Hầu
hết các nhà kinh tế đều có lý do để lo lắng cho nền
kinh tế Trung Quốc: mức tiêu thụ thấp và thặng dư xuất
khẩu lớn, dư thừa năng lực sản xuất công nghiệp, suy
thoái môi trường, hoặc sự can thiệp của chính phủ như
việc kiểm soát vốn hoặc áp chế tài chính (financial
repression). [1] Nhưng nhiều người không nhận ra đó chỉ
là những triệu chứng của một vấn đề cơ bản duy
nhất: mô hình tăng trưởng sai lệch của Trung Quốc.
Trong
một chừng mực nào đó, mô hình này là hệ quả của
chính sách, của thành kiến lâu đời coi xây dựng và sản
xuất là đầu tàu của phát triển kinh tế. Ưu tiên này
nhắc chúng ta nhớ lại thời kỳ Đại nhảy vọt vào
những năm 1950, khi kim loại phế liệu được nấu chảy
để đáp ứng các mục tiêu sản xuất thép vô cùng lạc
quan nhằm thúc đẩy giấc mơ công nghiệp hóa nhanh chóng
của Mao Trạch Đông.
Ngày
nay, khuynh hướng sản xuất công nghiệp của Trung Quốc
được thể hiện ở các dự án sản xuất và cơ sở hạ
tầng quy mô lớn, được chính phủ khuyến khích thông
qua những khoản trợ cấp trực tiếp và gián tiếp. Bằng
việc thúc đẩy đầu tư và tạo ra doanh thu thuế cho
chính quyền địa phương, phương pháp này có nhiều tác
động tích cực nhanh chóng đến GDP hơn là nỗ lực phát
triển các ngành dịch vụ.
Tuy
nhiên, mô hình này cũng đem đến nhiều chi phí đáng kể.
Quả thật, Trung Quốc hiện đang mắc kẹt trong một vòng
kinh tế méo mó được duy trì bởi các chính sách lệch
lạc. Các chính sách này trông có vẻ như không liên quan
đến nhau nhưng thật ra lại gắn bó mật thiết, thậm
chí là cộng sinh với nhau.
Một
trong những đặc điểm rõ ràng nhất của mô hình này là
sự chênh lệch giữa tăng trưởng GDP của Trung Quốc,
trung bình gần 10% mỗi năm trong vài thập kỷ qua, với
tăng trưởng việc làm, chỉ tăng 1-2% mỗi năm. Rõ ràng,
chỉ công nghiệp hóa và mở rộng xuất khẩu không thể
đáp ứng hết lực lượng lao động khổng lồ của Trung
Quốc.
Vấn
đề là việc năng suất lao động trong lĩnh vực công
nghiệp tăng trưởng nhanh – hơn 10% mỗi năm trong hai thập
kỷ qua – đang làm giảm nhu cầu thuê thêm lao động.
Ngược lại, trong lĩnh vực dịch vụ, năng suất lao động
tăng chậm hơn (chỉ tăng khoảng 5% mỗi năm trong cùng
kỳ). Điều này có nghĩa là ngành dịch vụ hiệu quả
hơn trong việc tạo ra tăng trưởng việc làm. Ở Mỹ, có
khoảng 80% lực lượng lao động làm việc trong lĩnh vực
dịch vụ trong năm 2012.
Một
hậu quả khác của mô hình tăng trưởng sai lệch của
Trung Quốc là sự suy giảm của tỉ lệ thu nhập hộ gia
đình trên tổng GDP, từ mức 70% năm 1990 xuống còn 60%
năm 2009. Trong khi đó ở Mỹ, tỷ lệ này vẫn ổn định
ở mức khoảng 80% GDP. Nói cách khác, các hộ gia đình
Trung Quốc đang không được hưởng lợi (tương xứng) từ
tăng trưởng kinh tế.
Hiện
tượng này cũng có thể được cho là lỗi của các chính
sách méo mó. Để ngăn chặn sự gia tăng chi phí lao động,
tiền lương đã bị áp chế, chỉ tăng 5% mỗi năm trong
suốt 20 năm qua, ngay cả khi tốc độ tăng năng suất lao
động hàng năm là 8,5%. Trong khi đó, áp chế tài chính
lại làm giảm chi phí vốn. Trong thập kỷ qua, lợi nhuận
trung bình tiền gửi thực tế (đã được điều chỉnh
theo lạm phát) xuống gần bằng không. Với khoảng 80% hộ
gia đình Trung Quốc gửi tiết kiệm vào ngân hàng, khoản
thuế ngầm đánh vào tiết kiệm này có tác động lớn
đến nền kinh tế, củng cố xu hướng tiết kiệm của
các hộ gia đình Trung Quốc, do đó làm giảm tăng trưởng
tiêu dùng và làm trầm trọng thêm sự mất cân bằng toàn
cầu.
Bằng
cách này, các chính sách méo mó của Trung Quốc đã giúp
duy trì một mô hình tăng trưởng không hiệu quả. Việc
kìm hãm tăng lương, áp chế tài chính, và định giá thấp
tỷ giá hối đoái để hỗ trợ xuất khẩu và sản xuất
đã làm suy yếu nhu cầu trong nước do các hộ gia đình
bắt buộc phải tăng cường tiết kiệm. Do đó, chính phủ
phải phụ thuộc vào xuất khẩu và đầu tư để đạt
được mục tiêu tăng trưởng – phương pháp này dẫn
đến việc tích lũy dự trữ ngoại tệ lớn vốn sau đó
cần phải được vô hiệu hóa (sterilize) [2] để không
ảnh hưởng đến lượng cung tiền cơ sở. Lãi suất thấp
giúp kiểm soát chi phí vô hiệu hóa ở cấp độ quốc
gia và giảm chi phí ở cấp độ doanh nghiệp. Lãi suất
thấp, một lần nữa, lại làm thiệt hại các hộ gia
đình.
Phá
vỡ vòng luẩn quẩn này sẽ không dễ dàng, nhưng không
có cách giải quyết nào khác cho những vấn đề cấp
bách mà nền kinh tế Trung Quốc đang phải đối mặt.
Trên thực tế, mô hình tăng trưởng hiện nay cũng đang
gây thiệt hại nặng nề cho môi trường. Ô nhiễm môi
trường hiện đang đe dọa sức khỏe của người dân,
đặc biệt là ở các khu vực đô thị.
Hơn
nữa, sự thiên vị đối với ngành sản xuất và xuất
khẩu dẫn đến việc phân bổ vốn không đồng đều.
Những ngành công nghiệp kém hiệu quả đã tích lũy vốn
dư thừa một cách đáng kể, gây bất ổn toàn bộ nền
kinh tế, trong khi các ngành công nghiệp có năng suất và
hiệu quả cao hơn không được tiếp cận các nguồn tài
nguyên mà chúng cần.
Tái
cấu trúc nền kinh tế có lẽ là thách thức cấp bách và
khó khăn nhất mà các nhà lãnh đạo Trung Quốc đang phải
đối mặt hiện nay. Do những sai lệch trong nền kinh tế
hiện tại liên quan tới nhau, chúng cần phải được giải
quyết đồng bộ. Cách tiếp cận tiệm tiến từng bước
của Trung Quốc sẽ không còn hiệu quả.
.
Keyu
Jin (Kim Khắc Vũ) là giáo sư kinh tế tại Trường Kinh tế
London, Lãnh đạo trẻ toàn cầu của Diễn đàn Kinh tế
Thế giới, và là thành viên của Hội đồng Cố vấn Tập
đoàn Richemont.
.
.
--------------------
.
[1]
Áp chế tài chính (financial repression) là những biện pháp
được các chính phủ sử dụng để nâng cao ngân quỹ
hoặc giảm nợ. Các biện pháp này tập trung vào việc
giữ tỉ lệ lãi suất thấp hơn tỉ lệ lạm phát (tức
lãi suất thực âm), một hình thức “đánh thuế” lên
người tiết kiệm và chuyển lợi ích từ người cho vay
sang người đi vay. Việc giữ lãi suất thực âm giúp các
chính phủ dễ dàng phát hành trái phiếu, qua đó tạo
được nguồn vốn cho ngân sách với chi phí rẻ hơn so
với khi không có các biện pháp áp chế tài chính (NBT).
.
[2]
Vô hiệu hóa (sterilization) là việc mua hoặc bán ngoại tệ
bởi một ngân hàng trung ương nhằm tác động lên tỉ
giá hối đoái của đồng nội tệ mà không làm ảnh
hưởng đến lượng cung tiền cơ sở. Ví dụ, khi Fed lo
ngại về sự xuống giá của đồng đô la so với đồng
Euro thì nó sẽ bán một lượng trái phiếu định giá
bằng đồng Euro trị giá 10 tỉ Euro và thu về 14 tỉ đô
la từ giao dịch này. Việc 14 tỉ đô la được rút ra
khỏi hệ thống ngân hàng vào kho của Fed sẽ ảnh hưởng
tới lượng cung đồng đô la trên thị trường và lãi
suất qua đêm liên ngân hàng tại Fed. Vì vậy Fed sẽ thực
hiện tiếp giao dịch thứ hai qua thị trường mở bằng
cách mua vào lượng trái phiếu kho bạc Mỹ giá trị 14 tỉ
đô la, qua đó bơm lại 14 tỉ đô la vào hệ thống ngân
hàng thương mại. Giao dịch này giúp “vô hiệu hóa”
tác động của việc bán số trái phiếu định giá bằng
đồng Euro lên lượng cung tiền cơ sở (NBT).
.
---------------------------
.
.
.
No comments:
Post a Comment