Bắc/Nam Giữa Thời Mắc Dịch
Thứ Sáu, 08/13/2021 - 06:20 — tuongnangtien
https://www.rfavietnam.com/node/6912
Tuy chào đời tại Sài Gòn – trước Hiệp
Định Geneve – tôi vẫn có mặt trong đoàn người di cư từ Bắc vào Nam
hồi năm 1954. Tuy đây không phải là một “giai thoại” ly kỳ hay thú vị
gì sất cả nhưng vẫn xin được phép ghi thêm đôi dòng (cùng dặm thêm
chút đỉnh mắm muối) để câu chuyện được tỏ tường, và đỡ phần nhạt
nhẽo.
Tác giả Lê Duy
San cho biết: “Ngày 12/7/1946, theo lệnh của Trường Chinh, Việt Minh
âm thầm cho công an đột nhập trụ sở Việt Nam Quốc dân Đảng ở số 9 phố Ôn Như Hầu.
Hằng trăm người bị giết bằng cách trói lại và bị quăng xuống những con sông để
họ chết chìm rồi loan tin là những người này bị VNQDĐ thủ tiêu.
Vụ này đã làm cho VNQDĐ tan rã, nhiều người phải
chạy trốn sang Tầu trong đó có cụ Nguyễn Hải Thần, Huỳnh Thúc Kháng, Vũ Hồng
Khanh, Hoàng Đạo, Nhất Linh Nguyễn Tường Tam và nhiều lãnh tụ của Việt Quốc và
Việt Cách khác. Hàng ngàn người khác bị chúng bắt đem di giam giữ tại Hỏa Lò Hà
Nội và nhiều nơi khác trong đó có nhà văn Khái Hưng Trần Khánh Giư.”
Tôi sinh sau đẻ muộn nên không được tường
tận về những sự kiện thượng dẫn nhưng biết chắc rằng – ngoài những
nhân vật nổi tiếng vừa nêu – còn có vô số những đảng viên cấp địa
phương (của cả Việt Quốc lẫn Việt Cách) cũng bị truy lùng hay sát hại
vì không “bung” kịp, hoặc không tìm được đường để ra đến nước ngoài.
Thân phụ tôi là một trong những kẻ thuộc
cái đám đông vô danh tiểu tốt này. Thay vì chạy sang Tầu, như phần
lớn những đồng chí ở trung ương, ông trốn vào Nam. Tuy tay trắng, không
có chi để lận lưng, ngoài cái bằng tiểu học (Certificat D’Étude Primaires
Complémentaires Indochinoises, C.E.P.C.I) ông vẫn kiếm được đôi ba chỗ kèm
trẻ, và một nơi để trú thân, trong một cái xóm lao động nghèo nàn
– có tên là Xóm Chiếu – bên Khánh Hội.
Trong Thư Về Làng (viết
năm 1956) nhạc sỹ Thanh Bình tâm sự: Từ miền Nam, viết thư về thăm
xóm làng/ Sắt son gửi trong mấy hàng/ Thăm bà con dãi dầu năm tháng/ Từ Tiền
giang thương qua đèo Cả thương sang/ Đêm đêm nhìn vầng trăng sáng …
Bố tôi không phải là nghệ sỹ nên thư của
ông chỉ đề cập đến chuyện cơm, áo, gạo, tiền … Ông viết: “Trong này
có khi cơm ăn không hết, người ta đổ cho gà hay cho lợn.” Mẹ hiền, tất
nhiên, không thể nào tin vào một chuyện “hoang đường” cỡ đó!
Bà vùng vằng, tức tối xé nát tờ thư
trong tay (ấy là tôi đoán thế, nếu sai, xin má thứ tha
và bỏ qua cho con trai út) lầu bầu: “Lại phải lòng con đĩ nào trong
ấy rồi, và chắc là định trốn vợ trốn con luôn đây, chứ thức ăn ở
đâu ra mà lại phí phạm như vậy được?”
Nói xong, bất chấp mọi sự can ngăn/khuyên
giải của họ hàng nội ngoại, bà tức tốc lặn lội vào Nam. Tới nơi,
hiền mẫu tìm quanh quất mãi nhưng chả ra một con đĩ (ngựa) nào
ráo trọi mà nhìn đâu cũng thấy phố xá tấp nập, hàng quán tùm lum,
và đồ ăn thức uống ê hề khắp chốn.
Vốn ham vui, và rất chóng quên nên mẹ tôi
ở lại luôn trong Nam cả năm trời. Hệ quả (hay hậu quả) là tôi cất
tiếng khóc chào đời tại Sài Gòn. Khi hiệp định đình chiến được ký
kết tại Geneve, vào ngày 20 tháng 7 năm 1954, tôi mới vừa lẫm chẫm
biết đi. Cũng mãi đến lúc này bà má mới “chợt nhớ” ra rằng mình
còn mấy đứa con nữa, đang sống với ông bà ngoại, ở tuốt luốt bên kia
vỹ tuyến.
Thế là tôi được bế ra ngoài Bắc, rồi
lại được gồng gánh vào Nam (cùng với hai người chị) không lâu sau đó.
Nhờ vậy (nhờ ra đời trước cái đám Bắc Kỳ con sinh trong Nam đôi ba
năm) nên từ thuở ấu thơ tôi đã được nghe nhiều bài hát ca ngợi tình
bắc duyên nam – qua radio – vào thời điểm đó :
·
Người từ là từ phương Bắc đã qua dòng sông, sông
dài/ Tìm đến phương này, một nhà thân ái/ Ơi! Tình Bắc duyên Nam là duyên tình
chung muôn đời ta đắp xây… (“Khúc Hát Ân Tình.” Xuân Tiên & Song Hương).
·
Em gái Bắc Ninh, anh trai Biên Hòa/ Em đất Thanh Nghệ,
anh nhà Cà Mâu/
Đồi nương thương sức cần lao/ Se duyên Nam Bắc ngọt ngào tình yêu, ngọt ngào
tình yêu… (“Đất Lành.” Phạm
Đình Chương)
Chuyện se duyên Nam Bắc có ngọt
ngào tình yêu (thiệt) không thì chả ai dám chắc, và cũng không
có chi bảo đảm cả nhưng với thời gian – rồi ra – ai cũng biết cái mền là
cái chăn, cái mùng còn gọi là cái màn, cái phong bì với cái bao thư là một,
cái bật lửa đã trở thành bựt lửa, cái hôn và cái hun cùng một nghĩa (và
cùng đã) như nhau.
Cuộc chung đụng giữa cái bàn là với cái bàn ủi,
cái bát với cái chén, cái cốc với cái ly, cái ô với cái dù, cái môi với cái vá,
cái thìa với cái muỗm … tuy không toàn hảo nhưng (tương đối) thuận thảo và tốt đẹp.
Kết quả của mối giao duyên tốt lành này
là một phần tư thế kỷ sau – dù chả cần ai tuyên truyền, hay cổ động
gì ráo nạo – chàng trai Biên Hoà Nguyễn Tất Nhiên vẫn cứ si mê “cô em tóc demi garçon,” và mê chết bỏ: Đôi mắt
tròn, đen, như búp bê/ Cô đã nhìn anh rất... Bắc Kỳ/ Anh vái trời cho cô dễ dạy/
Để anh đừng uổng mớ tình si. (“Cô Bắc Kỳ Nho
Nhỏ.” NXB Nam Á: Paris 1982).
Nền Đệ I Cộng Hoà ở miền Nam cũng có
không ít những khiếm khuyết (vô cùng đáng tiếc) nhưng việc ổn định
hằng triệu người dân di cư phải được coi là một điểm son của chế độ
này, nhờ vào sự trợ giúp tận tình của chính phủ Hoa Kỳ. Không phải
thế lực ngoại bang nào đến Việt Nam cũng chỉ với mục đích xâm
chiếm, cùng với chính sách chia để trị.
Chủ trương phân biệt vùng miền, mỉa mai
thay, lại là đường lối xuyên suốt và nhất quán của cái nhà nước
được mệnh danh là cách mạng hiện hành – theo như lời của nhiều công
dân Việt :
·
FB Trần Đình Thu: “Để kỳ thị hai miền Nam Bắc xẩy ra
ngày càng nghiêm trọng là do những chủ trương tuyên truyền hung hăng
của nhà nước VN.”
·
Blogger Ku Búa: “Ai là người gây ra nạn phân biệt Bắc Kỳ Nam Kỳ?
Đó không phải là sự khác biệt trong tư duy, trong môi trường sống, trong quan
niệm sống hay con người. Mà chính là sự phân biệt trong chính sách chính phủ hiện
tại.”
·
FB Thuc Tran: “Bất công là nguồn gốc của mọi sự thù ghét
nhau giữa dân chúng hai miền và có lẽ đó cũng là ý đồ của đảng khi chia để trị.”
Họ có quá lời chăng?
Không dám “quá” đâu. Từ cuối thế kỷ
trước, ông Vũ Đình Huỳnh (một nhân
vật quan trọng của ĐCSVN) cũng đã từng nói những điều tương tự: “Sài
Gòn là một thành phố bị chiếm đóng. Không phải là một thành phố được giải
phóng. Chỉ vài năm thôi, nó sẽ giống Hà-Nội.” (Nguyễn Chí Thiện. Hỏa
Lò. 7th ed. NXB Cành Nam, Virginia: 2007).
Thực sự thì Sài Gòn chưa bao giờ được
Bên Thắng Cuộc xem “giống như Hà Nội” cả. Sự thực phũ phàng này được
nhìn thấy rõ hơn trong những ngày tháng vừa qua.
Tác giả Nguyễn
Khoa nhận xét: “Dịch bệnh cũng làm bộc lộ mâu thuẫn chính trị vùng
miền, với sự thống trị của miền Bắc, vốn là nơi phát xuất những đội quân chiến
thắng năm 1975. Trong những năm 1990, người ta dành kinh phí quốc gia để xây dựng
đường số 5 Hà Nội – Hải Phòng, hay đường số 18 Hải Dương – Quảng Ninh, thay vì
con đường nhiều hàng hóa hơn là Quốc lộ 1 Sài Gòn – Mỹ Tho, hay liên tỉnh số 8
Sa Đéc – Long Xuyên.
Việc này có thể được thông cảm vì hệ thống đường
sá miền Bắc quá tệ hại. Nhưng vào năm 2021, với một dân số gấp đôi, số người
nhiễm bệnh gấp ba Hà Nội, mà số liều vaccine phân phối về Sài Gòn lại ít hơn là
điều không thể tha thứ được.”
Bao giờ mà kẻ thống trị còn giữ được
quyền bính thì họ chả cần đến sự “tha thứ” của bất cứ ai. Câu hỏi
đặt ra là cái đạo quân chiếm đóng hiện nay sẽ còn tiếp tục duy trì
được quyền lực ở Việt Nam thêm bao lâu nữa, và chuyện gì sẽ xảy ra
sau đó?
No comments:
Post a Comment