Luật
sư Trần Lê Nguyên
27/11/2014
Nghị
quyết 5/1 của Hội đồng Nhân quyền Liên hiệp quốc
ngày 18/6/2007 đã mở ra một cơ hội mới cho các nạn
nhân bị chà đạp các quyền căn bản được công nhận
(1).
Thực
vậy, Thủ tục có tên 1503 đã được cải tiến theo
Quyết nghị 5/1, trở thành phổ quát và tự động phải
được xem xét bởi một Ủy ban Hành động thuộc Hội
đồng Nhân quyền LHQ.
.
AI
CÓ THỂ TỐ CÁO HAY KHIẾU KIỆN
Trước
đây, theo các Thỏa ước cũ, các đơn kiện khiếu tố
chỉ được chấp nhận một khi quốc gia liên hệ công
nhận thẩm quyên của Hội đồng Nhân quyền Liên hiệp
quốc.
Trái
lại, Thủ tục mới đơn kiện khiếu tố được chấp
nhận, không cần quốc gia liên hệ có ký hay phê chuẩn
các thỏa ước về nhân quyền hay không.
Chính
vì vậy, thủ tục khiếu tố này có tính cách PHỔ QUÁT
(universelle).
Do
vậy mỗi công dân của một quốc gia thành viên của Liên
hiệp quốc có thể tự mình đứng nguyên đơn khiếu tố
tại Hội đồng Nhân quyền LHQ.
Hơn
thế nữa, tất cả các cá nhân, đoàn thể, hoặc một
nhóm người tự thấy mình là nạn nhân của sự đàn áp
nhân quyền hay các quyền căn bản, đều có thể khiếu
kiện.
.
CÁC
ĐIỀU KIỆN ĐỂ ĐƠN ĐƯỢC CHẤP NHẬN
Đơn
khiếu kiện, trước tiên phải liên quan tới một trong
các quyền của con người hay các quyền tự do căn bản
được công nhận và phải hội đủ các yếu tố sau đây:
1-
Đơn khiếu kiện phải rõ ràng không có ý đồ
(motivation) chính trị và mục tiêu hợp với Hiến chương
Liên hiệp quốc, Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền và Công
ứớc Quốc tế về Quyền dân sự và chính trị và các
qui ước khác về nhân quyền.
2-
Đơn khiếu kiện phải ghi rõ chi tiết các sự kiện của
các vi phạm và mục đích của đơn kiện cũng như các
quyền đã bị chà đạp (2).
3-
Đơn khiếu kiện cần đươc biên sọan theo cung cách nhã
nhặn, không dùng các từ, các câu văn có tính cách phỉ
báng hay nhục mạ.
4-
Đơn khiếu kiện có thể là do một cá nhân, một tổ
chức, một nhóm người tự thấy mình là nạn nhân của
sự đàn áp nhân quyền, nhóm người này có thể là một
tổ chức ngoài chính phủ hành động vì thiện ý, không
có mục tiêu chính trị, và quả quyết trực tiếp và
chắc chắn các vi phạm ghi trong đơn. Tuy nhiên, nếu sự
hiểu biết các vi phạm trên mặc dù không trực tiếp,
cũng được chấp nhận, miễn là các chi tiết của chứng
cớ đó không thể tranh cãi được.
5-
Đơn khiếu kiện không được chỉ căn cứ duy nhất dựa
trên các thông tin trên các phương tiện truyền thông đăng
tải.
6-
Đơn khiếu kiện này phải là mới, không liên hệ tới
vụ việc đã xem xét trong khuôn khổ của một thủ tục
đặc biệt của một cơ quan của LHQ hay các tổ chức
miền tương tự.
7-
Đơn khiếu kiện này không có hiệu quả hay quá lâu nếu
hành xử trong nước.
.
TIẾN
TRÌNH ĐƠN KHIẾU KIỆN
Khi
nhận được các đơn khiếu kiện bới các cá nhân, một
tổ chức hay một nhóm người, một Ủy ban hành động
trực thuộc Hội đồng Nhân quyền gồm 5 thành viên sẽ
cứu xét xem các tố cáo này có tuân thủ các tiêu chuẩn
qui định hay không.
Nếu
đơn khiếu kiện này được tuyên bố chấp nhận
(recevable), quốc gia liên hệ sẽ nhận được đơn tố
cáo này và phải trả lời các tố cáo đó.
Một
khi có đủ bằng chứng cho thấy thực tế có những vi
phạm trầm trọng và có hệ thống các quyền được công
nhận, Ủy ban hành động sẽ đệ trình lên Hội đồng
Nhân quyền bản tường trình chi tiết các vi phạm và các
quyền bị chà đạp đồng thời đưa ra các biện pháp
thích nghi cần thiết khuyến cáo quốc gia vi phạm nhân
quyền.
Các
khuyến cáo vi phạm nhân quyền này cũng được trình lên
Cao ủy Nhân quyền Liên hiệp quốc để cơ quan này có
những biện pháp trợ giúp nhằm cải thiện và phòng ngừa
các vi pham bị chỉ trích tố cáo.
Ngoài
ra còn có một thủ tục đặc biệt dành cho các nhóm
chuyên viên, thu nhận các hồ sơ khiếu kiên cá nhân, gia
đình họ hay các người đại diện, hay do một tổ chức
bảo vệ nhân quyền, tổ chức ngoài chính phủ, thay thế
họ hành động.
Các
nhóm này chuyển các đơn khiếu kiện, qua đường lối
ngoại giao cho chính phủ bị tố cáo vi phạm nhân quyền
và yêu cầu họ cho biết trong hạn 90 ngày, ý kiến, bình
luận về các cáo buộc nêu trên, cả về các sự kiện
lẫn luật áp dụng, tiến trình, kết qủa điều tra.
Sau
đó các nhóm này sẽ đưa ra môt thông báo kèm theo những
khuyến cáo và gửi cho chính phủ liên hệ vi phạm nhân
quyền. Các người khiếu tố cũng sẽ nhân được thông
báo trên, ba tuần sau. Thông báo này cũng được công bố
trong phúc trình hàng năm của Hội đồng Nhân quyền LHQ.
ĐƠN
KHIẾU KIỆN GỦI VỀ:
SERVICE
D APPUI
HCDH-UNOG
1211
GENEVE
SUISSE
Télécopie
: (4122) 917-9011
Email:
1503@OHCHR.ORG
.
Tiện
đây chúng tôi cũng xin quí độc gỉả lưu ý rằng một
số lớn các quốc gia dân chủ tự do cho phép khởi kiện
trước Tòa án địa phương, các vi phạm nhân quyền trầm
trọng và có hệ thống, không những thủ phạm trực tiếp
đàn áp mà cả những người lãnh đạo chính quyền từ
trung ương tới địa phương.
.
THÍ
DỤ:
-
Toà án Đức Quốc ngày 25/01/2010 đã ra án lệnh quốc tế
bắt giam tuớng Jorge Rafael Videla, nguyên lãnh đạo cuộc
đảo chánh tại Argentine năm 1976 vi tội vi phạm nhân
quyền.
-
Bresil đã cho dẫn độ một lãnh đạo quân sự về hưu
tới Argentine để trả lời về những vi phạm nhân quyền
trong chiến dịch “Condor”.
-
Tòa tối cao Pérou đã xác nhận cựu Tổng thống Fujimori
25 năm tù, và bị dẫn độ vào tù sau nhiều năm lẩn
trốn ở ngoại quốc.
-
Tướng Reynaldo Bignone, nay 83 tuổi, nguyên Tổng thống nước
Argentine, bi kết án hàng chục năm vì tội bắt cóc, hành
hạ, thủ tiêu đối thủ chính trị.
-
Giang Trạch Dân, nguyên Chủ tịch, cùng 4 ủy viên trong Bộ
chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc bị ông Ismael
Moreno, Thẩm phán Tòa án quốc gia Tây Ban Nha truy tố về
tội ác tra tấn và diệt chủng đối với học viên Pháp
luân công ở Bắc Kinh và các tỉnh Liêu Ninh, Sơn Đông.
-
Tại Canada, nhiều vu kiện vi phạm nhân quyền bởi các
cựu lãnh đạo ngoại quốc cư trú tại Canada đang bị
truy tố hình sự mà một hai trong số vụ kiện do VP Luật
sư của hai đứa con người viết đảm trách và hai 2 vụ
tại Tòa án hình sự Quốc tế Rwanda (3).
.
Theo
cô Theresa Chu, Giám đốc Ban chấp hành của Hiệp hội
Nhân quyền Washington DC chi nhánh Châu Á, có tối thiểu 50
vụ kiện chống các viên chức Đảng Cộng sản Trung Quốc
nộp bởi các học viên Pháp luân công từ 2002 đến 2007.
Có hơn 30 quốc gia và hơn 70 luật sư đang giúp các học
viên trong các vụ kiện, phần lớn kể cả trường hợp
hộ và hình, là chống Giang Trạch Dân (hiện đang thụ lý
trong 15 quốc gia).
Chúng
tôi chỉ nêu lên vài vụ kiện tiêu biểu, còn hàng trăm
các vụ kiện khác đang tiếp diễn trên nhiều nước khác
nhau vì những vi phạm trầm trọng và có hệ thống các
quyền căn bản được quốc tế công nhận.
Các
điều trình bày trên chứng tỏ rằng, sớm muộn những
vi phạm nhân quyền sẽ bị đưa ra ánh sáng Công lý và
những kẻ phạm dù quyền lực cao đến mấy cũng sẽ bị
trừng phạt.
Không
gian bắt đầu dần dần càng chật hẹp cho những chính
quyền độc tài và các nhà lãnh đạo chà đạp các quyền
căn bản của con người, tự cho mình cái quyền ngồi
trên luật pháp quốc nội và quốc tế.
GHI
CHÚ:
(1)
Các quyền căn bản được nghi nhận trong Tuyên ngôn Quốc
tế Nhân quyền:
Điều
7
Mọi
người đều bình đẳng trước pháp luật và được pháp
luật bảo vệ bình đẳng không kỳ thị. Mọi người đều
được bảo vệ chống lại mọi kỳ thị hay xúi giục kỳ
thị trái với Tuyên ngôn này.
Điều
13
1.
Ai cũng có quyền tự do đi lại và cư trú trong quản hạt
quốc gia.
2.
Ai cũng có quyền rời khỏi bất cứ quốc gia nào, kể cả
quốc gia của mình, và có quyền hồi hương.
Điều
18
Ai
cũng có quyền tự do tư tưởng, tự do lương tâm và tự
do tôn giáo; quyền này bao gồm cả quyền tự do thay đổi
tôn giáo hay tín ngưỡng và quyền tự do biểu thị tôn
giáo hay tín ngưỡng qua sự giảng dạy, hành đạo, thờ
phụng và nghi lễ, hoặc riêng mình hoặc với người
khác, tại nơi công cộng hay tại nhà riêng.
Điều
19
Ai
cũng có quyền tự do quan niệm và tự do phát biểu quan
điểm; quyền này bao gồm quyền không bị ai can thiệp vì
những quan niệm của mình, và quyền tìm kiếm, tiếp nhận
cùng phổ biến tin tức và ý kiến bằng mọi phương tiện
truyền thông không kể biên giới quốc gia.
Điều
20
1.
Ai cũng có quyền tự do hội họp và lập hội có tính
cách hoà bình.
2.
Không ai bị bắt buộc phải gia nhập một hội đoàn.
Điều
21
1.
Ai cũng có quyền tham gia chính quyền của quốc gia mình,
hoặc trực tiếp hoặc qua các đại biểu do mình tự do
lựa chọn.
2.
Ai cũng có quyền bình đẳng tham gia công vụ trong nước.
3.
Ý nguyện của quốc dân phải được coi là căn bản của
mọi quyền lực quốc gia; ý nguyện này phải được biểu
lộ qua những cuộc tuyển cử có định kỳ và trung thực,
theo phương thức phổ thông đầu phiếu kín, hay theo các
thủ tục tuyển cử tự do tương tự.
Các
quyền căn bàn nghi nhận trong Công ước Quốc tế về
Quyền dân sự và chính trị
Điều
12
1.
Những người cư trú hợp pháp trong lãnh thổ một quốc
gia đều có quyền tự do đi lại và tự do lựa chọn nơi
cư trú trong lãnh thổ.
2.
Mọi người đều được quyền tự do rời khỏi một
quốc gia, kể cả quốc gia của mình.
3.
Những quyền tự do ghi trên không thể bị giới hạn,
ngoại trừ những trường hợp luật định vì nhu cầu
bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự công cộng, sức khoẻ
công cộng, đạo lý, hay những quyền tự do của người
khác, và nếu không trái với những quyền tự do khác
được thừa nhận trong Công ước này.
4.
Không ai có thể bị tước đoạt quyền hồi hương một
cách độc đoán.
Điều
18
1.
Ai cũng có quyền tự do tư tưởng, tự do lương tâm và
tự do tôn giáo. Quyền này bao gồm quyền tự do theo một
tôn giáo hay tín ngưỡng và quyền tự do biểu thị tôn
giáo hay tín ngưỡng qua sự thờ phụng, hành đạo, nghi
lễ hay giảng dạy, hoặc riêng tư hoặc với người khác,
tại nơi công cộng hay tại nhà riêng.
2.
Không ai bị cưỡng bách tước đoạt quyền tự do lựa
chọn tôn giáo hay tín ngưỡng.
3.
Quyền tự do biểu thị tôn giáo hay tín ngưỡng chỉ có
thể bị giới hạn theo luật, vì nhu cầu bảo vệ an toàn
công cộng, trật tự công cộng, sức khỏe công cộng,
đạo lý hay những quyền tự do căn bản của người
khác.
4.
Các quốc gia hội viên ký kết Công ước này cam kết tôn
trọng quyền của cha mẹ hay người giám hộ trong việc
giáo dục các con về tôn giáo hay đạo lý theo tín ngưỡng
của họ.
Điều
19:
1.
Mọi người đều có quyền giữ vững quan niệm mà không
bị ai can thiệp.
2.
Mọi người đều có quyền tự do phát biểu quan điểm;
quyền này bao gồm quyền tự do tìm kiếm, tiếp nhận, và
phổ biến mọi tin tức và ý kiến bằng truyền khẩu,
bút tự hay ấn phẩm, dưới hình thức nghệ thuật, hay
bằng mọi phương tiện truyền thông khác, không kể biên
giới quốc gia.
3.
Việc hành xử quyền tự do phát biểu quan điểm (ghi ở
khoản 2 nói trên) đòi hỏi đương sự phải có những
bổn phận và trách nhiệm đặc biệt. Quyền này chỉ có
thể bị giới hạn bởi pháp luật vì nhu cầu:
a.
Tôn trọng những quyền tự do và thanh danh của người
khác.
b.
Bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự công cộng, sức khỏe
công cộng hay đạo lý.
Điều
21
Quyền
hội họp có tính cách hoà bình phải được thừa nhận.
Việc hành xử quyền này chỉ có thể bị giới hạn bởi
luật pháp, vì các nhu cầu cần thiết trong một xã hội
dân chủ để bảo vệ an ninh quốc gia, an toàn công cộng,
trật tự công cộng, sức khỏe công cộng, đạo lý, hay
những quyền tự do của người khác.
Điều
22
1.
Ai cũng có quyền tự do lập hội, kể cả quyền thành
lập và gia nhập các nghiệp đoàn để bảo vệ quyền
lợi của mình.
2.
Việc hành xử quyền này chỉ có thể bị giới hạn bởi
luật pháp, vì các nhu cầu cần thiết trong một xã hội
dân chủ để bảo vệ an ninh quốc gia, an toàn công cộng,
trật tự công cộng, sức khỏe công cộng, đạo lý, hay
những quyền tự do của người khác. Điều luật này
không có tác dụng ngăn cấm việc ban hành các giới hạn
luật định liên quan đến sự hành xử quyền tự do lập
hội của các giới quân nhân và cảnh sát.
3.
Điều luật này không có hiệu lực cho phép các quốc gia
hội viên ký kết Công ước Lao động Quốc tế năm 1948
về Quyền tự do lập hội và bảo vệ quyền lập hội,
được ban hành hay áp dụng những đạo luật có tác dụng
vi phạm những bảo đảm về những quyền tự do ghi trong
Công ước Lao động Quốc tế.
Điều
25
Không
bị kỳ thị (như đã quy định ở điều 2) và không bị
giới hạn bất hợp lý, mọi công dân đều có quyền và
có cơ hội:
a.
Được tham gia vào việc điều hành chính quyền, hoặc
trực tiếp hoặc qua những đại biểu do mình tự do tuyển
chọn.
b.
Được bầu cử và ứng cử trong những cuộc tuyển cử
tự do và công bằng theo định kỳ, bằng phổ thông đầu
phiếu kín, bảo đảm trung thực ý nguyện của cử tri.
c.
Được quyền bình đẳng tham gia công vụ trong nước.
Điều
26
Mọi
người đều bình đẳng trước pháp luật, và được
pháp luật bảo vệ bình đẳng không kỳ thị. Trên phương
diện này, luật pháp cấm mọi kỳ thị và bảo đảm cho
tất cả mọi người quyền được bảo vệ một cách
bình đẳng và hữu hiệu chống mọi kỳ thị về chủng
tộc, mầu da, nam nữ, ngôn ngữ, tôn giáo, chính kiến hay
quan niệm, nguồn gốc quốc gia hay xã hội, tài sản, dòng
dõi hay bất cứ thân trạng nào.
Điều
27
Đối
với các cộng đồng thiểu số về chủng tộc, tôn giáo,
hay ngôn ngữ tại các quốc gia hội viên, Công ước này
bảo đảm cho các thành phần thiểu số cũng với những
người khác trong cộng đồng của họ được quyền hưởng
văn hoá riêng, được truyền giáo và hành đạo riêng, và
được sử dụng ngôn ngữ riêng của họ.
(2)
Đơn khiếu kiện phải ghi rõ: tên tuổỉ, giới tính, nơi
cư trú; nếu là tổ chức hay nhóm người phải ghi danh
tính của tổ chức, cộng đồng; diễn tả trường hợp
xẩy ra tai nạn; tác giả vi phạm hay suy đoán; quan chức,
chức vụ, lý do viện cớ hay suy đoán; các cấp chính
quyền cao có liên hệ và, hay họ đã có những biện pháp
gì khi đã được thông báo.
(3)
Toà án Hình sự Quốc tế Rwanda (TPIR): phụ trách hai vụ:
Jérôme C. Bicamumpaka, cựu Tổng trưởng Ngọai giao (vụ
kiện bắt đầu từ hơn 4 năm trước, hồ sơ đã hoàn
tất và biện minh trạng đã trình bày, đang chờ phán
quyết) & Callite Nzabonimana, Cựu tổng trưởng Thanh niên
và Thể thao xứ Rwanda (đang thẩm định và tranh biện
trước Toà án từ 2 năm nay). Và đang tiến hành vụ
Jacques Mungwarere, bị bắt tại Windsor, Ontario mấy tháng
trước, và bị truy tố tại Tòa án Canada vì tội diệt
chủng (dự tính kéo dài 2 năm). Ngoài ra Desire Munyneza,
Trưởng Đoàn thanh niên Rwanda, cũng đã bị Tòa án Canada
kết án chung thân, ngày 29/10/2009 về tội diệt chủng căn
cứ vào Đạo luật về tôi phạm chống lại nhân loại
và tội phạm chiến tranh, ban hành năm 2000.
.
T.L.N.
.
.
Được
đăng bởi bauxitevn vào lúc 07:12
No comments:
Post a Comment