Trần Văn Chánh
08/09/2023
https://baotiengdan.com/2023/09/08/chon-huong-di-nao/
Từ khi hai nước cựu thù Mỹ-Việt bình thường hóa quan hệ ngoại giao năm
1995 đến nay, đã có 4 đời tổng thống Mỹ sang thăm Việt Nam, mà lần đầu là của tổng
thống Bill Clinton, năm 2000.
Do vai trò quốc tế quan trọng của Mỹ, chuyến thăm thứ 5 sắp tới đây của
tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden dự kiến sẽ diễn ra trong hai ngày 10 và 11 tháng
9-2023 sắp tới, đang trở thành một câu chuyện thời sự nóng bỏng không chỉ riêng
của Việt Nam mà còn của cả thế giới, trong bối cảnh lịch sử chính trị toàn cầu
hiện đại đã và đang đối đầu với rất nhiều sự kiện phức tạp nổi bật mà chính
sách hành động trong quan hệ quốc tế của đại cường quốc Hoa Kỳ luôn được mọi
người tập trung theo dõi.
Chưa cần nói sự qua lại nhiều lần và liên tục của các chính khách Mỹ,
cũng như của chính giới phương Tây. Thời gian gần đây, xuất phát từ lý do thực
dụng nào của họ, điều đáng xác nhận đầu tiên là chính sách ngoại giao của Việt
Nam từ hơn 20 năm nay đã đạt nhiều tiến bộ theo hướng mở cửa ra với thế giới
bên ngoài, và Việt Nam quả thật cũng có vị trí địa chính trị vô cùng lợi hại,
cũng như vai trò quan trọng của nó gắn với vị trí chiến lược này trong đại cục
chính trị-kinh tế toàn cầu nhiều biến động, đặc biệt đối với khu vực Châu
Á-Thái Bình Dương và Đông Nam Á.
Đại cường quốc Hoa Kỳ từ lâu nhận ra giá trị đặc biệt của Việt Nam, và
đã tỏ ra “xuống nước”, tạm quên hết mọi thứ cựu thù; thiết nghĩ Việt Nam cũng
nên có một thái độ đáp ứng quân tử tương xứng, không nên tiếp tục “làm trời”
khi cứ mãi cho rằng mình đã từng đánh bại một đại đế quốc, mà thực chất của sự
đánh bại vẫn còn nhiều mặt tranh cãi …
Thời cuộc hiện nay đã có nhiều nội dung mới, khác hẳn 50-70 mươi năm về
trước. Từ chuyến thăm được loan báo trước của Joe Biden, người ta lại bắt đầu
đưa ra bình luận và dự đoán đủ thứ, hấp dẫn không khác gì bình luận một trận cầu
quốc tế quan trọng: Lần này quan hệ Mỹ-Việt sẽ nâng lên tới cấp nào (chiến lược,
chiến lược toàn diện?); sự kiện nâng cấp quan hệ hai nước, nếu được hiện thực
hóa như nhiều người hy vọng thì có bị Trung Quốc tìm cách “phá đám” hay không
(như họ vẫn thường làm)? …
Nhưng có một câu hỏi quan trọng, tổng quát hơn, đã từ lâu luôn được đặt
ra một cách âm thầm hoặc bán công khai, đó là Việt Nam nên nghiêng về phía
phương Tây nhiều hơn hay về phía Trung Quốc nhiều hơn, và nghiêng theo kiểu nào
cho ổn, để không gặp khó khăn ảnh hưởng tai hại trực tiếp đến quyền lợi của đất
nước?
Đứng về mặt công khai chính thức của nhà cầm quyền thì câu hỏi trên đây
đã có đáp án rõ rệt, với đường lối tạm coi là khôn ngoan đúng đắn: Việt Nam
không chọn phe, không liên minh với một nước để chống lại nước thứ ba; đoàn kết
hòa bình với mọi quốc gia trên thế giới, trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền
lãnh thổ của mọi nước, lấy luật pháp quốc tế làm nền tảng…
Nhưng nếu đứng trên phương diện phi công khai (có nghĩa âm thầm làm,
không tuyên bố) thì lại có nhiều biểu hiện thực tế khác: Từ lớp mẫu giáo, người
dân Việt mọi tầng lớp khi có điều kiện đều đã cho con em học tiếng Anh với số
trường học mọc lên như nấm sau mưa, thậm chí không ít cơ sở đào tạo tiếng Anh
còn đặt tên cho trường mình là “Anh văn Hội Việt-Mỹ” để thu hút khách; các nhà giàu có hoặc khá giả mà chủ yếu là giới
doanh nhân thành đạt và giai cấp mới “tư sản đỏ” (đương chức hoặc đã nghỉ hưu hạ
cánh an toàn) phần nhiều đều cho con em đi du học (hay còn gọi “tị nạn giáo dục”)
ở các nước Anh, Mỹ, Pháp, Đức, Hà Lan, Úc…, trong đó Mỹ chiếm số lượng sinh
viên cao nhất. Các quan chức Việt Nam chủ yếu làm giàu bằng tham nhũng phần nhiều
cũng đã chuẩn bị nhà cửa, đất đai, tài sản ở các nước phương Tây hoặc nước Châu
Á nhưng giàu có và theo chế độ dân chủ, như Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, chẳng
hạn…
Trái lại, hầu như rất ít ai thích đi du học hoặc xin định cư tại Trung
Quốc, trừ một số trường hợp đặc biệt do những mối ràng buộc chính trị, cũng khá
đặc thù Trung-Việt.
Thực tế cũng cho thấy, người Việt Nam có vẻ dành tình cảm của mình nhiều
hơn cho thế giới phương Tây. Mỗi khi nghe tin có tổng thống nước lớn nào sang
thăm, những người dân Việt có quan tâm ít nhiều chính sự, đều trở nên xôn xao
bàn tán, thậm chí một số thường dân, nhất là giới trẻ ở TP. HCM và Hà Nội còn tự
phát tụ tập từ sân bay quốc tế, kéo dài cả cây số, để vẫy tay đón chào. Trong
khi đó, họ hoàn toàn dửng dung, không ngó ngàng gì tới các lãnh tụ Trung Quốc
sang thăm Việt Nam, nếu không muốn nói còn ngấm ngầm tăng thêm lòng e ngại về một
sự đe dọa gì đó mơ hồ có liên quan đến chủ quyền lãnh thổ, bởi quá khứ “một
ngàn năm nô lệ giặc Tàu” và hiện tại trông thấy những hành vi xâm lấn, hiếp đáp
một cách thô bạo trên vùng biển thuộc chủ quyền Việt Nam của mấy chiếc tàu lạ
có nguồn gốc Châu Á …
Có thể tạm kết luận: Lòng dân thiên trọng theo hướng
phương Tây nhiều hơn. Không ít người Việt có tình cảm với phương Tây vì cho rằng
phương Tây giàu mạnh, có chế độ chính trị dân chủ và nền kinh tế thị trường
chín muồi; phương Tây có nền khoa học-kỹ thuật và giáo dục tiên tiến, có đầu óc
thân thiện cởi mở, có văn hóa ứng xử nói năng lịch sự văn minh; một số nước
Châu Á (như Đài Loan, Singapore, Nhật Bản, Hàn Quốc…) nhờ theo gương tiến bộ của
phương Tây mà nhanh chóng trở thành cường quốc…
Mấy điều dẫn dụ vừa kể trên, cho thấy một sự thật: Giữa tuyên bố công
khai của chính quyền và hành động thực tế của đa số công dân (gồm cả tầng lớp đặc
quyền) là có sự chênh lệch. Không ít người Việt trong giai cấp đặc quyền nghĩ rằng,
hiện tại ở trong xứ với thể chế độc tài toàn trị và việc áp dụng luật pháp tùy
tiện không minh bạch thì họ có thể dễ dàng đục nước béo cò, chứ khi cần chọn chỗ
sinh sống lý tưởng lâu dài thì phải tính theo nước bài khác: Họ phải dợm chân chọn tư thế nửa trong nửa
ngoài và hướng về các nước văn minh, dân chủ, là vì vậy.
Xét cho cùng, hiện tượng phổ biến như trên về mặt
nào cũng có chỗ đáng được thông cảm, cũng như có thể nó sẽ mang lại nhiều lợi
ích cho người Việt, nếu xét trên phương diện tương lai lâu dài. Điều đáng trách
chỉ ở chỗ nhà cầm quyền Việt Nam bằng thể chế độc tài toàn trị của mình, đã tạo
ra quá nhiều sự bất công với một nền giáo dục bản xứ èo uột, không tạo được cơ
hội tiến bộ đồng đều cho mọi công dân ở một nước tuy mang danh nghĩa XHCN nhưng
thực tế lại là một thứ CNXH thân hữu, quái đản, kết hợp với một thứ CNTB cuồng
nhiệt man rợ, chưa từng có mô hình nào tương tự trong lịch sử của dân tộc Việt!
Trở lại vấn đề chính sách ngoại giao, một số quan điểm cực đoan lên án
nhà cầm quyền Việt Nam là hèn với giặc, hiếp với dân, thì chúng tôi cho rằng,
không đúng hẳn, hoặc chỉ đúng gần trăm phần trăm ở cái vế thứ hai (hiếp với
dân), chứ hèn với giặc thì chưa chắc. Bởi nước nhỏ Việt Nam luôn cần có một đường
lối ngoại giao khôn Ngoan, dung hòa, khéo léo giữa các cực cường quốc.
Dù sao, bằng mọi giá, Việt Nam cần tránh một cuộc chiến tranh có khả
năng xảy ra với Trung Quốc, để bảo vệ sinh mạng người dân và chăm lo phát triển
kinh tế.
Thái độ trù trừ bất quyết của Việt Nam vài chục năm nay trong việc nâng
cấp ngoại giao với Hoa Kỳ là có lý do, và người Mỹ cũng hiểu như vậy, vì ngoài
mối đe dọa thường xuyên của anh lớn láng giềng “bốn tốt”, luôn tìm cách ngăn cản,
còn có nỗi ngờ vực khó tránh khỏi đối với đường lối thực dụng của người Mỹ,
trong việc thời quá khứ họ đã từng bỏ rơi đồng minh chí cốt VNCH ít nhất là
trong vụ hải chiến Hoàng Sa giữa Việt Nam-Trung Quốc năm 1974, để cho Trung Quốc
cưỡng chiếm Hoàng Sa, và việc họ cắt bỏ viện trợ dẫn đến cuộc thất trận, đầu
hàng chóng vánh của chính quyền Sài Gòn ngày 30.4.1975.
Nhìn chung, không một quốc gia nào tự nhiên phát tâm muốn giúp đỡ một
nước nhỏ yếu khác đơn thuần chỉ vì lòng từ thiện, nhưng vấn đề là, trong chính
sách ngoại giao khôn ngoan, các nước nhỏ yếu cần biết khai thác những điểm có
quyền lợi tương quan để tìm thế mạnh vươn lên, mang lại lợi ích cho nhân dân xứ
mình. Trong chiều hướng tư duy thực tế này, Việt Nam vẫn nên tiếp tục làm bạn với
cả Trung Quốc lẫn Hoa Kỳ, một cách bình đẳng, không thiên trọng hẳn bên
nào. Chính sách này sẽ có thể giúp Việt
Nam tạo được một thế cân bằng mới, lần lần giảm bớt được sự lệ thuộc Trung Quốc
một cách bất bình đẳng và không hợp lý về chính trị, cũng như kinh tế, mà chúng
ta thường gọi “thoát Trung”, với nội hàm thoát Trung không có nghĩa là liên
minh với bạn mới Hoa Kỳ để chống lại bạn cũ Trung Quốc, mà để giúp cho các bên
đều cùng có lợi.
Việt Nam và Trung Quốc đã có mối quan hệ ngoại giao lâu đời từ thời các
vua chúa phong kiến, nên quá biết tẩy về nhau. Tổ tiên hai bên đã từng thử sức
nhau nhiều trận mà bên đại bại lúc nào cũng thuộc phía Trung Quốc, điều này đã
khắc sâu vào lòng các nhà lãnh đạo Trung Quốc nhiều kỷ niệm không đẹp.
Ngày nay, những cụm từ như “bốn
tốt, mười sáu chữ vàng”, hay “cùng ý thức hệ, cùng thể chế chính trị”… mà các
nhà lãnh đạo cấp cao hai bên nhắc nhở lẫn nhau chẳng qua chỉ là những câu khẩu
đầu ngoại giao theo lối nói vuốt ve cho vui miệng giữa bọn chính khách đầy mưu
mẹo theo kiểu Á Châu truyền thống, chứ thực tế thì hai bên vẫn còn nghi kỵ lẫn
nhau, với nhiều mối mâu thuẫn cũ và mới còn đang chờ tiếp tục giải quyết. Còn như nói về tương quan “đồng ý thức hệ, đồng
thể chế chính tri” thì giờ đây cả dân Việt lẫn dân Tàu, nếu có hiểu biết thì chả
ai còn tin, bởi vì cái hồn CS của cả hai bên đều đã lìa khỏi cái xác từ lâu để
chỉ còn lại có chung một chế độ XHCN biến tướng thành độc tài toàn trị!
Với những lời lẽ giả dối như vậy, vốn là đặc trưng chung của các chính
khách CS, thì chúng ta không nên tin hẳn. Thí dụ, nói “không liên minh…” là nói
trong thì hiện tại, còn ở thì tương lai thì vẫn có thể khác đi khi cục diện và
các điều kiện tương quan quốc tế đã thay đổi…
Vỏ quýt dày còn có ngón tay nhọn, không phải Trung Quốc muốn vẽ lại bản
đồ chủ quyền biển Đông kiểu gì cũng được. Theo sự nghiên cứu của một số học giả,
Trung Quốc không phải là một nước mạnh có thực chất, mà họ là một “gã khổng lồ
mất ngủ” (như tên của một cuốn sách đã xuất bản chính thức tại Việt Nam), bởi họ
còn phải lo đối phó với quá nhiều nỗi khó khan, cả trong lẫn ngoài nước.
Nhìn tới nhìn lui, Trung Quốc hầu như không có, hoặc có rất ít đồng
minh. Bản thân Trung Quốc cũng không đứng yên một chỗ, có thể mạnh thêm lên,
cũng có thể yếu bớt đi, nhưng nếu tiếp tục chính sách kiêu căng với tham vọng
làm bá chủ thiên hạ, thì tự chuốc lấy thảm bại là một khả năng không nhỏ, theo
đúng quy luật “tham thì thâm”, “trèo cao té nặng”, hoặc “rồng mà bay quá đà sẽ
có ngày hối hận”, như lời trong kinh Dịch do chính tổ tiên người Trung Quốc đã
dạy họ từ hơn 2000 năm trước…
Có loại ý kiến theo hướng ác cảm nhưng không phải hoàn toàn vô lý, khi
cho rằng nhà cầm quyền Việt Nam hiện nay đã phản bội trắng trợn lý tưởng xây dựng
xã hội công bằng theo mô hình XHCN, nên họ không thân Mỹ, cũng không thân Tàu,
chỉ “thân tiền” mà thôi… Tình trạng quốc nạn tham nhũng kéo dài không lối
thoát, mà đỉnh cao của nó là hai vụ đại án/ đại ác Việt Á và “Chuyến bay giải cứu”,
dính đến cả ngàn cán bộ quản lý các cấp, chưa từng có trong lịch sử Việt Nam và
thế giới, đã chứng minh điều này một cách hùng hồn đầy thuyết phục, khiến nhân
dân không còn tin tưởng và kính trọng các nhà lãnh đạo chính trị. Từ chỗ này,
có người cũng nghi ngờ, tự đặt câu hỏi: Không biết mục đích lần này nâng cấp
quan hệ ngoại giao với Hoa Kỳ (nếu xảy ra thật như nhiều người lạc quan dự
đoán) là vì quyền lợi của nhân dân lao động, hay chủ yếu chỉ nhắm vào quyền lợi
của những kẻ đặc quyền, đặc lợi, trong tổ chức chính trị cầm quyền hiện hữu?
Mang lại lợi ích chủ yếu cho ai mới là vấn đề quan trọng. Tương tự như
vậy, giả định Việt Nam sau này có lấy lại được Hoàng Sa từ Trung Quốc mà sự
khai thác chỉ chủ yếu phục vụ cho các nhóm đặc quyền, đặc lợi (như ở đảo Phú Quốc
hiện nay…) thì việc thu phục phần giang sơn của Tổ quốc cũng là điều vô nghĩa.
Trong khi điều quan trọng nhất hiện nay là nhà cầm
quyền Việt Nam phải chấp hành theo nguyện vọng của đại đa số nhân dân. Phải sớm
hồi tâm, tỉnh ngộ, quay lại chấn chỉnh công cuộc nội trị, chống tham nhũng đạt
hiệu quả cao, tập trung chăm lo hạnh phúc cho toàn dân, bằng việc cải cách thể
chế chính trị theo hướng dân chủ hóa đời sống xã hội, thông qua việc thực thi một
cách thực chất những điều đã ghi trong Hiến pháp 2013. Làm được như vậy, sẽ
không còn mãi phập phồng, lo sợ bất kỳ thế lực thù địch nào có thể âm mưu xâm hại
đến mình.
Chỉ còn hai ngày nữa là tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden đến sân bay tại thủ
đô Hà Nội. Phần lớn mọi người đều dự đoán, trong chuyến viếng thăm này, Việt-Mỹ
sẽ nâng cấp ngoại giao lên tầm chiến lược toàn diện, nhưng nếu cẩn thận hơn thì
còn phải chờ kết quả vào giờ phút chót.
Thật ra, như một học giả phương Tây phát biểu, lịch sử là những cái bắt
tay bí mật chứ không phải những lời tuyên bố, những nghị quyết… Khi chưa nắm được
những điều bí mật thì chưa thể kết luận chắc chắn được điều gì.
Nhưng theo sở kiến của chúng tôi, vấn đề không phải danh nghĩa của cấp
quan hệ ngoại giao được gọi tên là gì, mà quan trọng do ở thực chất của mối
quan hệ này ra sao, không cần phải tuyên bố rõ ra.
Chứ nói theo kiểu quan hệ Việt-Trung “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng
chí tốt, đối tác tốt” thì cũng trớt quớt, không ích lợi gì!
No comments:
Post a Comment