sau, 1989, thế giới
chuyển mình sang thời kỳ Ánh Sáng (The Enlightenment): Cộng sản Đông Âu sụp đổ.
Kể từ đó chủ nghĩa cộng sản bị toàn thể thế giới loại trừ, một bức tường Tưởng
Niệm hơn 100 triệu nạn nhân cộng sản trên khắp thế giới đã được dựng lên tại thủ
đô Hoa Kỳ, Washington, D.C. ngày 12/6/2007.
Như thế, Miền Nam Việt Nam có số phận vừa bi
đát vừa đóng góp vào việc soi sáng cho thế giới!
Nguyễn Tường
Tâm
No comments:
Post a Comment