Giáo sư kinh tế, Đại học Waseda
Thứ năm, 12/8/2021, 00:05 (GMT+7)
https://vnexpress.net/olympic-va-suc-manh-quoc-gia-4339194.html
Cuối cùng, Tokyo Olympic đã được thực hiện, và
tôi tự hỏi: Việt Nam ta bao giờ có thể tổ chức được Thế vận hội?
Tokyo Olympic bế mạc hôm 8/8 ghi dấu vào lịch
sử. Đây là lần đầu tiên sự kiện không có người xem ở các trường đấu, lễ khai mạc,
bế mạc và không có giao lưu giữa cầu thủ nước ngoài với người dân nước chủ nhà.
Trong tình hình dịch lan rộng thì hoặc là
không tổ chức hoặc phải tổ chức trong điều kiện đặc biệt như thế. Đã có 11.000
tuyển thủ của 205 nước và vùng lãnh thổ tham gia. Tuy một số tuyển thủ nước
ngoài sau khi đến Nhật bị phát hiện nhiễm Covid-19 và phải bỏ cuộc, nhưng tất cả
các trận đấu đã diễn ra như kế hoạch.
Tôi xem hết lễ khai mạc, đặc biệt chú ý mục
tuyển thủ các nước lần lượt tiến vào lễ đài. Sắc màu trang phục, cách biểu lộ
tinh thần đồng đội, nét mặt hân hoan được tham gia trong sự kiện quốc tế nhiều
ý nghĩa của mỗi nước mỗi khác. Nhưng điểm tôi chú ý nhất là số tuyển thủ của
các nước. Có nước hùng hậu tới trên 500 người, có nước chỉ vài vận động viên.
Dĩ nhiên có nước nhỏ nước lớn và điều đó phản ánh trong sự kiện quốc tế này.
Nhưng nói vậy chưa đủ. Vì có nhiều nước nhỏ về
quy mô kinh tế nhưng tuyển thủ khá đông. Có lẽ có ba yếu tố quyết định điều
này: Quy mô dân số, trình độ phát triển phản ánh trên thu nhập đầu người và những
yếu tố khác như lịch sử, địa lý và nhất là chính sách, chiến lược thể thao của
mỗi quốc gia. Yếu tố thứ ba giải thích số tuyển thủ tương đối đông của nhiều nước
Phi châu, châu Mỹ Latin và Đông Âu dù dân số rất ít và trình độ phát triển chưa
cao. Số tuyển thủ đông đảo còn phản ánh khả năng tham gia thi đấu ở nhiều chủng
loại, hạng mục thể thao.
Tôi thấy số tuyển thủ tham gia gần như tương ứng
với thành tích đạt được. Những nước có tuyển thủ đông nhất là Mỹ (657), Nhật
(600), Australia (468), Trung Quốc (420) đều trong nhóm sáu nước đoạt nhiều huy
chương nhất. Các nước khác thuộc top 10, gồm Anh, Nga, Hà Lan, Pháp, Đức và
Italy cũng có tuyển thủ đông đảo. Chỉ 10 nước này đã đoạt tất cả 203, chiếm 60%
tổng số huy chương vàng.
Tôi đặt ra vấn đề này và đưa ra ba yếu tố ở
trên cũng là để suy nghĩ về trường hợp Việt Nam chúng ta. Kỳ này, Việt Nam chỉ
có 19 tuyển thủ tham gia và rất tiếc không đoạt huy chương nào. Nhìn từ hai yếu
tố, dân số và trình độ phát triển - đã đạt mức trung bình, cũng như vị trí ngày
càng cao trên các diễn đàn chính trị kinh tế khu vực và thế giới, vị trí của Việt
Nam ở Olympic thật quá nhỏ. Việt Nam lại ở tương đối gần Tokyo. Nhiều nước xa
xôi tận Phi châu như Uganda hay Trung Nam Mỹ như Guatemala có số dân chỉ bằng nửa
hay 1/5 của Việt Nam và thu nhập đầu người ít hơn nhiều, nhưng tuyển thủ tham
gia xấp xỉ Việt Nam.
Số tuyển thủ quá ít của Việt Nam có thể giải
thích bằng yếu tố thứ ba nói trên. Chúng ta mới có hòa bình hơn 30 năm nay và
phải ưu tiên nguồn lực cho các mục tiêu khác. Nhưng cũng khách quan nhìn lại
thì thấy Việt Nam chưa cố gắng đúng mức để phát hiện tài năng trẻ, để đầu tư
nhiều hơn cho lĩnh vực thể thao. Trong tương lai, nếu kinh tế phát triển mạnh mẽ
và có chính sách chấn hưng thể thao, tăng thể lực người dân, tôi hy vọng vị trí
của Việt Nam ở các Thế vận hội tương lai sẽ khác.
Nhìn lại lịch sử Olympic khoảng 60 năm gần
đây, ta thấy những nước được tín nhiệm đăng cai tổ chức sự kiện quốc tế này đều
đã kinh qua một giai đoạn phát triển mạnh mẽ, báo hiệu thời đại mới sắp tới.
Trước hết là Nhật Bản với Tokyo Olympic năm 1964. Lúc đó, Nhật đang ở vào giữa
giai đoạn phát triển thần kỳ - trung bình tăng trưởng 10% mỗi năm kéo dài gần
20 năm, từ 1955 đến 1973.
Tiếp theo Nhật, 24 năm sau là Seoul Olympic
1988. Hàn Quốc trở thành nước công nghiệp mới năm 1979 và tiếp tục phát triển
với tốc độ cao để 9 năm sau tổ chức sự kiện quốc tế quan trọng này. Mùa hè năm
1986, lần đầu tiên thăm Hàn Quốc, tôi chứng kiến không khí tưng bừng, hồ hởi và
tự tin của người dân đang chuẩn bị cho Seoul Olympic. Hai mươi năm sau là Beijing
Olympic 2008. Trung Quốc đang ở vào giữa giai đoạn phát triển mạnh mẽ, hai
năm sau đó vượt Nhật Bản trở thành nền kinh tế thứ hai thế giới.
Được đăng cai tổ chức Olympic có thể không phải
là mục tiêu của quốc gia nhưng sự kiện quan trọng đó nói lên một trong những
thành quả của phát triển. Để có thể tổ chức thành công Thế vận hội hiện đại với
sự tham gia của cả vạn tuyển thủ đến từ trên dưới 200 nước và vùng lãnh thổ phải
có năng lực tài chính và kỹ thuật, công nghệ, quản lý để xây dựng cơ sở hạ tầng
phức tạp, đa dạng, bảo đảm an toàn các đấu trường cho hàng chục chủng loại thể
thao.
Yếu tố quan trọng không kém là khả năng bảo đảm an toàn cho tuyển thủ và du
khách trong hơn hai tuần của Olympic, là sự hiếu khách thể hiện ở văn hóa của
thị dân, ở tổ chức, sinh hoạt kinh tế, xã hội của thành phố. Olympic không chỉ
là sự kiện thể thao lớn của nhân loại mà còn là một sự kiện kinh tế, chính trị.
Việt Nam thì sao? Nếu đặt mục tiêu trở thành nước tiên tiến vào năm 2045 thì
khoảng cuối thập niên 2030, tức gần 20 năm nữa, Việt Nam phải đủ năng lực để tổ
chức sự kiện quốc tế lớn này dù trên thực tế Hà Nội, TP HCM hay Đà Nẵng, Hải
Phòng có giành được thắng lợi trong cuộc cạnh tranh đăng cai tổ chức Olympic
hay không.
Hiện các Olympic đến năm 2032 đã được quyết định. Paris 2024, Los Angeles 2028,
Brisbane 2032 và Istanbul đang nhắm Olympic 2036. Việt Nam, Thái Lan,
Indonesia, Philippines và Ấn Độ có thể sẽ tranh nhau đăng cai tổ chức Olympic
2040?
Hơn 10 năm trước, Việt Nam đã đạt mức phát triển
trung bình thấp. Nếu việc phủ vaccine được tiến hành nhanh đến đại đa số dân
chúng và nạn dịch căn bản được khắc phục, kinh tế sẽ trở lại quỹ đạo của những
năm trước 2020 và Việt Nam sẽ đạt mức phát triển trung bình cao vào giữa hoặc nửa
sau thập niên này.
Nhưng từ phát triển trung bình cao tiến lên
hàng một nước tiên tiến không dễ, đòi hỏi những cải cách sâu rộng, mạnh mẽ về
thị trường vốn, thị trường đất đai, đào tạo nguồn nhân lực, chấn hưng khoa học
công nghệ, cải cách hành chính liên quan tiền lương và chế độ tuyển chọn quan
chức các cấp.
Những cải cách này là tiền đề để các nguồn lực
được phân bổ hiệu quả, để khoa học, công nghệ được ứng dụng rộng rãi, chất lượng
nguồn nhân lực thích ứng với những thay đổi của khoa học, công nghệ. Và từ đó,
năng suất lao động tăng vượt bậc so với các giai đoạn phát triển trước.
Đây cũng là những tiền đề để có thể tổ chức
Olympic vào khoảng năm 2040.
Trần Văn Thọ
No comments:
Post a Comment