Tino Cao
12/07/2025
https://baotiengdan.com/2025/07/12/su-that-va-bia-dat/
Phản
bác bài viết “Một nhà ái quốc thầm lặng” của Lê Công Định
Ba
mươi năm sau ngày Việt Nam và Hoa Kỳ chính thức bình thường hóa quan hệ ngoại
giao (11.7.1995), công luận có lý do để nhìn lại một trong những bước ngoặt
quan trọng nhất của chính sách đối ngoại Việt Nam thời hậu chiến.
Việc
hai cựu thù từng đứng ở hai chiến tuyến trong một cuộc chiến kéo dài hơn hai thập
kỷ có thể trở thành đối tác toàn diện là một thành quả mang tính lịch sử, được
dẫn dắt bởi những vận động phức tạp về ngoại giao, chiến lược và tái cấu trúc địa
chính trị toàn cầu sau Chiến tranh Lạnh.
Trong
bối cảnh ấy, việc khơi lại ký ức quá khứ là điều cần thiết, nhưng ký ức không
thể thay thế cho lịch sử. Và việc nhào nặn ký ức theo cảm xúc chủ quan hoặc với
mục đích chính trị càng cần phải được đặt dưới sự soi chiếu khắt khe của sử liệu.
Bài viết “Một nhà ái quốc thầm lặng” của Lê Công Định, nhân kỷ niệm ba thập
niên bình thường hóa Việt-Mỹ, là một ví dụ tiêu biểu của lối viết hồi cố cảm
tính, dựng nhân vật như huyền thoại chính trị, nhưng lại không hề dựa vào bất kỳ
chứng cứ kiểm chứng nào.
Cốt
lõi lập luận của bài viết là: Tiến sĩ Nguyễn Văn Hảo, nguyên phó thủ tướng của
chính quyền Việt Nam Cộng Hòa, mới chính là “người có công đầu” trong tiến
trình Hoa Kỳ dỡ bỏ cấm vận và bình thường hóa quan hệ với Việt Nam vào năm
1994-1995. Theo Lê Công Định, ông Hảo không những giữ lại 16 tấn vàng cho quốc
gia trong những ngày cuối tháng 4 năm 1975, mà còn, hai thập kỷ sau, đã “vận động
hậu trường” qua kênh cá nhân với ông Ronald Brown, nguyên bộ trưởng Bộ Thương mại
Hoa Kỳ dưới thời Bill Clinton, để tạo nên một bước ngoặt chiến lược cho Việt
Nam.
Tuy
nhiên, toàn bộ chuỗi lập luận này không dựa trên bất kỳ tài liệu chính thống
nào từ phía Việt Nam, từ phía Mỹ, hay từ bất kỳ nguồn sử học đáng tin cậy nào.
Lê Công Định không trích dẫn biên bản làm việc, hồi ký chính khách, hồ sơ Quốc
hội, cũng không viện dẫn báo cáo tình báo, thông cáo báo chí của Nhà Trắng hay
Bộ Ngoại giao Mỹ – những nơi tất yếu phải ghi lại mọi cuộc tiếp xúc ngoại giao
có ảnh hưởng chính sách cấp cao.
Trái
lại, toàn bộ tài liệu đã được số hóa và công bố bởi Văn khố quốc gia Hoa Kỳ
(NARA), báo chí dòng chính như The New York Times, The Washington Post, hay các
công trình hồi ký của chính những người làm chính sách như tổng thống Bill
Clinton, thượng nghị sĩ John McCain, John Kerry hay đại sứ Douglas Brian Pete
Peterson… đều khẳng định rõ tiến trình bình thường hóa là kết quả của một chuỗi
vận động dài hơi, chính thức và công khai, với sự phối hợp liên ngành giữa hành
pháp và lập pháp Hoa Kỳ, trong khuôn khổ đối thoại song phương được khởi động
theo hướng tích cực từ năm 1986.
Chính
trong năm đó, thứ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ Richard Armitage đã dẫn đầu một phái
đoàn cấp cao sang Hà Nội vào tháng 1 năm 1986 để đàm phán về vấn đề tù binh chiến
tranh và quân nhân Mỹ mất tích (POW/MIA), đặt lịch trình sáu cuộc họp kỹ thuật
mỗi năm; và đến tháng 4, Việt Nam trao trả 21 bộ hài cốt lính Mỹ. Trong toàn bộ
hệ thống tài liệu đồ sộ này, không một dòng nào nhắc đến Nguyễn Văn Hảo. Không
một nhà ngoại giao Mỹ hay Việt Nam nào từng xác nhận ông Hảo là nhân vật “chủ
công vận động hậu trường” trong bất kỳ giai đoạn nào của tiến trình lịch sử
bình thường hóa.
Việc
ông Nguyễn Văn Hảo từng giữ lại 16 tấn vàng cho quốc khố Sài Gòn năm 1975 là một
sự kiện có thật, được nhiều nguồn báo chí Việt Nam và nhân chứng xác nhận. Sau
năm 1975, ông ở lại Việt Nam một thời gian trước khi sang Pháp đầu thập niên
1980, rồi làm cố vấn kinh tế tại Haïti. Trong giai đoạn làm việc tại Haïti, ông
có gặp Ronald Harmon Brown, một luật sư có vai trò trong lĩnh vực thương mại quốc
tế, là Chủ tịch Ủy ban toàn quốc đảng Dân chủ Mỹ, người sau này được tổng thống
Bill Clinton bổ nhiệm làm bộ trưởng Bộ Thương mại (1993-1996).
Có
một số tin đồn rộ lên ở Mỹ vào năm 1993 cho rằng ông Hảo và cộng sự từng tài trợ
các hoạt động tiếp cận lobby với chính giới Mỹ, trong đó có bộ trưởng Ronald
Brown, để vận động bỏ lệnh cấm vận. Tuy nhiên, một cuộc điều tra do Grand Jury
thuộc Bộ Tư pháp Mỹ tiến hành ngay năm đó đã khẳng định, không có bằng chứng
nào cho thấy tân bộ trưởng Ronald Brown nhận tiền để vận động chính sách bỏ cấm
vận, và vụ việc không dẫn tới bất kỳ truy tố hình sự nào. Chính Ronald Brown
cũng lên tiếng bác bỏ các cáo buộc, gọi đó là suy diễn chính trị từ truyền
thông bảo thủ.
Vấn
đề không nằm ở chỗ ông Hảo có từng gặp Ronald Brown hay không, vì đó là điều có
thể xảy ra, mà nằm ở chỗ: Không có bằng chứng nào cho thấy những tiếp xúc đó dẫn
đến sự vận động để thay đổi chính sách của Hoa Kỳ. Một nền chính trị pháp quyền
như Mỹ không thể điều chỉnh quan hệ quốc tế chỉ vì một mối quan hệ cá nhân mờ
nhạt giữa một cựu quan chức chế độ cũ với một thành viên nội các. Các quyết định
cấp cao như bỏ cấm vận, thiết lập bang giao, tái cấu trúc chiến lược khu vực đều
phải trải qua quy trình chính thức, có hồ sơ lưu trữ, được bỏ phiếu tại Quốc hội
và công bố công khai. Việc gán một vai trò trung tâm cho một cá nhân mà toàn bộ
hệ thống tài liệu không ghi nhận, không khác gì việc viết lại lịch sử theo lối
văn chương tưởng tượng.
Và
đó chính là điều nguy hiểm trong bài viết của Lê Công Định: Đánh tráo mức độ ảnh
hưởng của một nhân vật bên rìa chính sử thành trung tâm lịch sử, đánh tráo sự
im lặng và lãng quên thành biểu tượng “thầm lặng” có ý nghĩa lớn lao. Sự im lặng
ấy không thể là một chứng cứ lịch sử. Việc không được báo chí nhắc đến không đồng
nghĩa với đóng góp to lớn của ông Hảo bị lãng quên. Ngược lại, chính vì không
có tư liệu, không có hồ sơ, không có nhân chứng, nên việc gán ghép một vai trò
lớn lao cho ông Hảo là một thao tác hoài niệm không thể chấp nhận theo chuẩn mực
sử học. Nó phản ánh tâm lý chính trị của những cộng đồng lưu vong hoặc có lập
trường hoài niệm chính thể Việt Nam Cộng Hòa muốn tái hiện vai trò của bản thân
trong lịch sử quốc gia bằng cách tạo ra “người hùng bị quên lãng” để lấp vào
khoảng trống bản sắc chính trị.
Tôi
không phủ nhận nhân vật Nguyễn Văn Hảo từng xuất hiện và có vai trò nhất định
trong vài thời điểm lịch sử xoay quanh biến cố ngày 30.4.1975 và thời gian sau
năm 1975. Nhưng tôi khẳng định: Hoàn toàn không có tài liệu chính thức, hồi ký
nhân vật chủ chốt hay hồ sơ ngoại giao nào từ Việt Nam hay Hoa Kỳ xác nhận ông
Hảo là người đã “vận động hậu trường” cho tiến trình bình thường hóa quan hệ Việt-Mỹ
như Lê Công Định múa bút. Việc nâng một tin đồn chưa được kiểm chứng thành sự
thật là một hình thức bóp méo lịch sử có chủ đích.
Lịch
sử không phải là nơi để phóng chiếu hoài niệm hay khát vọng chính trị. Trong thời
đại lưu trữ minh bạch, mọi tuyên bố về vai trò cốt lõi đều phải được chứng
minh. Sự thật lịch sử không thuộc về người kể chuyện nghe lại từ đâu đó. Sự thật
chỉ thuộc về – và phải thuộc về – những bằng chứng được kiểm chứng công khai.
______________
Tài
liệu tham khảo:
1.
President Clinton Ends Trade Embargo on Vietnam, The New York Times,
1994: https://www.nytimes.com/1994/02/04/world/president-clinton-ends-trade-embargo-on-vietnam.html
2.
The Ron Brown Investigation, The Washington Post, Archives 1993–1995: https://www.washingtonpost.com/archive/politics/1995/05/14/the-ron-brown-investigation
3.
Hồ sơ Grand Jury Mỹ về Ronald Brown – Bộ Tư pháp Hoa Kỳ (thông qua govinfo.gov): https://www.govinfo.gov/content/pkg/GPO-CRECB-1993-pt16/pdf/GPO-CRECB-1993-pt16-7-2.pdf
4.
Wikipedia tiếng Việt: Nguyễn Văn Hảo: https://vi.wikipedia.org/wiki/Nguyễn_Văn_Hảo
5.
Wikipedia tiếng Việt: 16 tấn vàng: https://vi.wikipedia.org/wiki/16_tấn_vàng_của_Việt_Nam_Cộng_hòa
6.
Tuổi Trẻ, chuyên đề “Vàng đổi chủ” 2005: https://tuoitre.vn/ky-5-vang-doi-chu-135236.htm
No comments:
Post a Comment