Nhân
quyền: Làm sao để có và để không bị mất?
09/11/2021
https://www.voatiengviet.com/a/nhan-quyen-co-duoc-khong-mat-di/6304406.html
https://gdb.voanews.com/b082cda1-724c-499a-87da-26673dc00a4b_w650_r1_s.jpg
Biểu tình ở Thái
Lan đòi thủ tướng Prayuth Chan-ocha từ chức. Hình minh họa.
Trong gần hai tháng qua, luật sư Trần Kiều
Ngọc đã cùng một số nhà hoạt động trong nước tổ chức khóa học kéo dài 6 tuần
về nhân quyền. Nói là 6 tuần nhưng thật ra mỗi tuần chỉ học thảo một lần vào
ngày Chủ Nhật, và mỗi lần dài khoảng 2 tiếng rưỡi thôi. Khóa học này đã chia sẻ
các nguyên tắc, giá trị và triết lý đằng sau học thuyết nhân quyền cùng các học
viên trong và ngoài Việt Nam. Ngoài lý thuyết bàn về nội dung của bản Tuyên
ngôn Nhân quyền Phổ quát (UDHR), Công ước về Quyền Trẻ em (CRC), Công ước Quốc tế
về Quyền Dân sự và Chính trị (ICCPR), khóa học cũng trình bày những kỹ năng cần
thiết và các phương thức vận động và đóng góp thiết thực để đề cao, bảo vệ và cải
thiện nhân quyền tại Việt Nam. Cụ thể là dùng những báo cáo, bản tin, thông cáo
và bình luận của các tổ chức nhân quyền hàng đầu thế giới để phân tích và học hỏi,
như Amnesty International (AI) và Human Rights Watch (HRW), và đối chiếu với
trường hợp tại Việt Nam.
Điều tích cực là trong số các học viên tham dự
thì có khoảng 10 học viên, hoặc hơn, đều rất trẻ; có bạn còn đang 15, 16 tuổi,
học trung học. Ngoài ra, mỗi buổi học đều có một vài nhà hoạt động uy tín trong
và ngoài nước tham dự và chia sẻ góc nhìn của mình về nhân quyền. Một số nhà hoạt
động Việt Nam có kiến thức khá vững vàn, và có nhiều kinh nghiệm thực tiễn, nên
chia sẻ được nhiều điều quý giá với mọi tham dự viên.
Chúng tôi đã tham dự khóa học này đầy đủ.
Trong tất cả mọi thành phần tham dự, chúng tôi đặc biệt quan tâm đến giới trẻ.
Tương lai của Việt Nam có thăng trầm hay thành bại ra sao, có những thay đổi lớn
lao và tích cực, hay nhỏ bé và tiêu cực ra sao, đều do tư duy của giới trẻ Việt
Nam hiện nay và mai sau. Nếu người trẻ Việt Nam có thể trang bị cho mình một
tinh thần tương thân tương ái, nghĩa là có viễn kiến vì phúc lợi chung, chứ
không phải chỉ cho cá nhân, gia đình, hay phe nhóm mình, thì lịch sử trước sau
gì cũng khang trang.
Nếu có thể tóm tắt các bài học trong 6 tuần qua,
thì xin được chia sẻ như sau.
Một, toàn bộ học thuyết nhân
quyền nên được xem như là điểm chuẩn (benchmark), để mọi con người của mọi quốc
gia có thể dùng làm chuẩn mực hầu thúc đẩy các quyền con người. Các giá trị về
tự do, bình đẳng, công bằng, công lý, cũng như các quyền dân sự và chính trị
v.v... đều mang tính tương đối, đều phải được ràng buộc bởi hiến pháp và pháp
luật của quốc gia, để tránh bị lợi dụng hay lạm dụng, dù đó là từ phía người
dân hay chính quyền. Ngoài ra, các quyền và tự do của con người có mối quan hệ
mật thiết đến các nhu cầu căn bản nhất, như nhu cầu sinh lý, an toàn và thương
yêu; bậc cao hơn là sự ghi nhận, kính trọng, lòng tôn trọng và tự trọng, và các
quyền tự do căn bản. Không có những điều này thì một người khó thể nào thực hiện
mong muốn của mình để được tự do thật sự.
Hai, không thể học hay hành về
nhân quyền nếu không có lòng tự trọng. Chính vì thế mà ở các nước văn minh, khi
lòng tự trọng của con người càng cao, càng hiểu sâu về quyền con người của
chính mình và, của người khác, thì sự tôn trọng nhân quyền cũng cao lên.
Nhưng làm sao để có được lòng tự trọng? Đây là
câu hỏi rất khó. Nó như con gà và trái trứng vậy. Có nhân quyền trước thì sẽ có
được lòng tự trọng, hay có lòng tự trọng sẽ đưa đến nhân quyền?
Muốn có lòng tự trọng thì phải có sự tự tin.
Tin rằng chính mình, không ai khác, mới quyết định được vận mệnh, tương lai, cuộc
sống của mình. Ngoài ra cần phải có sự thương yêu, cảm thông, hỗ trợ v.v... từ
người khác, nhất là từ gia đình. Không có các yếu tố này, mà còn bị vùi dập, bị
đối xử tồi tệ từ trong gia đình, đến nhà trường, và xã hội rộng mở, v.v... thì
khó một ai có thể có sự tự tin, để có lòng tự trọng, để rồi sau đó biết tôn trọng
người khác, nhất là các quyền căn bản của người khác.
Khi nói đến điều này, thì chúng ta cần hiểu rằng
tôn trọng nhân quyền đối với một người khác có nghĩa là thật sự xem người đó có
đủ quyền và tự do giống như mình, bất kể màu da, sắc tộc, tôn giáo, phái tính,
tuổi tác v.v… Tinh thần tôn trọng đích thực là như thế, dù người đó nhỏ tuổi
hơn mình, con cháu mình, hiểu biết kém hơn mình, nghèo hơn mình, hay nói chung
mọi thứ đều thua kém mình. Đó mới là tôn trọng đích thực. Chứ không phải chỉ
tôn trọng khi người đó ở vai vế lớn hơn mình, như cha mẹ, anh chị, thầy cô, ông
này bà kia, giàu có quyền lực hơn mình v.v...
Ba, mọi điều trên sẽ vô
nghĩa nếu chỉ dừng lại ở thông tin hay kiến thức. Chỉ qua thực hành thì chúng
ta mới cảm nhận được các giá trị đích thực này, cũng như các giới hạn của nó.
Khi có niềm tin, khi thực sự tin tưởng, chúng ta phải tìm cách áp dụng vào đời
sống, vào thực tế. Nhân quyền là bao hàm gần như mọi thứ liên quan đến đời sống
của chúng ta. Một số người di dân khắp nơi, trước đây cũng như sau này, không
biết rằng bạo hành gia đình là vi phạm nhân quyền, với phụ nữ hay với trẻ em, tại
Úc hay các nền dân chủ pháp quyền khác. Họ ngạc nhiên sau khi bị xét xử vì vi
phạm. Sống đây một thời gian, họ từ từ quen và hiểu ra, và cũng thay đổi dần
cung cách hành xử trước đây. Bao nhiêu các vấn đề mang tính cá nhân cũng đều là
nhân quyền, hay chính trị (the personal is political), không chỉ riêng nữ quyền.
Qua khóa học này, một số bạn trẻ cho biết các
em hồi trước đến nay không nghĩ nhân quyền rộng như thế. Không nghĩ rằng giáo dục
gia đình, kể cả dạy dỗ, trừng phạt, đều liên quan đến nhân quyền, nhất là quyền
trẻ em. Môi trường sống như không khí, thức ăn, chỗ ở, nước uống, hay biến đổi
khí hậu v.v… đều liên quan trực tiếp đến đời sống con người, đến quyền làm người
của tất cả chúng ta. Do đó, khóa học đề nghị nhu cầu mở rộng hoạt động nhân quyền
lên toàn diện đời sống, từ người khuyết tật, trẻ em, phụ nữ, phái tính/LGBTI,
cho đến các quyền lao động, công đoàn, nghiệp đoàn v.v... Nếu chỉ tập trung vào
quyền dân sự và chính trị thì không gian hoạt động là giới hạn, kém hiệu quả,
và khả năng vận động nhiều thành phần khác nhau trong xã hội tham gia vào việc
bảo vệ và phát huy nhân quyền sẽ bị giới hạn.
Bốn, khóa học này chia sẻ
quan niệm rằng quyền trẻ em là nền tảng của xã hội. Tương lai của đất nước có
thay đổi hay không, đến mức độ nào, theo chiều hướng nào, v.v… là do ý thức và
tư duy được hình thành từ các thế hệ trẻ hôm nay và mai sau. Nếu không đầu tư
vào, nếu không tôn trọng các quyền căn bản của trẻ em, ngay từ trong gia đình
và nhà trường, thì đừng mong họ sẽ có lòng tự trọng, và đừng mong sau này họ sẽ
tôn trọng quyền và tự do của người khác.
Năm, khóa học đề cao nhu cầu
ghi chép hồ sơ, dữ liệu như một công việc quan trọng hàng đầu. Không có dữ liệu
thì không thể nói chuyện hay thuyết phục được ai cả, ngay cả khi được quan tâm
và hỗ trợ. Sự thật không thể đến từ cửa miệng thôi. Cho nên mọi người cần tập
thói quen ghi chép mọi thứ có thể, nếu an toàn, và làm việc cũng như giải quyết
vấn đề dựa trên dữ liệu và lý luận. Hãy luôn quan niệm rằng nếu không ghi lại
thì coi như chuyện đó không xảy ra. Ngàn năm bia miệng chỉ có giá trị thời xưa,
chứ thời nay thì phải có bằng chứng hẳn hoi trong mọi việc mình làm.
Phải thú thật rằng khi nhìn thấy một số bạn trẻ
tham gia vào khóa học này, chúng tôi cũng lấy làm vui mừng và lạc quan. Có bạn
tham gia thảo luận nhóm, trình bày đề tài mình được giao phó, và trả lời các
câu hỏi từ người khác. Tuy nhiên, trong diễn đàn thảo luận và trong khóa học,
chúng tôi vẫn thấy sự rụt rè vẫn còn nhiều. Nhất là khi đặt câu hỏi.
Các em đã được nhắc nhở lên tiếng trong diễn
đàn, và mạnh dạn phát biểu những gì mình suy nghĩ trong buổi học. Đặc biệt quan
trọng nhất là chúng tôi mong các em hiểu được rằng khi hỏi thì đó chính là quyền
căn bản nhất. Có thể các em không quen, nên ngại hỏi. Điều này tuy có thể hiểu
được, nhưng chính các em phải vượt qua được nỗi sợ này, thì mới tiến bước vững
vàng. Bởi vì nếu lỡ chúng ta có hỏi câu hỏi vớ vẩn thì cũng không sao cả. Đó
cũng là cơ hội để chúng ta học từ cái sai, cái dở, hay lỗi lầm của mình. Lấy
thí dụ, một trong những kỹ năng quan trọng nhất của người làm truyền thông là
biết đặt câu hỏi. Nhưng không phải tự nhiên họ biết đặt câu hỏi thật đúng hoặc
hay, mà phải qua quá trình luyện tập và học hỏi không ngừng. Không ai thành
công mà không thất bại; và người thành công lớn thường là người từng thất bại lớn.
Quyền trẻ
em được công bố rất sớm vào năm 1924, có
tên gọi là Tuyên ngôn Geneva; rồi được tuyên dương trong Tuyên ngôn Nhân quyền
phổ quát (điều 25, 26) năm 1948; rồi được Hội đồng Liên Hiệp Quốc chấp thuận
năm 1959; trong ICCPR (điều 23, 24); trong Công ước Quốc tế về Quyền Kinh tế,
Xã hội và Văn hóa (ICESCR, điều 10). Nhưng mãi đến cuối tháng 11 năm 1989 mới
chính thức được Đại Hội đồng LHQ thông qua, và có hiệu nghiệm vào ngày 2 tháng
9 năm 1990. Việt Nam đã ký vào
phần lớn các công ước nhân quyền quốc tế, kể cả CRC, nhưng không cam kết thi
hành nó. Ký nhưng không kết là vậy. Trông đợi họ tôn trọng và thực thi thì là
điều không thực tế.
Nhân quyền không thể được ban phát từ phía
chính quyền. Nếu có thể ban phát, thì cũng có thể bị tước đi. Vấn đề chính nằm ở
niềm tin, hiểu biết và quyết tâm dành giữ, phát huy và cải thiện không ngừng để
sự đối xử giữa con người với nhau ngày một văn minh hơn, và để chính quyền
không can thiệp quá nhiều vào quyền lợi và tự do của người dân.
Đến khi nào người dân Việt Nam, nhất là giới
trẻ, có tư duy và niềm tin này, và quyết tâm thực hiện nó, thì lúc đó không ai
có thể lấy đi mất vì họ đã thực sự sở hữu nhân quyền.
Phạm Phú Khải, viết chung cùng luật sư
Trần Kiều Ngọc.
Úc châu, 03/11/2021
No comments:
Post a Comment