Mấy hôm nay báo chí CM đăng nhiều rồi, nhưng là 1
chiều thôi. Có 2 nội dung anh em cần hiểu cho rõ.
1 là không phải 600ng quân TQ ào hết cả sang VN đánh
đâu, tổng cộng có 150 ngàn thôi, bọn còn lại là trù bị chưa sang. Vụ này giống
sách sử VN hay chém có 20 vạn quân Thanh bị Quang Trung đánh bại! Thực tế bọn bị
đánh bại khoảng 5 ngàn, bọn còn lại là trù bị hoặc đang trên đường sang Vn theo
hướng Sơn Tây. Biết tin Tôn Sỹ Nghị chạy rồi nên quay đầu về luôn. Theo Nguyễn
Duy Chính, tất nhiên có tư liệu.
2 là, không phải TQ đánh biển người từ đầu đến cuối.
Tuyên giáo thích chém là nó đánh biển người từ đầu đến cuối, vì thắng thế nó
oai hơn. Đại khái súng bắn đỏ nòng, hết đạn mới chịu thua. Thực tế ban đầu Hứu
Thế Hữu, tư lệnh mặt trận, mới chơi biển người, sau mấy ngày chết nhiều lính
quá thì Dương Đắc Chí thay thế chiến thuật khác, sử dụng pháo và tăng đánh kèm,
thì mới đỡ chết. Nhưng quân TQ vẫn đông áp đảo.
Mấy hôm trước có anh LS Bảo Anh Thái chém loạn lên
là Tàu không đánh biển người, làm anh em tin xái cổ. Thực ra vừa đúng vừa sai.
Anh này chém khơi khơi, dẫn mỗi cái tên tiếng Anh của chiến thuật, không biết lấy
nguồn từ đâu!
Đoạn dưới trích trong cuốn Cuộc chiến Đông Dương 3,
tác giả có trích nguồn cụ thể.
Tư liệu này chưa chắc đúng 100% nhưng mình đánh giá
cao hơn báo chí CM mấy hôm nay. Bởi vì, như thường lệ, cái gọi là lịch sử VN
thường viết theo dạng hồi ký, thậm chí lời kể của con cháu các tướng, cả TBT, lời
kể của lính, của dân...tức là ở các góc nhìn rất hẹp hoặc viết theo trí nhớ
mang máng. Vì thế nên sử CM VN nói chung cũng như sử về chiến tranh biên giới mấy
hôm nay thường là dạng truyền thuyết, chả có căn cứ văn bản con mẹ gì hết. Nên
tính khái quát rất kém và thiếu chính xác. Đọc như đọc tiểu thuyết ý.
Mình không đọc sử dạng tiểu thuyết mà thường đọc dạng
sách nghiên cứu. Mình chả quan tâm hình ảnh mấy bà dân tộc lúc đó đang cho con
bú thì giặc tấn công... Đó là các chi tiết vụn vặt mang cảm tính là chính, đọc
lấy cảm xúc căm thù giặc sâu sắc thôi, chứ không có kiến thức lịch sử trong đó.
----------------------------
Ngay buổi sáng ngày 17-2-1979, quân đội Trung hoa đã
tấn công tổng cộng 39 mục tiêu dọc theo biên giới hai nước, trong đó có 26 mục
tiêu bị tấn công từ cấp tiểu đoàn trở lên. Riêng Lạng Sơn, Cao Bằng, Lào Cai bị
tấn công bằng cấp sư đoàn. Tổng cộng quân số Trung hoa vượt biên giới trong
ngày đầu chiến dịch khoảng tám chục ngàn. Con số này tăng dần cho tới ngày cuối
của chiến dịch lên tới trên một trăm năm chục ngàn. Đó là không kể hàng mấy
trăm ngàn binh sĩ khác giữ nhiệm vụ yểm trợ hay trù bị phía sau.
Chỉ huy tổng quát mặt trận là Hứa Thế Hữu, Uỷ viên
Trung ương đảng, kiêm tư lệnh quân khu Quảng Châu (gồm hai tỉnh Quảng Đông và
Quảng Tây). Hứa Thế Hữu đặt Bộ tư lệnh mặt trận ở Nam Ninh. Phụ tá cho Hứa Thế
Hữu là Dương Đắc Chí, từng nổi danh khi phụ tá cho Bành Đức Hoài trong chiến
tranh Triều tiên. Để sửa soạn tham gia trận tấn công Việt nam, Dương Đắc Chí
đang là tư lệnh quân khu Vũ Hán được cử xuống làm tư lệnh quân khu Tây Nam gồm
Vân Nam và Quý Châu. Trong những ngày đầu, Hứa Thế Hữu trực tiếp chỉ huy tấn
công mặt trận Cao Bằng, Lạng Sơn, còn Dương Đắc Chí phụ trách tấn công Lào Cai,
Lai Châu, Hà Giang. Để tấn công Việt nam, Trung hoa đã huy động nhiều quân đoàn
từ nhiều quân khu khác nhau. Hai quân đoàn 13, 14 được giao trách nhiệm tấn
công Lai Châu, Lào Cai. Hai quân đoàn 41, 42 tấn công Cao Bằng, còn những quân
đoàn 43, 54, 55 tấn công mạn Lạng Sơn và Quảng Ninh.
Bên phía Việt nam, phòng thủ biên giới Việt Hoa là
trách nhiệm của những quân khu I, II, III. Tư lệnh quân khu I là Đàm Quang
Trung, một người Tày, cận vệ cũ của Hồ Chí Minh được cử thay Chu Văn Tấn. Đàm
Quang Trung không phải là một tướng có khả năng, nhưng được cất nhắc nhờ là gốc
người Thổ như Chu Văn Tấn, nhưng lại không có uy tín chính trị như Chu Văn Tấn.
Quân khu này gồm cả Cao Bằng lẫn Lạng Sơn nên chịu áp lực nặng nhất của quân
Trung hoa. Trong những ngày đầu, trách nhiệm phòng vệ Lạng Sơn được giao cho
Nguyễn Văn Thương, tư lệnh sư đoàn 3, Tư lệnh quân khu II là Vũ Lập, phụ trách
phòng thủ Lai Châu, Lào Cai và Hà Giang.
Tư lệnh quân khu III là Nguyễn Quyết, trách nhiệm
vùng châu thổ sông Hồng và có lẽ cả đặc khu Quảng Ninh, do Sùng Lãm chỉ huy. Bộ
tổng tham mưu ở Hà nội trực tiếp theo dõi, giám sát và điều hợp mặt trận. Ngoài
những trợ giúp về võ khí và tiếp liệu, trong trận chiến Việt Hoa, Việt nam đã
được Liên xô giúp đỡ về tình báo, nhờ không ảnh vệ tinh và một số tàu lấy tin
điện tử của Liên xô chạy ngoài khơi vịnh Bắc Việt. Để thi hành hiệp ước hữu nghị,
sau khi quân Trung hoa tấn công Việt nam một ngày, Liên xô gửi sang Hà nội một
phải đoàn “tham khảo” cùng với thiết giáp hạm Senyavin đến túc trực ngoài khơi
vịnh Bắc Việt.
Có lẽ vì chủ quan tin vào hậu thuẫn Liên xô, tính
toán sai quyết tâm và quy mô tấn công của quân đội Trung hoa nên Việt nam đã sử
dụng hết ba trong bốn quân đoàn chính quy trong cuộc hành quân xâm lăng
Campuchia. Do đó, khi quân Trung hoa tấn công, Việt nam chỉ còn những sư đoàn
308, 312, 390… của quân đoàn 1 đóng quanh Hà nội. Việt nam đã cố gắng không
dùng tới những sư đoàn này, thứ nhất để dùng làm lợi khí tuyên truyền là đã
không cần phải dùng tới quân chính quy, thứ hai là Việt nam sợ quân Trung hoa sẽ
dùng toàn lực tiêu diệt những đơn vị này, nhằm phá tan “huyền thoại vô địch” của
quân Việt nam. Trách nhiệm phòng thủ biên giới do đó được giao cho những sư
đoàn chủ lực quân khu, như các sư đoàn 3, 327, 337, sư đoàn Tây Sơn…
Ở Lạng sơn, sư đoàn 567, B46, sư đoàn pháo binh M66 ở
Cao Bằng, các sư đoàn 316, 345, đoàn B 68, M63…
Ở quân khu II, cùng các trung đoàn chủ lực lỉnh, các
huyện đội, và lực lượng công an biên phòng. Hơn một tuần sau, vì tình hình chiến
sự nguy kịch, bộ tổng tham mưu quân Việt nam phải gấp rút điều động dân quân từ
vùng trung châu, các sư đoàn chủ lực của quân khu IV, cùng quân đoàn 2 từ
Campuchia về để tăng cường phòng thủ. Thật ra sự phân biệt giữa những sư đoàn
chính quy hay chủ lực của quân Việt nam rất mù mờ, vì một sư đoàn có thể đổi từ
chính quy sang chủ lực hay ngược lại bất cứ lúc nào. Chẳng hạn sư đoàn 303, sau
1975, đổi thành đoàn xây dựng kinh tế Phước Long, năm 1978 trở về làm chủ lực
cho quân khu VII tấn công Campuchia. Năm sau, 1979, được thuyên chuyển ra Bắc
Việt đổi thành chính quy, nằm trong đội hình quân đoàn 68 mới thành lập để bảo
vệ biên giới Việt Hoa. Hai năm sau, đang là chính quy, lại đổi thành chủ lực
cho quân khu III, và tới 1987, lại trở về là một sư đoàn chính quy của quân
đoàn 1 Quyết Thắng.
Trong khi những binh sĩ chính quy trên nguyên tắc trẻ
hơn, cơ động hơn, dồi dào phương tiện hơn, được huấn luyện và trang bị chiến đấu
hợp đồng với không quân, pháo binh, thiết giáp thuần thuộc hơn, thì những sư
đoàn chủ lực các quân khu biên giới phía bắc đa số là những đơn vị từng chiến đấu
lâu năm tại miền Nam trong chiến tranh Đông dương II, cho nên bộ đội thiện chiến
hơn, có nhiều kinh nghiệm phòng thủ, đào công sự và chiến đấu độc lập dưới hoả
lực. Vì thế, họ đã may mắn thích hợp với điều kiện chiến trường. Nhiều tháng
trước khi Trung hoa tấn công, sĩ quan, cán bộ của những sư đoàn chủ lực này được
phân tán xuống huấn luyện cho những lực lượng địa phương, hướng dẫn cách đào
công sự, giao thông hào, lập bãi mìn, bãi chông.
Họ cũng nghiên cứu sẵn những vị trí hiểm yếu, những
địa điểm có thể bị tấn công, những đường chuyển quân để bố trí sẵn toạ độ pháo
binh. Để thống nhất chỉ huy và tăng cường nhân lực các huyện đội, xã đội dân
quân được bố trí vào những trung đoàn hay sư đoàn chủ lực. Các phái đoàn Trung
ương của Chu Huy Mân, Tổng cục Trưởng Tổng Cục Chính trị, của Hoàng Minh Thảo,
Giám đốc Học viện quân sự cấp cao, liên liếp tới kiểm tra, đôn đốc. Vì thế, khi
quân Trung hoa bắt đầu tấn công, quân Việt nam đã sẵn sàng.
Trong những ngày đầu của trận chiến, dựa vào quân số
đông đảo, Hứa Thế Hữu cho áp dụng chiến thuật biển người để tấn công. Quân
Trung hoa được những người Hoa trước kia đã từng sống ở biên giới dẫn đường. Ở
nhiều nơi, quân Trung hoa đã nguỵ trang thành bộ đội Việt nam để xâm nhập. Tại
Lai Châu, phía cực tây biên giới, quân Trung hoa đánh Gò Tô, Phong Thổ lên đường
tiến về lỉnh lỵ. Tại hướng quan trọng Lào Cai, hai sư đoàn thuộc hai quân đoàn
13 và 14 tấn công ngay vào thị xã và các xã lân cận như Thanh Bình, Bản Cầu. Tại
Hà Giang, họ tấn công Bản Kiệt, La Quỳnh. Hướng quan trọng thứ hai Cao Bằng
cũng bị hai sư đoàn của các quân đoàn 41, 42 tấn công. Tại Quảng Ninh hai trung
đoàn quân Trung hoa tấn công Than Thum, Cao Bá Lãnh.
Riêng tại mục tiêu chủ yếu Lạng Sơn, quân Trung hoa
tấn công theo thế gọng kìm bằng hai hướng. Hướng thứ nhất là hai sư đoàn 163,
164 thuộc quân đoàn 55 vượt Hữu Nghị Quan tấn công Đồng Đăng, cửa ngõ phía bắc
Lạng Sơn. Hướng thứ hai là hai sư đoàn 127, 128 quân đoàn 43 tiến đánh từ phía
đông vào các tiền đồn ở Bản Xâm, Đồng Nội, Hải Yến.
Tại khắp nơi, quân Trung hoa gặp phải sức kháng cự
mãnh liệt. Quân Việt nam, nhờ vào vị trí cố thủ hiểm trở, công sự kiên cố, binh
sĩ thiện chiến nhiều kinh nghiệm nên trong đợt tấn công đầu, vẫn giữ vững được
các vị trí. Với sự yểm trợ hùng hậu và hữu hiệu của đủ loại pháo binh, từ những
đại bác 72, 85, 105, 155, 130 ly đến tên lửa 122 ly, họ đã gây cho quân Trung
hoa tổn thất nặng nề về nhân mạng, nhất là ở các mặt trận Lạng Sơn, Cao Bằng.
Chiến thuật biển người mà Hứa Thế Hữu áp dụng hiển
nhiên đã trở nên lỗi thời trước tác dụng của những võ khí hiện đại. Phía Lai
Châu, Lào Cai, quân Trung hoa bị tổn thất ít hơn vì Dương Đắc Chí đã không tấn
công chính diện, mà dựa vào địa thế rừng núi hiểm trở để chuyển quân, và khi tấn
công, bộ binh được pháo binh và thiết giáp yểm trợ hữu hiệu hơn. Vì số tổn thất
quá cao, mấy ngày sau, tuy Hứa Thế Hữu còn giữ chức Tư lệnh mặt trận, nhưng quyền
chỉ huy các cuộc hành quân được giao cho Dương Đắc Chí. Quân Việt nam cũng cho
vài đơn vị cấp tiểu đoàn vượt biên giới sang tấn công các vị trí tiếp liệu của
Trung hoa ở Mã Lý Phố (Vân Nam) và Ninh Minh (Quảng Tây) nhưng các cuộc tấn
công này chỉ có tác dụng gây rối.
Sau khi Dương Đắc Chí nắm quyền, tuy chiến thuật biển
người bị bãi bỏ, hoả lực pháo binh và thiết giáp được sử dụng nhiều hơn, nhưng
quân Trung hoa vẫn dựa vào ưu thế quân số đông đảo để tấn công bất kể tổn thất.
Sau mấy ngày bị pháo kích ngày đêm, các công sự phòng thủ của Việt nam dù kiên
cố đến đâu cũng dần dần bị phá sập, và quân Trung hoa cuối cùng cũng chiếm được
một số mục tiêu. Riêng tại Lạng Sơn, sư đoàn 163 của Trung hoa chiếm được Đồng
Đăng vào ngày 22-2-1979.
Trong những ngày 24, 25, 26-2-1979, trận chiến tương
đối lắng dịu. Quân Trung hoa sau khi chiếm được một số vị trí đã bị tổn thất nặng
và thiếu tiếp liệu nên không thể tiếp tục tấn công. Họ đã chủ quan cho rằng có
thể chiến thắng chớp nhoáng nên đã không dự trữ đủ đạn dược pháo binh. Tuy
nhiên, quân Việt nam cũng không thể phản công tái chiếm những vị trí đã mất vì
không đủ nhân lực. Mặt trận bị trải quá rộng, lực lượng bị phân tán mỏng. Các
sư đoàn chính quy của quân đoàn 1 vẫn đóng quanh Hà nội, đề phòng trường hợp
Trung hoa đổi ý, tiến sâu vào lãnh thổ Việt nam. Trong khi chờ đợi sự tăng viện
của những sư đoàn chủ lực từ các quân khu miền Trung và miền Nam ra tiếp viện
Hà nội đã phải điều động những tiểu đoàn dân quân từ các quận huyện ngoại thành
Hà nội như Gia Lâm, Đông anh, Thanh Trì, Từ Liêm lên bổ xung quân số. Đồng thời,
sau bốn năm hoà bình, dân chúng Hà nội lại được thông báo chuẩn bị sơ tán và
đào những hầm hố chống phi cơ oanh tạc.
Mờ sáng ngày 27-2-1979, sau khi đã được bổ xung và
tiếp liệu đầy đủ, quân Trung hoa mở một đợt tấn công mới. Dưới sự đốc thúc của
Dương Đắc Chí, tận dụng tối đa nhân lực và hoả lực của pháo binh, thiết giáp
nên trong vòng một ngày, các thị xã ven biên Lai Châu, Lào Cai, Cao Bằng, Hà
Giang lần lượt bị thất thủ. Để duy trì áp lực, không cho quân Việt nam dốc toàn
lực tiếp viện Lạng Sơn, quân Trung hoa sau khi chiếm được Lào Cai, tiếp tục
chuyển quân về phía nam dọc theo quốc lộ số 2 tiến đánh Cam Đường.
Tại hướng tấn công chính Lạng Sơn, Trung hoa tung
vào trận đánh sáu sư đoàn gồm các sư đoàn 127, 129 của quân đoàn 43, sư đoàn
160, 161 của quân đoàn 54, sư đoàn 163, 164 của quân đoàn 55, với hàng trăm xe
thiết giáp và đại bác yếm trợ. Phía Việt nam, các đơn vị phòng thủ chính gồm
các sư đoàn 3, 327, 338, 347 và sư đoàn 337 mới từ quân khu IV ra tăng cường, kết
hợp lại thành quân đoàn 14 để thống nhất chỉ huy. Sư đoàn 308 của quân đoàn 1
cũng có thể đã được gửi lên tiếp ứng.
Kể từ ngày 27-2-1979, quân Trung hoa liên tục hai mặt
tấn công, và dù quân Việt nam đã chống trả mãnh liệt, tuyến phòng thủ quanh Lạng
Sơn thu hẹp dần. Các công sự phòng thủ bị phá sập, quân số bị hao hụt nhanh
chóng không kịp bổ xung. Trước nguy cơ thất thủ Lạng Sơn, Bộ tổng tham mưu quân
Việt nam vội vã điều động quân đoàn 2 chính quy gồm hai sư đoàn 325 và 304 đang
hành quân tại phía nam Campuchia di chuyển bằng xe lửa và máy bay vận tải
Antonov của Nga khẩn cấp về lập tuyến phòng thủ sau quân đoàn 14 để bảo vệ châu
thổ sông Hồng. Nhưng việc tiếp ứng Lạng Sơn không còn kịp nữa. Thị xã bị pháo
kích suốt mấy ngày đêm, cuối cùng quân Trung hoa xâm nhập được thị xã, và quân
đội hai nước cộng sản đã phải chiến đấu ác liệt trên đường phố. Tới khuya đêm
4-3-1979, quân Trung hoa hoàn toàn làm chủ thị xã Lạng Sơn. Ngày hôm sau, Trung
hoa tuyên bố đã đạt được mục đích dạy cho các lãnh tụ Việt nam một bài học, đơn
phương ngưng bắn và hứa sẽ rút quân.
Tuy nhiên, vì còn bận dùng công binh phá sập hết những
công sự, đồn bót, cầu đường, nhà cửa, trường học, chợ búa, nhà máy, bệnh viện… Ở
những thị xã bị chiếm đóng, kể cả hang Pắc Bó, “suối Lênin”, “núi Các Mác”, nên
cuộc lui quân của Trung hoa kéo dài đến ngày 16-3-1979 mới hoàn tất. Với biết
bao đau thương đổ nát, với hàng mấy chục ngàn binh sĩ thương vong, cả hai bên đều
tuyên bố chiến thắng.
-----------------
Tài
liệu tham khảo:
– Việt nam sử lược của Trần Trọng Kim.
– Sự giúp đỡ của Trung hoa cho Việt nam trong chiên
dịch biên giới:
– Việt nam Máu Lửa của Nghiêm Kế Tổ
– Giọt Nước Trong Biển Cả của Hoàng Văn Hoan
– The Quycksand War của Lucien Bodard
– Sự hiện diện và hoạt động của các sư đoàn 306, 968
tại Lào:
– Binh Đoàn Hương Giang của Nhà xuất bản Quân đội
nhân dân
– Death in the Rice Field của Peter Scholl Latour.
– Tài liệu về Vi Quốc Thanh: Giọt Nước Trong Biển Cả
của Hoàng Văn Hoan
– Brother Enemy của Nayan Chanda
– Sự điều động của các đơn vị dân quân quanh Hà nội
lên biên giới:
– Chinese Aggression do Vietnam Courier xuất bản
1979
– Tài liệu về quân đội hai nước: Vietnam, a country
history và China, a country history, Library of Congress, Washington D. C.
1989. Đoàn Phước Long, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân.
– Mặt trận Cao Bằng, Lạng Sơn: Sư đoàn Sao Vàng,
Binh đoàn Hương Giang, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân.
– Các nhật báo Nhân dân và Quân đội nhân dân trong
thời gian từ 17-2-1979 đến 6-3-1979.
No comments:
Post a Comment