Nguyễn Hải Hoành dịch
Posted
on 15/02/2019 by The Observer
Sau
sáu năm, tôi lại đến Việt Nam lần nữa; chuyến đi này nhằm mục đích chính là tìm
hiểu tình hình tiến trình “Thoát Trung” của Việt Nam thời cận đại và hiện đại
cũng như các ảnh hưởng của tiến trình đó.
Cho
dù chỉ là một du khách bình thường đi tham quan kiểu cưỡi ngựa xem hoa thì bạn
cũng sẽ dễ dàng cảm nhận được văn hóa Trung Hoa có ảnh hưởng sâu sắc như thế
nào đối với Việt Nam: những biển chữ Hán ngoài cổng các kiến trúc cổ trên đường
phố, những đôi câu đối nghiêm chỉnh trên cột các đền chùa, môn cờ tướng Trung
Quốc là trò giải trí được nhiều người ưa thích nhất ở các công viên, chữ Song Hỷ
màu hồng trong các lễ cưới….
Thế
nhưng sau khi đi sâu quan sát thì bạn sẽ phát hiện thấy chỗ nào cũng có dấu
tích của tiến trình “Thoát Trung”: một số bảng biển chữ Hán ở các đền chùa bị
thay bằng các bảng biển viết chữ Quốc ngữ La tinh hóa, thậm chí cả đến câu đối
cũng đều đã “La tinh hóa” như vậy, những chữ La tinh của đôi câu đối viết dọc từ
trên xuống dưới đem lại cho người ta một cảm giác cười ra nước mắt; trong các
viện bảo tàng, những phần trưng bày về kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ hầu như
không thấy nói gì về viện trợ của Trung Quốc; các cửa hiệu trên đường phố đều
treo biển “Hàng Việt Nam”, “Hàng Nhật”, “Hàng Hàn Quốc” “Hàng Mỹ” thậm chỉ
“Hàng Canada” mà hầu như chẳng thấy biển hiệu “Hàng Trung Quốc”, cho dù Trung
Quốc là nước nhập khẩu hàng hóa lớn nhất vào Việt Nam.
Chưa
thấy nhiều tác phẩm nghiên cứu có hệ thống về vấn đề Việt Nam “Thoát Trung”.
Trong mấy tài liệu tôi sưu tầm được, các tác giả chưa nhất trí về nguồn gốc và
tình hình phát triển của tiến trình Việt Nam “Thoát Trung”, việc phân tích động
cơ “Thoát Trung” cũng khá đơn giản, và đó lại chính là nguyên nhân thúc đẩy tôi
đến Việt Nam tìm hiểu.
“La
tinh hóa” chữ viết của Việt Nam
Trong
tác phẩm “Khối cộng đồng tưởng tượng – nguồn gốc và sự truyền bá chủ nghĩa
dân tộc” [Imagined Communities: Reflections on the Origin and Spread of
Nationalism] của Benedict Anderson có viết: “Các tưởng tượng về nhà bảo tàng
và quá trình tổ chức nhà bảo tàng đều có tính chính trị sâu sắc”. Tôi luôn
cho rằng nếu muốn tìm hiểu lịch sử một nước, hoặc nói chính xác hơn, nếu muốn
tìm hiểu một quốc gia đã hướng dẫn người dân của họ nhìn nhận lịch sử của nước
mình như thế nào thì cách tốt nhất là hãy đến thăm viện bảo tàng lịch sử của quốc
gia đó.
“Viện
Bảo tàng Lịch sử quốc gia Việt Nam” là một tòa kiến trúc kiểu Pháp mang đặc sắc
thuộc địa rõ ràng. Nơi đây từng là viện nghiên cứu khảo cổ có tên “Viện Viễn
đông bác cổ của Pháp Quốc (École française d’Extrême-Orient, EFEO)”. Viện này
có đóng góp to lớn cho công cuộc nghiên cứu các lĩnh vực lịch sử học, khảo cổ học,
nhân học vùng Đông Nam Á, Đông Á và Nam Á; trong đó cống hiến được truyền tụng
nhất là thành tựu nghiên cứu về đền Angkor Wat ở Campuchia và về Hán học Viễn
Đông cũng như Đôn Hoàng học. Viện Viễn đông bác cổ của Pháp Quốc còn phát minh
ra một bộ chữ ghi âm Hán ngữ La Tinh hóa, từng một thời được dùng rộng rãi ở
các nước nói tiếng Pháp hoặc dùng La Tinh ngữ.
Bộ
chữ cái ghi âm ban đầu do Viện Viễn đông bác cổ của Pháp Quốc thiết kế chắc là
không khác mấy so với chữ Quốc ngữ Việt Nam La tinh hóa do các nhà truyền giáo
Bồ Đào Nha phát minh hồi thế kỷ 16, nhằm tạo thuận tiện cho người phương Tây học
Hán ngữ và tiếng Việt, cũng như cho việc truyền giáo và giao tiếp hàng ngày. Thế
nhưng, cùng với tiến trình toàn cõi Việt Nam biến thành thuộc địa của Pháp còn
Trung Quốc thì chưa hoàn toàn trở thành thuộc địa, hai loại chữ viết La tinh
hóa ấy có số phận khác nhau. Sau khi Hệ thống Pinyin Hán ngữ do nhà nước Trung
Quốc triển khai được Liên Hợp Quốc thừa nhận là Hệ thống Pinyin tiêu chuẩn quốc
tế thì bộ chữ ghi âm Hán ngữ do Viện Viễn đông bác cổ của Pháp Quốc phát minh
và bộ chữ ghi âm Hán ngữ kiểu Wade–Giles [Wade–Gilles system] do người Anh phát
minh cũng như một vài kiểu chữ phiên âm Hán ngữ khác đều dần dần mất đi địa vị
quốc tế, không còn được sử dụng nữa.
Nhưng
từ thế kỷ 19 thực dân Pháp lại ra sức đẩy mạnh sử dụng chữ Việt Nam La tinh hóa
(chữ Quốc ngữ), dần dần trở thành chữ viết chính thức của xứ Đông Dương thuộc
Pháp. Người Pháp làm thế nhằm mục đích chính là để tầng lớp tinh hoa người Việt
thoát ra khỏi ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc, cắt đứt mối liên hệ văn hóa giữa
Việt Nam với Trung Quốc. Cho nên một số học giả coi việc La tinh hóa văn tự Việt
Nam tiến hành trong thời kỳ Pháp đô hộ nước này là sự khởi đầu quá trình “Thoát
Trung” của Việt Nam.
Thế
nhưng ngay cả trong thời kỳ Pháp thuộc thì chữ Hán và chữ Nôm (một loại chữ Việt
Nam hóa dựa trên nền tảng chữ Hán) cũng không hoàn toàn biến mất trong đời sống
người Việt. Trên rất nhiều lĩnh vực, chữ Hán vẫn dùng song song với chữ Quốc ngữ.
Sau khi thành lập chính quyền Bắc Việt Nam do Hồ Chí Minh lãnh đạo thì chữ Hán
hoàn toàn bị thay thế, trở thành vật hy sinh của “Phong trào xóa nạn mù chữ”
do nhà nước triển khai. Đối ngoại, chính phủ Việt Nam tuyên bố sở dĩ phải đẩy mạnh
dạy chữ Quốc ngữ chứ không dạy chữ Hán, đó là do chữ Quốc ngữ La tinh hóa đơn
giản dễ học. Nhưng trên thực tế cho dù là tầng lớp lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt
Nam hay tầng lớp tinh hoa trong xã hội Việt Nam thời ấy, ai cũng đều hiểu rõ bỏ
chữ Hán là bước đi cốt lõi của tiến trình “Thoát Trung” nhằm để Việt Nam hoàn
toàn thoát khỏi ảnh hưởng mấy nghìn năm của Trung Quốc.
Tự thuật
của Bảo tàng Lịch sử Quốc gia Việt Nam
Trong
Bảo tàng Lịch sử Quốc gia Việt Nam [Vietnam National Museum of History] ở Hà Nội,
phần lớn các văn bản thuyết minh và lời thuyết minh vật trưng bày đều dùng tiếng
Việt và tiếng Anh; một số ít “nội dung nhạy cảm” thì chỉ giới thiệu bằng tiếng
Việt. Mặc dầu Trung văn không được dùng ở đây nhưng rất nhiều văn bản lịch sử
và hiện vật lịch sử lại đều thể hiện bằng chữ Hán, nhất là phần lịch sử cổ đại.
Theo
cách nói của giới sử học Trung Quốc thì lịch sử Việt Nam có thể sơ lược chia
làm 5 thời kỳ: 1) Thời tiền sử và các truyền thuyết; 2) Thời kỳ Bắc thuộc,
tức thời kỳ Việt Nam là một bộ phận của Trung Quốc, bắt đầu từ khi tướng nhà Tần
là Triệu Đà bình định Bách Việt và lập nước Nam Việt tại Phiên Ngung [Panyu]
thuộc tỉnh Quảng Đông thời nay cho tới năm 938 sau CN thời Ngũ đại thập quốc
[907-979], khi Ngô Quyền của Việt Nam đánh bại quân Nam Hán, lập triều đại nhà
Ngô độc lập; 3) Thời kỳ quốc gia độc lập, từ năm 938 đến năm 1884 khi nước
Pháp biến Việt Nam thành thuộc địa; suốt thời kỳ đó, Việt Nam là nước phiên thuộc
của nhiều vương triều Trung Quốc, trong đó có 20 năm Việt Nam bị nhà Minh thu hồi
thành thuộc quốc; 4) Thời kỳ là thuộc địa của Pháp; 6) Thời kỳ độc
lập sau Thế chiến II.
Các
ghi chép lịch sử thường có nội dung khác nhau bởi lẽ chủ thể viết sử khác nhau,
điều đó không khó hiểu. Trong Viện Bảo tàng Lịch sử quốc gia, ở phần thời kỳ tiền
sử, văn hóa Đông Sơn được giới thiệu nhiều nhất, coi là tiêu biểu của thời này,
nhưng ở thời kỳ thứ hai thì nền văn hóa đó lại bị lược bỏ. Trên thực tế, phần
giới thiệu duy nhất về thời kỳ thứ hai là một bảng biểu “Chống xâm lược” xuyên
suốt thời kỳ này, toàn bộ đều viết bằng chữ Quốc ngữ. Thế nhưng khi đọc kỹ bảng
biểu đó người ta có thể thấy một số “nội dung nhạy cảm”: chống Đông Hán, chống
Lưỡng Tấn, chống Nam Triều, chống quân nhà Đường v.v… Theo ghi chép của lịch sử
Trung Quốc thì các nội dung này đều được định nghĩa là những sự kiện lịch sử
“dân địa phương nổi dậy [dân biến]” hoặc “làm loạn [tác loạn]”, còn tại bảo
tàng này thì tất thẩy đều được coi là nghĩa cử “chống ngoại xâm”.
Bảo
tàng Lịch sử quốc gia dành cho thời kỳ thứ ba phần giới thiệu rất chi tiết
nhưng sợi chỉ chính xuyên suốt phần này thì không thay đổi, vẫn là chủ đề “Chống
xâm lược phương Bắc” như chống quân Tống, chống quân Nguyên, chống quân
Minh, chống quân Thanh… song le lại không một chữ nào nói đến mối quan hệ giữa
chính quốc [tông chủ, tức Trung Quốc] với nước phiên thuộc [tức Việt Nam].
Trong đó có một đoạn khá thú vị nói về thời kỳ 20 năm Minh thuộc: Theo ghi chép
trong “Đại Việt Sử ký toàn thư”, sách sử chính thức của triều Hậu Lê Việt
Nam thì những năm đầu nhà Minh, trong triều đình nhà Trần ở Việt Nam có xảy ra
sự kiện một người họ Hồ [Hồ Quý Ly?] thuộc bên ngoại của nhà vua định cướp
ngôi, nhà Minh phái quân đội Nam tiến sang Việt Nam để lập lại sự công bằng về
đạo lý; sau khi diệt xong Hồ, các quan lại và người cao tuổi bản địa cho biết
hoàng tộc nhà Trần đã bị tuyệt diệt không còn người nối dõi, yêu cầu nhà Minh
thu hồi quốc hiệu An Nam Quốc (Việt Nam), khôi phục chế độ đãi
ngộ “quận huyện” của vương triều Trung nguyên trước kia. Trong Bảo tàng Lịch sử
Quốc gia, đoạn lịch sử này cũng được giới thiệu là “Nhà Minh xâm lăng Việt
Nam, phạm tội ác tầy trời”.
Tự khoe
là “chính thống Trung Hoa”
Cho
dù phần tự thuật trong Bảo tàng Lịch sử Quốc gia tràn đầy tinh thần “Chống
phương Bắc” nhưng từ quá trình lịch sử Việt Nam được thể hiện trong mọi trưng
bày ở đây rất khó có thể nói các đời vương triều Việt Nam có một quá trình chủ
động “Thoát Trung”. Trên thực tế, vào các thời Nguyên Mông, Mãn Thanh làm chủ
vùng Trung nguyên Trung Quốc, các văn bản thư tịch của vương triều Việt Nam từng
[có ý khinh bỉ] gọi hai kẻ thống trị phương Bắc ấy là “Mông Thát”, “Mãn
Di”, mà tự khoe mình là “Chính thống Trung Hoa”. Trong bảo tàng có một
bản chiếu thư bằng gấm do hoàng đế triều nhà Nguyễn sắc phong một vị tướng chống
quân Thanh, trên tờ chiếu đó thậm chí có mấy chữ Hán: “Kiến công Vạn lý tráng
Trường thành”.
Vào
cuối thời đại phong kiến, Việt Nam ra sức mở rộng lãnh thổ, dần dần chiếm lĩnh
một vùng đất rộng ở châu thổ sông Mekong vốn thuộc Campuchia. Trong quá trình
cưỡng chế đồng hóa người Cao Miên, Việt Nam càng cưỡng bức người “Cao man” (người
Cao Miên) mặc Hán phục, học chữ Hán. Sách sử chính thức của triều Nguyễn “Đại
Nam thực lục” chép: “… Tai nghe nhiều thi quen, mắt thấy nhiều thì
thuộc, cứ thế [người Miên] dần dà hòa nhập với phong tục người
Hán; nếu lại có thêm sự giáo hóa của chính quyền, dùng văn hóa Hoa Hạ để biến đổi
các dân tộc man di, xem ra sau vài chục năm thì có thể làm cho họ chẳng khác gì
người Hán [Hán dân].” Ở đây triều Nguyễn tự xưng là “Hán”, “Hạ” [tên
cũ của Trung Quốc], “Hán dân”, khoe mình là dòng chính thống [đích hệ] của văn
hóa Trung Hoa.
Nhà
văn chuyên mục lịch sử Quách Hoa Mân từng viết trên mục “Tư gia lịch sử” mạng Bloomberg về
sự cai trị đất nước của vương triều phong kiến nhà Nguyễn như sau: “Nước Đại
Việt dù ở xa trung tâm thống trị của vương triều Trung nguyên nhưng lại toàn lực
bắt chước và cấy ghép các chế độ văn hóa, kinh tế, chính trị của Trung Quốc.
Triều Lý (1010-1225) chia chế độ quan lại làm hai ban văn võ, mỗi ban có cửu phẩm;
các địa phương có Tri phủ, Phán phủ, Tri châu; trung ương còn có các trọng chức
như Thái sư, Thái phó, Thái úy, Thái bảo. Thời kỳ đầu triều Lý đã xây dựng Văn
miếu để thờ Khổng Tử và Chu Công, bắt chước chế độ khoa cử nhà Tống Đường…”
Phương
thức sao chép các chế độ của Trung Quốc kéo dài suốt cho tới đêm trước ngày Việt
Nam rơi vào vòng thuộc địa của Pháp. Chịu sự cai trị trực thuộc của Trung Quốc
trong hơn 1.000 năm cộng thêm hơn 900 năm bê nguyên xi mọi thứ của Trung Quốc về
dùng, Việt Nam chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa quá ư sâu xa (sâu và rộng
hơn nhiều so với Triều Tiên, Nhật). Trong “Khối cộng đồng tưởng tượng”,
Anderson luận bàn thế này: “Tuy rằng vương triều thống trị Hà Nội và Huế
(kinh đô triều Nguyễn) mấy thế kỷ qua đều bảo vệ được nền độc lập, không bị Bắc
Kinh xâm phạm, nhưng rốt cuộc họ vẫn cứ dựa vào bè lũ quan liêu dốc lòng bắt
chước người Trung Quốc để cai trị đất nước. Cơ quan nhà nước dựa vào chế độ
“khoa cử” – kiểu thi viết về chủ đề là các kinh điển Nho giáo để lựa chọn và đề
bạt người tài; các văn bản của triều đình đều viết bằng chữ Hán; về mặt văn
hóa, mức độ Trung Quốc hóa của giai cấp thống trị cũng rất sâu.”
Rồi
Anderson phân tích: Sau năm 1895, các trước tác của Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu
và sau này là của Tôn Trung Sơn… truyền vào Việt Nam khiến cho “mối quan hệ
lâu dài giữa Việt Nam với Trung Quốc có tính chất không được [chính phủ
thực dân Pháp] hoan nghênh”. Bởi thế nên vào khoảng năm 1915, chế độ
khoa cử bị bãi bỏ, thay bằng hệ thống giáo dục thuộc địa với tiếng Pháp là môn
học chính. Ngoài ra, chữ Quốc ngữ Việt Nam La tinh hóa được hết sức đề xướng,
qua đó làm cho các thế hệ mới của người Việt Nam thuộc địa do không thể tiếp
xúc với thư tịch của thời đại các vương triều cũng như văn học cổ xưa mà bị cắt
đứt mối liên hệ với Trung Quốc – cũng có thể gồm cả quá khứ của bản địa Việt
Nam.
Theo
phân tích của Anderson, đối với tầng lớp tinh hoa bản xứ Việt Nam, sự “Thoát
Trung” do người Pháp cưỡng chế tiến hành không phải là chủ ý của người
Việt, mà là một quá trình bị động. Như vậy sau khi đã đánh đuổi thực dân
Pháp (nhất là dưới sự giúp đỡ của quân đội Trung Quốc), Việt Nam hoàn toàn có
thể trở lại con đường truyền thống “Trung Quốc hóa”, điều đó chẳng những có thể
tăng cường mối quan hệ “láng giềng hữu hảo” giữa Việt Nam với Trung Quốc mà
cũng có thể giúp cho người Việt Nam lập lại mối liên hệ với tổ tiên mình.
Song
le sự thực lại không như vậy.
Phần
tự thuật của Bảo tàng Lịch sử quốc gia Việt Nam đến năm 1945 thì chấm dứt. Chỉ
có thể tìm hiểu thời kỳ tiếp theo của lịch sử Việt Nam từ một bảo tàng khác –
“Bảo tàng Cách mạng Việt Nam” ở bên kia đường phố. Viện Bảo tàng này trưng bày
thời kỳ từ khi chủ nghĩa dân tộc Việt Nam thức tỉnh cho tới ngày thành lập Đảng
Cộng sản Việt Nam rồi đến chiến dịch Điện Biên Phủ, người Việt Nam đánh đuổi thực
dân Pháp; về cơ bản có thể coi là lịch sử giai đoạn đầu quá trình phát triển của
Đảng Cộng sản Việt Nam, trong đó tràn ngập sự tuyên truyền mang màu sắc thần
thoại, điều này không có gì khó hiểu.
Tiền đề
cấu tạo quốc gia dân tộc
Điều
khác biệt rõ ràng với các vật trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia là các vật
trưng bày trong Bảo tàng Cách mạng hầu như không có chữ Hán, thậm chí hầu như
không có hai chữ “Trung Quốc”. Tại đây, phong trào Việt Nam độc lập chống Pháp
hoàn toàn do người Việt Nam tự thực hiện, không một chữ nào nhắc tới sự viện trợ
của Trung Quốc. Có điều đáng chú ý là ngày 2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình,
Hồ Chí Minh tuyên bố sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nhà lãnh đạo
xuất thân từ một gia tộc Nho học nhiều đời, có vốn hiểu biết chữ Hán vững vàng
này đã đọc trước công chúng bản “Tuyên ngôn Độc lập” viết bằng chữ Quốc ngữ Việt
Nam La tinh hóa. Sau đó không lâu, Hiến pháp năm 1946 ghi rõ chữ Quốc ngữ là chữ
viết chính thức của Việt Nam.
Cuốn
sách “Khối Cộng đồng tưởng tượng” của Anderson không quan tâm nhiều tới lịch sử
“Thoát Trung” của Việt Nam, nhưng trong sách có riêng một chương bàn về sự thức
tỉnh của chủ nghĩa dân tộc ở các quốc gia thuộc địa sau Thế chiến II và con đường
xây dựng nhà nước dân tộc. Trong đó, tìm kiếm sự thừa nhận thân phận dân tộc
mình là bước đi tất yếu để xây dựng quốc gia dân tộc, là cơ sở logic để thực hiện
“Khối cộng đồng tưởng tượng”, mà quá trình tìm kiếm đó ắt phải là quá trình chủ
động, tỉnh táo.
Đối
với tầng lớp lãnh đạo Việt Nam sau ngày độc lập, trở lại “Trung Quốc hóa” tuyệt
đối không phải là con đường đúng đắn để xây đắp sự đồng thuận của dân tộc. Ngược
lại, “Thoát Trung” mới là điều kiện tất yếu để xây dựng một quốc gia dân tộc.
Nói cách khác, nếu Việt Nam muốn trở thành một quốc gia hiện đại độc lập thì
“Thoát Trung” là nền tảng, là cốt lõi, là một sứ mệnh lâu dài. Điều đó về cơ bản
nhất trí với nhận thức “Thoát Trung” của Nhật Bản, Triều Tiên vốn là các nước
trong vành đai văn hóa Trung Hoa, cho dù quá trình “Thoát Trung” của Việt Nam cần
thời gian dài hơn, và quá trình đó càng đau khổ hơn đối với hai nước Trung Quốc
và Việt Nam.
Nguyện
vọng của tầng lớp lãnh đạo Việt Nam
Sau
Thế chiến II, 200 nghìn quân Quốc Dân Đảng Trung Quốc tiến vào Việt Nam với
danh nghĩa tiếp thu sự đầu hàng của quân đội Nhật chiếm đóng Việt Nam. Không
lâu sau, quân đội Pháp cũng đổ bộ vào Việt Nam, yêu cầu phục hồi chủ quyền của
quốc gia cai trị thuộc địa trước chiến tranh. Tưởng Giới Thạch lấy việc Pháp trả
lại cho Trung Quốc một số lợi ích kinh tế như các tô giới trong lãnh thổ Trung
Quốc làm điều kiện trao đổi để rút quân Quốc Dân ra khỏi Việt Nam.
Phần
lớn các nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam thời ấy đều phản đối việc trao trả
Việt Nam cho thực dân Pháp, nhưng Hồ Chí Minh lại ký vào Hiệp định.[1] Vì
thế mới có chuyện trong ghi chép của nhà báo Mỹ Stanley Karnow có viết một danh
ngôn của Hồ Chí Minh:
“Lũ
ngốc này! Chẳng lẽ các anh không biết rằng để người Trung Quốc ở lại có nghĩa
là gì ư? Các anh không nhớ lịch sử à? Lần trước người Trung Quốc đến đây, họ ở
lại một nghìn năm. Người Pháp là kẻ từ bên ngoài tới, họ đã rất suy yếu rồi, chủ
nghĩa thực dân đang chết, người da trắng tại châu Á đang hết đời. Nhưng nếu người
Trung Quốc ở lại thì họ sẽ mãi mãi không bỏ đi đâu! Tôi thà lại ngửi cứt bọn
Pháp thêm 5 năm mà không muốn ăn cứt bọn Tàu suốt phần đời còn lại.”[2]
Trong
thế giới Trung văn, câu nói này của Hồ Chí Minh có những bản dịch khác nhau, có
thể từ ngữ có chút dị biệt, nhưng ý nghĩa đại để như vậy. Mặc dầu về sau giáo
sư Liam Kelley ở Đại học Hawaii có nghi ngờ về xuất xứ câu nói ấy của Hồ Chí
Minh mà Karnow trích dẫn, thế nhưng qua liên hệ với hồi ký của một số nhà lãnh
đạo Trung Quốc thì những phát biểu của Hồ Chí Minh đại loại như “Biểu hiện
ngạo mạn của quân đội Trung Quốc thì giống như biểu hiện của quân đội Trung Quốc
thời xưa từng thường xuyên xâm phạm Việt Nam”, và liên hệ tới chuyện Bảo
tàng Lịch sử Quốc gia Việt Nam xóa sạch sự viện trợ của Trung Quốc giúp Việt
Nam đánh đuổi thực dân Pháp, thì chẳng nói cũng biết tầng lớp lãnh đạo Việt Nam
đúng là có xu hướng mạnh mẽ “Thoát Trung”.
Điều
thú vị là Anderson sinh ra ở Côn Minh, từ nhỏ gia đình ông có thuê một bà bảo mẫu
người Việt Nam; tuy sách của ông không bàn luận sâu về mối quan hệ Việt Nam –
Trung Quốc song ông lại nói chính cuộc chiến tranh Trung Quốc-Việt Nam năm 1979
đã “trực tiếp gợi ý tôi viết cuốn Khối cộng đồng tưởng tượng”.
Hồi
đó toàn thế giới đều cho rằng cuộc chiến ấy có nguyên nhân là sự đấu tranh phe
phái trong thế giới cộng sản (Liên Xô và Việt Nam một phe, Trung Quốc và
Campuchia một phe), hoặc là cuộc xung đột địa chính trị của ba nước lớn Trung
Quốc, Mỹ, Nga. Nhưng Anderson thì nhìn thấy rõ nguyên nhân lịch sử ở tầng sâu
hơn phía sau cuộc chiến ấy – đó là chủ nghĩa dân tộc vượt qua ý thức hệ, vượt
qua địa chính trị.
Việt
Nam có thể triệt để “thoát Trung” được chăng?
Những
năm gần đây, do xung đột trên vấn đề Biển Đông [nguyên văn Nam Trung Quốc
hải] và do nỗi đau vết thương còn lại sau cuộc chiến 1979 ấy, một số nhà
phân tích cho rằng Việt Nam có lẽ sẽ tăng cường độ “Thoát Trung”. Năm 2010 một
bộ phim truyền hình cổ trang của Việt Nam quay tại trường quay ở Trung Quốc vì
“quá ư Trung Quốc hóa” mà bị chính quyền Việt Nam cấm chiếu.[3] Năm
2014, Bộ Văn hóa Việt Nam gửi công văn kiến nghị các địa phương không bày biện,
không sử dụng, không thờ cúng các loại tượng điêu khắc, sản phẩm, linh vật và vật
phẩm quái dị không hợp thuần phong mỹ tục Việt Nam”. Nghe nói những vật phẩm ấy
chủ yếu là các loại sư tử đá “Trung Quốc hóa” nhập từ Trung Quốc.
Thế
nhưng các cố gắng “Thoát Trung” về văn hóa của Việt Nam xem ra không có hiệu quả
lớn. Suy cho đến cùng, quá trình hơn 2000 năm ngấm văn hóa Trung Quốc đã đặt nền
móng văn hóa cho bản thân Việt Nam, triệt để “Thoát Trung” sẽ tương đương với sự
cắt đứt lịch sử của chính mình. Ở Việt Nam ngày nay, tam giáo Nho, Thích, Đạo đều
có mảnh đất của mình, mà cả ba đều từ Trung Quốc truyền sang, các tín đồ của họ
vẫn chiếm tuyệt đại đa số trong số dân tin theo tôn giáo ở nước này.
Về
kinh tế, hầu như chẳng ai tin rằng trong một thời gian ngắn Việt Nam có thể
thoát khỏi sự dựa dẫm vào Trung Quốc. Cho dù nội bộ chính phủ Việt Nam thỉnh
thoảng có thảo luận vấn đề “Cố gắng Thoát Trung về kinh tế” nhưng ngành chế tạo
của Việt Nam chỉ là một khâu trong chuỗi sản xuất công nghiệp do Trung Quốc làm
chủ, sản phẩm làm ra lại cần lấy Trung Quốc làm nước nhập khẩu lý tưởng. Thoát
khỏi Trung Quốc về kinh tế hầu như là một “nhiệm vụ không thể thực hiện”.
Lĩnh
vực Việt Nam có khả năng nhất để thực hiện “Thoát Trung” là chế độ chính trị. Mặc
dù rất khó có thể nói thể chế chính trị hiện nay của Việt Nam là bản sao của
Trung Quốc, nhưng mỗi lần Việt Nam và Trung Quốc xảy ra xung đột thì hầu như lần
nào mâu thuẫn cũng đều được hóa giải với lý do “giữ cho toàn vẹn mối tình giữa
hai đảng, hai chính phủ”. Tuy nhiều báo đài từng đưa tin với tiêu đề đại để như
“Công cuộc cải cách thể chế chính trị của Việt Nam tiến nhanh hơn Trung Quốc”
song tình hình thực tế lại không như vậy, hoặc có thể nói việc cải cách thể chế
ở Việt Nam chưa có những đột phá thực chất.
Tháng
8/2014, hãng tin Bloomberg đưa tin: 61 thành viên Đảng Cộng sản
Việt Nam, trong đó có một cựu đại sứ tại Trung Quốc, cùng ký tên vào một bức
thư ngỏ gửi Chính phủ Việt Nam. Bức thư viết: Các nhà lãnh đạo nên “xây dựng
một nhà nước thực sự dân chủ, pháp trị”, cho phép tự do ngôn luận chính trị
ở mức độ rộng hơn, “thoát khỏi” sự dựa dẫm vào Trung Quốc. Bản tin cho
biết, một số người, kể cả các cựu quan chức chính phủ đã dự thảo một bản Hiến
pháp yêu cầu triển khai sự “cạnh tranh về chính trị”. Mặc dù kết quả bầu
cử lãnh đạo mới đây không thể hiện Chính phủ Việt Nam có dấu hiệu “thoát khỏi
Trung Quốc”, nhưng việc vấn đề này có thể được bàn luận trong thư ngỏ là đủ tỏ
rõ nguyện vọng của một bộ phận khá đông đảo trên chính trường Việt Nam.
Bất
kể là trên vấn đề tranh chấp lãnh thổ hay vấn đề kinh tế, Việt Nam đều tính
toán khả năng dựa vào phương Tây, thậm chí từng có thời đã xem xét vấn đề lập
liên minh quân sự với quốc gia cựu thù là Mỹ, song le lại khó có thể vượt qua
trở ngại về ý thức hệ. Nếu
Việt Nam muốn tăng cường mối quan hệ với phương Tây để chống Trung Quốc thì tiền
đề ắt phải là về chính trị nên mở cửa hơn, bỏ chế độ chuyên chế một đảng, về thể
chế chính trị cần triệt để cắt đứt quan hệ với Trung Quốc. Bước đi này tuy
không gian nan như sự “Thoát Trung” về văn hóa nhưng lại chẳng dễ dàng thực hiện.
Bài
không ghi tên tác giả, có lẽ là một nhà báo Trung Quốc giấu tên. Nguyễn Hải
Hoành biên
dịch và ghi chú trong ngoặc [ ].
———————
[1] Có
thể tác giả muốn nói Hiệp định Sơ bộ Pháp-Việt, ký tại Hà Nội ngày 6/3/1946.
Tham khảo: https://vov.vn/the-gioi/ho-so/hiep-dinh-so-bo-631946-nuoc-co-sac-sao-cua-ho-chu-tich-va-dang-ta-486107.vov
[2] Câu
cuối này trong tiếng Anh là “I prefer to sniff French shit for five years
than eat Chinese shit for the rest of my life.” – Theo: Stanley Karnow’s Vietnam:
A History (New York: Viking Press, 1983).
[3] Có
lẽ là phim “Lý Công Uẩn – Đường dẫn tới thành Thăng Long” Tham khảo: https://nld.com.vn/van-hoa-van-nghe/khong-chieu-ly-cong-uan-duong-toi-thanh-thang-long-la-hop-le-20110609102020887.htm
No comments:
Post a Comment