KHÁC
BIỆT VÙNG MIỀN TRONG VĂN HOÁ VIỆT HẬU THỐNG NHẤT
KHÁC
BIỆT VÙNG MIỀN TRONG VĂN HOÁ VIỆT HẬU THỐNG NHẤT
Một
người miền Bắc lần đầu vào Sài Gòn có thể thấy người ta nói năng bỗ bã, ăn mặc
thoải mái, sống nhẹ như mưa bụi. Một người Nam ra Hà Nội, bối rối với những “dạ
– vâng – anh – chị – em – cháu – cô – chú – bác – thưa – gửi” lắt léo như mê
cung. Họ đều ở Việt Nam. Nhưng có lúc, họ không nghĩ vậy.
Sau
gần nửa thế kỷ thống nhất, người Việt vẫn chia hai trong ngôn ngữ, giao tiếp,
tư duy, quan niệm sống và đôi khi, trong niềm tin. Đó không chỉ là sự khác biệt
vùng miền thông thường, mà là một khoảng cách tinh thần, có khi sâu hơn cả một
đường biên giới. Bài viết này không nhằm phán xét, cũng không muốn làm trầm trọng
thêm chia rẽ. Nó là một cuộc chiếu đèn thẳng thắn và nhân văn vào một hiện thực
thầm lặng: Thống nhất đất, chưa thống nhất lòng.
Sự
khác biệt giữa người Bắc và người Nam không phải là chuyện mới sau năm 1975. Nó
là kết quả của những tầng lớp lịch sử chồng lên nhau, qua các đợt di cư, chiến
tranh, thay đổi chính thể và va đập văn hóa kéo dài hàng thế kỷ.
Miền
Nam, vùng đất của sự khai phóng. Từ thế kỷ 17, những cư dân miền Trung vào Nam
khai hoang vùng đất mới không vua chúa, không nghi lễ khắt khe. Họ sống linh hoạt,
phóng túng, khoan dung, thực tế và nhẹ nhõm.
Miền
Bắc, vùng đất của thiết chế và nghi lễ. Là trung tâm của các triều đại phong kiến,
miền Bắc phát triển một văn hóa giàu tính quy phạm, lễ nghĩa, và đề cao trật tự.
Từ
1954–1975, hai miền phát triển theo hai hệ tư tưởng. Miền Bắc sống dưới mô hình
XHCN tập thể hóa; miền Nam sống theo kinh tế thị trường, truyền thông tư nhân, ảnh
hưởng phương Tây. Hai thế hệ lớn lên trong hai nhịp tim văn hóa khác nhau và vết
rạn ấy chưa bao giờ lành hoàn toàn.
Người
Bắc quen nói vòng, nói khéo, “ý tại ngôn ngoại” điều quan trọng thì giấu trong
lớp sương mù lịch thiệp.
Người
Nam nói thẳng, nói thật, chêm “trời đất ơi”, “muốn xỉu” như kiểu trò chuyện bên
quán cóc, cởi mở và đầy biểu cảm.
Sự
khác biệt này không xấu. Nó phản ánh hai truyền thống: Miền Bắc, tư duy Khổng học,
trọng thứ bậc. Miền Nam, tư duy khai phóng, dân dã và bình dân.
Một
người Bắc ngạc nhiên khi được hỏi: “Chú ăn cơm chưa?” không biết là người Nam
đang thể hiện sự quan tâm và gọi chú để thể hiện sự thân mật. Người Bắc lại
nghĩ là chú em nên khó chịu.
Một
người Nam bối rối khi nghe một cuộc trò chuyện toàn “dạ vâng ạ” mà vẫn… chưa hiểu
ý chính nằm ở đâu.
Người
Bắc: thành công là có chức, có bằng, có quan hệ trong hệ thống.
Người
Nam: thành công là sống thoải mái, kiếm được tiền, có bạn, có niềm vui.
Ở
miền Bắc, “cháu ông nọ”, “con bà kia” có thể là tấm thẻ bảo hành xã hội. Ở miền
Nam, người ta quý “thằng đó tự thân mà lên, giỏi thiệt”.
Người
Bắc chọn nhà nước làm trung tâm an toàn. Người Nam chọn tiệm nước, chợ búa, phố
phường làm nơi sinh sống, giao dịch.
Cả
hai đều phản ánh những chiến lược sinh tồn hợp lý nhưng va chạm nhau khi cùng
chen vào không gian chung mà không hiểu bản đồ của người kia.
Chúng
ta không đánh nhau, không cãi nhau nhưng lại có hàng ngàn va chạm thầm lặng mỗi
ngày:
Hôn
nhân Bắc – Nam: bất đồng từ cách xưng hô đến cách dạy con.
Đồng
nghiệp: người thì cho rằng “làm việc phải chuẩn mực”, kẻ khác lại muốn “thoải
mái, miễn xong việc”.
Hội
đồng hương, nơi người ta né xung đột bằng cách… rủ nhau về đúng “phe mình”.
Nguy hiểm hơn cả là những kỳ thị không tên, kiểu:
“Dân
Bắc vào hay giành việc.”
“Dân
Nam chỉ giỏi ăn chơi.”
Những
định kiến ấy, khi lặp đi lặp lại, trở thành bức tường vô hình chắn giữa những
con người cùng quốc tịch, cùng tổ tiên, cùng một ngôn ngữ (mà hóa ra không cùng
cách nói).
Có
những câu nói tưởng chừng vô thưởng vô phạt nhưng lại phản ánh cả một hệ hình
tư duy xã hội. Ví dụ câu quen thuộc nơi miền Bắc: “Mày biết bố mày là ai
không?”
Không
chỉ là sự phô trương quyền lực kiểu gia trưởng, thiếu văn hoá, trịch thượng mà
còn ẩn chứa tinh thần tôn ti, thứ bậc và quan hệ bảo kê, vốn ăn sâu trong xã hội
lấy “địa vị làm thước đo”.
Người
miền Nam, vốn sống trong môi trường cởi mở hơn, nghe câu ấy sẽ ngớ người ra: “Ủa,
ủa, sao biết bố mày là ai?”
Hay
như chiếc nón cối, một vật dụng quá quen thuộc với cán bộ miền Bắc sau 1954,
vào Nam lại trở thành biểu tượng khó chịu. Bởi vì với nhiều người miền Nam, nón
cối từng gắn với hình ảnh của sự kiểm soát, khẩu hiệu, mệnh lệnh và… tem phiếu,
là sự thống trị và một thời kỳ nghèo đói, thiếu thốn khó quên. Nó không còn là
cái nón, mà là một ký ức. Những hình ảnh như vậy không phải để phân biệt, mà để
hiểu rằng:
Có
những đồ vật, ngôn từ, cách nói… mang theo ký ức tập thể mà mỗi miền gánh mang
một cách rất khác nhau. Và khi chúng ta bỏ qua ý nghĩa biểu tượng trong lịch sử
người kia, chúng ta dễ giẫm lên những vết thương mà mình không nhìn thấy.
Để
giải quyết tình trạng này cố gắng không đồng hóa, chỉ cần thấu hiểu. Không cần
phải giống nhau. Chỉ cần không chê nhau khi khác nhau.
Thống
nhất không phải là cùng ăn một món, nói cùng một kiểu, mặc cùng một đồng phục.
Thống
nhất là:
Biết
người kia đang nói theo ngữ pháp vùng miền của họ.
Biết
“bỗ bã” chưa chắc là vô lễ.
Biết
“nói khéo” chưa chắc là thủ đoạn.
Chúng
ta không cần một “tiêu chuẩn văn hóa Việt thống nhất”, điều đó chỉ làm nghèo đi
bản sắc. Chúng ta cần học cách dịch tâm hồn nhau, như người học ngoại ngữ,
không phải để sửa lỗi, mà để đọc được tình cảm qua khác biệt.
Ngoài
những lý do trên, còn có lý do chính trị. Không phải chỉ vì ngôn ngữ, món ăn
hay cách xưng hô mà người Việt hai miền có lúc thấy “lạ” nhau. Còn một tầng sâu
hơn, âm ỉ hơn: vết thương chính trị chưa bao giờ lành hẳn.
Người
miền Nam, hoặc đúng hơn là một phần lớn người từng sống trong thể chế Việt Nam
Cộng Hòa, có lý do để không xem “giải phóng” là giải phóng.
Với
họ, 30.4.1975 không hẳn là ngày độc lập, mà là ngày mất mát. Không chỉ mất
chính quyền, mà mất cả nếp sống, sách vở, trí nhớ tập thể. Những tiệm sách bị đốt.
Hàng ngàn văn hoá phẩm bị tiêu huỷ.
Nhiều
cửa hiệu, doanh nghiệp bị tịch thu. Những viên chức, quân nhân chế độ cũ bị đi
“học tập cải tạo”. Hàng trăm người đã chết nơi rừng sâu, nước độc vì thiếu ăn
và bịnh tật. Những gia đình bị đưa đi “kinh tế mới”, rời thành thị về rừng sâu.
Những người bị gắn “lý lịch xấu”, và từ đó con cái không thể vào đại học, không
được làm công chức.
Biết
bao nhiêu gia đình bị ly tán, biết bao nhiêu người bỏ mình nơi biển sâu trong
hành trình vượt biển. Đó không chỉ là chính sách, mà là những hình phạt tinh thần
kéo dài cả thế hệ. Và trong khi ấy, một số người miền Bắc tin rằng họ đang làm
“sứ mệnh cách mạng”, mang ánh sáng chủ nghĩa xã hội vào miền Nam. Cái “ánh
sáng” ấy, với người bên kia, có khi chỉ là đèn dầu soi tem phiếu.
Chúng
ta không cần phải thống nhất quan điểm lịch sử. Nhưng cần thống nhất ở một điều:
lắng nghe nỗi đau của nhau.
Khi
người miền Bắc nói về “thành tựu thống nhất”, hãy để họ nói. Khi người miền Nam
nhắc lại những mất mát, đừng bảo họ “chống phá” là “phản động”. Bởi im lặng về
tổn thương không làm nó biến mất, chỉ khiến nó hóa đá.
Việt
Nam là một dải đất dài, nhiều tiếng nói, nhiều tạng khí, và nhiều vết đau lịch
sử. Nhưng khi miền Bắc khóc vì miền Trung lũ lụt, miền Nam đau vì Hà Nội dịch
giã, đó là lúc tim ta cùng đập.
Một
đất nước: nhiều tâm hồn.
Một
dân tộc: nhiều bản thể văn hóa.
Và
đó không phải là vấn đề.
Miễn
là chúng ta không khước từ nhau, không ép nhau giống nhau, không coi nhau là lạ.
Thống
nhất thật sự không nằm ở bản đồ. Nó nằm ở một khoảnh khắc nhỏ: Khi một người Bắc
nghe giọng miền Nam mà mỉm cười. Và một người Nam nghe chất giọng miền Bắc mà
thấy… cũng là quê hương mình.
HÌNH
:
https://www.facebook.com/photo/?fbid=10161736875983635&set=pcb.10161736877813635
https://www.facebook.com/photo?fbid=10161736876013635&set=pcb.10161736877813635
https://www.facebook.com/photo?fbid=10161736877623635&set=pcb.10161736877813635
https://www.facebook.com/photo?fbid=10161736877653635&set=pcb.10161736877813635
.
No comments:
Post a Comment