Trịnh Hữu Long | Luật
Khoa tạp chí
https://luatkhoa.com/2025/07/internet-mot-thoi-da-xa/
HÌNH
:
https://luatkhoa.com/wp-content/uploads/2025/07/Cong-an-Internet.jpg
Từ
năm 2017 đến nay, số lượng nội dung của người dùng Việt Nam trên Facebook bị
xóa theo yêu cầu của chính quyền ngày càng nhiều. Chuyện tương tự cũng xảy ra
với Google, mà cụ thể là nền tảng YouTube của họ. Nguồn ảnh: AP. Đồ hoạ:
Thiên Tân/Luật Khoa tạp chí.
Chúng ta vừa trải qua những tháng ngày biến động
chính trị long trời lở đất mà không có bất kỳ một phong trào thảo luận đáng kể
nào diễn ra trên không gian mạng.
Giải thể, sáp nhập
hàng loạt các cơ quan trung ương và địa phương: không.
Sửa
Hiến pháp để bỏ cấp huyện: không.
Sáp
nhập tỉnh thành, cắt một nửa số tỉnh: không.
Giới quan sát chính
trị Việt Nam dường như đồng thuận với nhau rằng năm 2016 đánh
dấu một bước ngoặt trong chiến
lược kiểm soát xã hội của Đảng Cộng sản. Internet là
một trong những đối tượng chính của chiến lược mới này. [1] [2] [3] [4]
Những
ai từng sống hay quan sát xã hội Việt Nam trước năm 2016 có thể nhận thấy một đất
nước rất khác. Đó là thời kỳ bùng nổ kinh tế và cởi mở hơn về chính trị. Khi
đó, Internet gần
như nằm ngoài khả năng kiểm soát của chính quyền, các nền tảng nước ngoài như
Yahoo, Google, Facebook đua nhau tới Việt Nam và làm mưa làm gió. Lần đầu tiên
dân thường có được những công cụ tối tân và miễn phí để phát biểu. Xã hội dân sự
dù gặp muôn vàn khó khăn nhưng cũng bắt đầu nở rộ cả trên mạng lẫn ngoài đời. Nhiều
phong trào biểu tình đã bình thường hóa khái niệm biểu tình đến mức
người ta rục rịch trình dự luật biểu tình ra Quốc hội. [5] [6]
Mọi
thứ dường như có một sức sống nào đó và gieo được một niềm hy vọng nào đó, dù
chưa thực sự rõ ràng.
Nhưng
mọi thứ đã lao dốc không phanh kể từ sau Đại hội Đảng lần thứ 12, diễn ra vào
tháng 1/2016. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, sau một nhiệm kỳ, đã được bầu lại
và củng cố được quyền lực theo một cách hết sức ngoạn mục: loại bỏ được đối thủ
chính trị lớn nhất của ông là Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Kể từ đây, vị trưởng đảng
luôn miệng hô hào bảo vệ sự lãnh đạo của đảng chống lại mọi kẻ thù cả trong và
ngoài đảng. Xu hướng bảo thủ chiếm thế thượng phong. Dường như đã có một sự đồng
thuận mới trong đội ngũ lãnh đạo rằng họ cần phải giành lấy quyền kiểm
soát môi trường Internet bằng bất cứ giá nào. [7]
Và
họ đã thành công.
Trong
một nghiên cứu được công bố năm ngoái, có tên “How
foreign tech companies have failed to uphold human rights in Vietnam”,
tôi có trình bày chi tiết quá trình chính quyền Việt Nam hạ gục các gã khổng lồ
công nghệ nước ngoài và buộc họ phải tuân theo “sự lãnh đạo của Đảng” như thế
nào. [8]
Lấy
Facebook làm ví dụ.
Mạng
xã hội này bành trướng vào Việt Nam năm 2009 sau khi nền tảng blogging Yahoo!
360 rút lui. Chỉ hai năm sau, Facebook đã là trung tâm thông tin của một phong
trào biểu tình vô tiền khoáng hậu ở nước ta sau năm 1975, diễn ra suốt 11 tuần
vào mùa hè năm 2011. Người ta gọi những phong trào như vậy là “Revolution 2.0”
hay “Thế hệ F”.
Những
năm sau đó, các phong trào xã hội rầm rộ nhất đều diễn ra chủ yếu trên
Facebook: từ phong trào lập hiến năm 2013, tới phong trào biểu tình chống Trung
Quốc năm 2014, hay phong trào biểu tình phản đối chặt cây xanh ở Hà Nội năm
2015.
Facebook
trở thành một nhà bảo trợ truyền thông đắc lực cho mọi phong trào xã hội ở nước
ta, nếu không muốn nói là đồng minh quan trọng bậc nhất.
Tới
tận năm 2018, Facebook vẫn là chỗ dựa đáng tin cậy cho các phong trào này, với
hai cuộc biểu tình lớn phản đối Công ty Formosa năm 2016 và phản đối dự luật đặc
khu năm 2018.
Nhưng
rồi chuyện gì đã xảy ra?
Từ
năm 2017 đến nay, số lượng nội dung của người dùng Việt Nam trên Facebook bị
xóa theo yêu cầu của chính quyền ngày càng nhiều. Không rõ tỷ lệ thực tế các
yêu cầu được Facebook thực thi là bao nhiêu, nhưng chính phủ Việt Nam luôn
tuyên bố tỷ lệ 90-95%.
Chuyện
tương tự cũng xảy ra với Google, mà cụ thể là nền tảng YouTube của họ. Dữ liệu
từ các Báo cáo Minh bạch của Google thậm chí còn cho thấy trong số các yêu cầu
kiểm duyệt được chấp thuận, có tới 90% là nội dung chỉ trích chính quyền.
Chính
quyền Việt Nam đã làm được việc này như thế nào?
Đầu
tiên, họ dùng thị trường Việt Nam làm đòn bẩy để gây sức ép với các công ty nước
ngoài. Với quy mô doanh thu từ Việt Nam lên tới hàng tỷ đô mỗi năm, không có lý
gì Facebook và Google lại chịu từ bỏ. Muốn được ở lại thị trường Việt Nam, họ
phải chơi theo luật Việt Nam. Từng có thời gian Bộ Thông tin – Truyền thông
liên tục gây áp lực buộc các doanh nghiệp Việt Nam không được quảng cáo trên
các nền tảng nước ngoài, một kiểu bắt cóc tống tiền.
Thứ
hai, họ ban hành một loạt quy định mới nhắm tới các công ty nước ngoài. Luật An
ninh mạng 2018 là một ví dụ điển hình khi buộc các công ty nước ngoài phải lưu
trữ dữ liệu người dùng ở Việt Nam và mở chi nhánh, văn phòng ở Việt Nam. Vốn dĩ
Việt Nam không cần Luật An ninh mạng để “trị” các công ty trong nước, cái họ cần
là một cái búa gõ đầu các công ty nước ngoài. Sau Luật An ninh mạng là Nghị định
147/2024 yêu cầu các mạng xã hội xác thực thông tin người dùng. Và rất nhiều
quy định khác.
Đưa
ra những quy định trên trời này không hẳn là để thực thi, mà là để mặc cả với
Facebook và Google. Đó là lý do Nghị định 53/2022 sửa cả Luật
An ninh mạng, không yêu cầu các công ty này lưu dữ liệu ở Việt Nam cũng như
không cần mở cơ sở ở Việt Nam, chỉ cần tuân thủ các yêu cầu kiểm duyệt của
chính phủ là được.
Khi
các hãng này không tuân thủ, biện pháp mạnh sẽ được triển khai. Đó là vào đầu
năm 2020, sau biến cố Đồng Tâm, chính phủ đã bóp
băng thông của Facebook suốt vài tháng trời, đến mức người dùng gần
như không truy cập được. Lệnh cởi trói chỉ được ban ra sau khi Facebook đồng ý
kiểm duyệt nội dung chính trị nhiều hơn.
Thứ
ba, họ dùng các lực lượng dư luận viên để thao túng nội dung trên các nền tảng
nước ngoài. Xóa bài không đủ, họ phải làm chủ được sân chơi Facebook, YouTube
và các không gian khác. Không những sử dụng các lực lượng dư luận viên và Lực
lượng 47 như trước đây, họ còn lập ra Ban chỉ đạo 35 với mạng lưới rộng khắp
trên cả nước, huy động cán bộ, công chức, các đoàn thể, trường học tham gia đấu
tranh với thông tin mà họ cho là “xấu, độc”.
Kết
hợp với việc bắt bớ, bỏ tù người dùng trong nước, chiến lược của họ đã thành
công vang dội. Các công ty nước ngoài đã quỳ gối tuân phục.
Kể
từ thời đại dịch COVID-19 trở đi, không gian mạng Việt Nam đã “ngoan hiền” hơn
hẳn. Không còn phong trào xã hội nào khởi sinh từ đây hay dùng không gian mạng
để huy động lực lượng một cách hiệu quả nữa. Facebook và Google giờ đây thậm
chí còn bị cáo buộc là đồng lõa với chính phủ Việt Nam để kiểm soát ngôn luận.
Tổng
Bí thư Tô Lâm là kiến trúc sư trưởng của chiến lược kiểm soát này từ thời làm bộ
trưởng Bộ Công an. Nay, trên đỉnh cao quyền lực, ít có lý do gì để ông cởi trói
cho Internet.
------------
Chú
thích
[1]
Năm 2016 là năm diễn ra hàng loạt các cuộc bắt bớ những nhà hoạt động tích cực
lên tiếng phản đối các vấn đề bất cập, nhiễu nhương trong xã hội Việt Nam. Xem:
Báo cáo xuất bản năm 2018 về tình hình đấu tranh cho tự do ngôn luận, tự do biểu
đạt ở Việt Nam của tổ chức Pen America. URL:
https://pen.org/freedom-of-speech-in-vietnam/
[2]
Năm 2016, Việt Nam đứng thứ 20 trên 100 quốc gia về tự do con người, và được nhận
xét là một xã hội không tự do (not free) theo đánh giá của tổ chức
Freedom House. Báo cáo này cũng cho biết đây là một năm biến động với hàng loạt
cuộc đấu tranh, biểu tình, và hàng loạt vụ bắt bớ, sách nhiễu giới hoạt động
dân chủ xã hội. Xem báo cáo này tại:
https://freedomhouse.org/country/vietnam/freedom-world/2017
[3]
Báo cáo của tổ chức Nhân quyền Liên Hợp Quốc chỉ rõ những nỗ lực truy quét, đàn
áp, bắt bớ các nhà hoạt động xã hội và đấu tranh cho nhân quyền tại Việt Nam
trong giai đoạn 2015-2017, thể hiện một nỗ lực kiểm soát mạnh mẽ hơn, quyết liệt
hơn của chính quyền đối với không gian dân sự. Xem báo cáo:
[4]
Tháng 11/2016, Freedom House phát hành một báo cáo dài 44 trang đánh giá về
tình hình tự do trên Internet tại Việt Nam kể từ cuối năm 2015. Trong đó phản
ánh rõ tình hình Internet đang được kiểm soát ngày càng gắt gao từ phía chính
quyền, đặc biệt là sau giai đoạn người dân tổ chức biểu tình phản đối nhà máy
Formosa. Xem báo cáo:
https://freedomhouse.org/sites/default/files/2020-02/FOTN_2016_BOOKLET_FINAL.pdf
[5]
Một nghiên cứu của Bui Hai Thiem xuất bản trên tạp chí Sage (Sage Journals) vào
tháng 8/2016 đã mô tả và phân tích rõ quá trình du nhập, lớn mạnh và phổ cập
hoá đến người dùng của các dịch vụ máy tìm kiếm, mãng xã hội và nền tảng
đa phương tiện như Google, Facebook hay YouTube. Các dịch vụ này đặc biệt tiếp
cận sâu rộng giới tinh hoa và tạo nên những luận đàn sôi nổi thu hút nhiều tầng
lớp trong xã hội, trở thành kênh thảo luận các vấn đề chính trị mà đông đảo quần
chúng quan tâm. Xem nghiên cứu tại:
https://journals.sagepub.com/doi/10.1177/186810341603500204
[6]
Nghiên cứu của hai học giả người Úc là Anita Chan và Kaxton Siu đã cho thấy có
sự gia tăng đột biến số lượng các phong trào biểu tình tại Việt Nam từ năm 2006
trở đi, gắn với những bước phát triển kinh tế, khoa học – công nghệ, và sự bùng
nổ của Internet cùng các kênh mạng xã hội. Xem bản tóm tắt nghiên cứu:
https://studylib.net/doc/5612764/strikes-and-declining-living-standard-in-vietnam
[7]
Bài báo của Michael Sainsbury ngày 28/7/2018 chỉ rõ chính quyền Việt Nam đã nỗ
lực thắt chặt kiểm soát và kiểm duyệt môi trường Internet trong nước, đặc biệt
là thông qua việc ban hành Luật An ninh mạng và tổ chức các lực lượng an ninh đặc
biệt tích cực hoạt động trực tuyến. Theo bài báo, động thái này đã gây tác động
nghiêm trọng đến quyền tự do của người dân ở nhiều lĩnh vực, trong đó có sinh
hoạt tôn giáo.
[8]
Trịnh Hữu Long. (2024). Foreign tech companies in Vietnam: Challenges and
failures in upholding human rights. Legal Initiatives for Vietnam.
No comments:
Post a Comment