Posted
on Dec 5, 2013
Dân
chủ là một thuật ngữ mà ai cũng biết nhưng vẫn bị
hiểu và dùng sai ở thời điểm mà các nhà độc tài,
các chế độ độc đảng và lãnh đạo các cuộc đảo
chính quân sự đòi dân chúng ủng hộ vì tự cho rằng
mình bảo vệ dân chủ. Tuy nhiên, sức mạnh của ý tưởng
dân chủ vẫn phát triển trong suốt chiều dài lịch sử
với nhiều biến cố. Các chính phủ dân chủ dù phải
đối mặt với nhiều thách thức, vẫn tiếp tục
tiến bộ và lan rộng trên toàn thế giới.
Dân
chủ là gì?
Dân
chủ – theo tiếng Hy Lạp có nghĩa là “nhân dân” –
về cơ bản được định nghĩa là một hình thức chính
phủ trong đó quyền lực tối cao thuộc về nhân dân. Dân
chủ có thể do người dân trực tiếp thực thi. Ở các
xã hội lớn hơn, dân chủ được thực thi bởi các quan
chức do nhân dân bầu ra. Hay theo như câu nói nổi tiếng
của Tổng thống Abraham Lincoln, dân chủ là chính phủ
“của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân”.
Tự
do và dân chủ thường được dùng thay thế cho nhau. Thực
ra hai khái niệm này không đồng nghĩa. Dân chủ không chỉ
là một loạt ý tưởng và các nguyên tắc về tự do, mà
còn bao hàm cả những thực tiễn và các tiến trình đã
được hình thành trong suốt chiều dài lịch sử vốn
phức tạp. Dân chủ là sự thể chế hóa tự do.
Cuối
cùng, người dân sống trong một xã hội dân chủ phải
phục vụ với tư cách là người bảo vệ chính quyền tự
do của họ và hướng tới những lý tưởng được đưa
ra trong lời nói đầu của Tuyên ngôn Nhân quyền Toàn cầu
của Liên Hợp Quốc, đó là “thừa nhận phẩm giá vốn
có và những quyền bình đẳng bất khả xâm phạm của
mọi thành viên trong đại gia đình nhân loại là nền
tảng của tự do, công lý và hòa bình trên thế giới”.
NHỮNG
ĐẶC ĐIỂM CỦA DÂN CHỦ
Dân
chủ không chỉ đơn thuần là một loạt thể chế quản
lý cụ thể. Dân chủ dựa trên nhóm giá trị, quan điểm
và thực tiễn đã được nhận thức rõ. Tất cả các
giá trị, quan điểm và thực tiễn đó được thể hiện
dưới những hình thức khác nhau tùy theo nền văn hóa và
các xã hội trên thế giới. Các nền dân chủ phải dựa
trên những nguyên tắc cơ bản chứ không phải những
thực tiễn thống nhất.
Những
đặc điểm dân chủ cơ bản
• Dân
chủ là hình thức chính phủ trong đó quyền lực và
trách nhiệm công dân do công dân trưởng thành trực tiếp
thực hiện hoặc thông qua các đại diện của họ được
bầu lên một cách tự do.
• Dân
chủ dựa trên các nguyên tắc đa số cai trị và các
quyền cá nhân. Các nền dân chủ chống lại các chính
phủ trung ương tập quyền và phi tập trung hóa chính
quyền ở cấp khu vực và địa phương, với nhận thức
rằng tất cả các cấp độ chính quyền đều phải được
tiếp cận và phải đáp ứng người dân khi có thể.
• Các
nền dân chủ nhận thức rằng một trong những chức năng
chính của họ là bảo vệ các quyền con người cơ bản
như tự do ngôn luận và tự do tôn giáo; quyền được
pháp luật bảo vệ bình đẳng và cơ hội được tổ
chức và tham gia đầy đủ vào đời sống kinh tế, chính
trị và văn hóa của xã hội.
• Các
nền dân chủ thường xuyên tổ chức các cuộc bầu cử
tự do và công bằng cho công dân ở độ tuổi bầu cử
tham gia.
• Công
dân ở một nền dân chủ không chỉ có các quyền, mà
còn có trách nhiệm tham gia hệ thống chính trị. Đổi
lại, hệ thống chính trị đó bảo vệ các quyền lợi
và sự tự do của họ.
• Các
xã hội dân chủ cam kết với các giá trị khoan dung, hợp
tác và thỏa hiệp. Theo lời của Mahatma Gandhi: “Không
khoan dung là biểu hiện của tình trạng bạo lực và cản
trở phát triển tinh thần dân chủ thực sự”.
Hai
hình thức dân chủ
Có
hai loại hình dân chủ cơ bản, đó là dân chủ trực
tiếp và dân chủ đại diện. Trong nền dân chủ trực
tiếp, công dân có thể tham gia quyết định công việc
chung mà không có sự can thiệp của các quan chức được
bầu lên hoặc được bổ nhiệm. Hình thức dân chủ trực
tiếp thực tế nhất nếu áp dụng cho một nhóm ít người
như một tổ chức cộng đồng, hội đồng bộ lạc, hoặc
đơn vị địa phương của một liên đoàn lao động.
Thành viên các nhóm này có thể gặp gỡ nhau để bàn bạc
các vấn đề và đi đến quyết định bằng sự đồng
thuận hoặc biểu quyết đa số.
Bên
cạnh đó, một số bang ở Mỹ cho phép đưa ra trên phiếu
bầu “đề xuất” và “trưng cầu dân ý” – yêu cầu
thay đổi luật – hoặc yêu cầu bầu lại các quan chức
đã được bầu trong các cuộc bầu cử bang. Những hoạt
động này là biểu hiện của hình thức dân chủ trực
tiếp, tức là bày tỏ ý chí của đại bộ phận dân
chúng. Có nhiều thực tiễn khác mang yếu tố của nền
dân chủ trực tiếp. Ở Thụy Sĩ, nhiều quyết định
chính trị quan trọng về các vấn đề, trong đó có y tế,
năng lượng và việc làm, là những vấn đề lấy biểu
quyết của dân chúng cả nước. Một số người có thể
cho rằng Internet đang tạo ra những hình tức dân chủ
trực tiếp mới, vì nó cho phép các nhóm chính trị gây
quỹ cho sự nghiệp của họ bằng cách trực tiếp lôi
cuốn những người cùng chung chí hướng.
Tuy
nhiên, ngày nay cũng như trong quá khứ, hình thức phổ
biến nhất của dân chủ – dù là của một thành phố
với 50.000 dân hay một quốc gia 50 triệu dân – là hình
thức dân chủ đại diện. Công dân bầu lên các quan chức
để đưa ra các quyết định chính trị, xây dựng luật
và điều hành các chương trình vì lợi ích chung.
Nguyên
tắc đa số và quyền thiểu số
Tất
cả các nền dân chủ đều là những hệ thống trong đó
công dân tự do đưa ra các quyết định chính trị theo
nguyên tắc đa số. Theo lời của nhà văn Mỹ E.B. White:
“Dân chủ là một niềm tin rằng đa số mọi người đều
đúng trong hầu hết các trường hợp”.
Bản
thân nguyên tắc đa số không tự động mang tính dân chủ.
Ví dụ, không thể nói một hệ thống là công bằng nếu
nó cho phép 51% dân số đàn áp 49% dân số còn lại nhân
danh đa số. Trong một xã hội dân chủ, nguyên tắc đa số
phải gắn với việc đảm bảo các quyền của cá nhân
con người. Đổi lại, các quyền của người thiểu số
và những người bất đồng sẽ được bảo vệ – dù
đó là những người thiểu số, tôn giáo hay đơn giản
là những người thua trong các cuộc tranh luận chính trị.
Quyền của các nhóm thiểu số không phụ thuộc vào thiện
chí của đa số và cũng không bị tước bỏ bởi nguyên
tắc đa số. Quyền của các nhóm thiểu số được bảo
vệ bởi vì luật pháp và các thể chế dân chủ bảo vệ
quyền của mọi công dân.
Các
nhóm thiểu số phải tin tưởng chính phủ bảo vệ các
quyền và sự an toàn của họ. Một khi điều này được
thực hiện, các nhóm đó có thể tham gia và đóng góp vào
việc xây dựng các thể chế dân chủ của đất nước.
Nguyên tắc đa số và quyền thiểu số là đặc trưng của
tất cả các nền dân chủ. Những khác biệt về lịch
sử, văn hóa, dân số và kinh tế không ảnh hưởng đến
những đặc trưng này.
Đa
nguyên và xã hội dân chủ
Trong
một nền dân chủ, chính phủ chỉ là một đầu mối
trong mạng lưới xã hội gồm rất nhiều thể chế công
và tư, các cơ quan luật pháp, các đảng phái chính trị,
các tổ chức và các hiệp hội. Sự đa dạng này gọi là
đa nguyên. Điều này có nghĩa là các nhóm và các thể
thế trong một xã hội dân chủ không phải phụ thuộc
vào chính phủ mới được tồn tại, mới mang tính hợp
pháp hoặc mới có quyền lực. Hầu hết các xã hội dân
chủ đều có hàng ngàn các tổ chức tư nhân ở cấp địa
phương và cấp bang. Nhiều tổ chức trong số này có vai
trò trung gian giữa các cá nhân và các thể chế xã hội
và chính phủ phức tạp của xã hội, thực hiện những
vai trò không phải của chính phủ và mang đến cho cá
nhân cơ hội để trở thành một phần trong xã hội mà
không cần phải tham gia vào chính phủ.
Trong
một xã hội độc tài, hầu hết những tổ chức như vậy
sẽ bị kiểm soát, kiểm duyệt, theo dõi và nếu không
thì phải chịu trách nhiệm trước chính phủ. Ở một
nền dân chủ, theo luật pháp quy định, quyền lực của
chính phủ được xác định rõ và rất hạn chế. Do vậy,
các tổ chức tư nhân về cơ bản không chịu sự kiểm
soát của chính phủ. Trong khu vực tư nhân bận rộn này
của xã hội dân chủ, công dân có thể tìm kiếm khả
năng tự hoàn thành ước nguyện của mình và thực hiện
trách nhiệm đối với một cộng đồng mà không chịu sự
kiểm soát có thể rất mạnh từ phía nhà nước hoặc
phải tuân theo ý chí của những người có ảnh hưởng,
quyền lực hoặc tuân theo đa số.
CÁC
QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ
Các
nền dân chủ dựa trên nguyên tắc: chính phủ tồn tại
để phục vụ nhân dân. Nói cách khác, người dân là
những công dân của nhà nước dân chủ, chứ không phải
là những người bị giám sát. Do nhà nước bảo vệ các
quyền của công dân, nên đổi lại công dân trung thành
với nhà nước. Ngược lại, trong hệ thống chuyên quyền,
nhà nước yêu cầu dân chúng phải trung thành và phục vụ
nhà nước mà không có nghĩa vụ có đi có lại nào để
đảm bảo người dân thuận theo những hành động của
nhà nước.
Các
quyền cơ bản
Mối
quan hệ giữa nhà nước và công dân là nhân tố cơ bản
của nền dân chủ. Theo Tuyên ngôn Độc lập Mỹ của
Thomas Jefferson năm 1776: Sự thật hiển nhiên là mọi người
sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa ban cho họ
những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong đó
có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh
phúc. Để đảm bảo những quyền này, các chính phủ
phải do dân bầu ra, quyền lực là quyền lực của nhân
dân.
Quan
trọng hơn, ở các nền dân chủ, các quyền cơ bản hay
bất khả xâm phạm này bao gồm quyền tự do ngôn luận
và bày tỏ, quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng, tự do
hội họp và quyền được bảo vệ bình đẳng trước
pháp luật. Đây không phải là một danh sách toàn diện
các quyền mà công dân được hưởng ở một nền dân
chủ, mà là một tập hợp các quyền chủ yếu và không
thể thiếu mà mỗi chính phủ dân chủ phải tôn trọng
nếu muốn xứng đáng được gọi là chính phủ dân chủ.
Do các quyền này tồn tại độc lập với chính phủ, nên
theo quan điểm của Jefferson, chúng phải được xây dựng
thành luật và không bị chi phối bởi ý muốn nhất thời
của đa số cử tri.
Tự
do ngôn luận, hội họp và biểu tình
Tự
do ngôn luận và bày tỏ, đặc biệt về các vấn đề
chính trị và xã hội, là nguồn sinh khí của bất cứ
nền dân chủ nào. Các chính phủ dân chủ không kiểm
soát nội dung các phát biểu nói hoặc viết. Do vậy, ở
các nền dân chủ luôn tồn tại những quan điểm khác
nhau, những ý kiến và ý tưởng trái ngược nhau. Các nền
dân chủ có xu hướng phức tạp.
Dân
chủ phụ thuộc vào việc công dân cần có tri thức, hiểu
biết và việc tiếp cận thông tin cho phép họ tham gia đầy
đủ nhất có thể vào đời sống chung của xã hội và
chỉ trích các quan chức chính phủ hay các chính sách bất
hợp lý và mang tính áp bức. Công dân và các đại diện
của họ công nhận rằng nền dân chủ phụ thuộc vào sự
tiếp cận một cách rộng rãi nhất có thể đối với
các ý tưởng, dữ liệu và quan điểm không bị kiểm
duyệt. Để người dân tự do quản lý bản thân, họ
phải được tự do bày tỏ chính kiến một cách cởi mở,
công khai và liên tục – cả nói lẫn viết.
Bảo
vệ quyền tự do ngôn luận là cái được gọi là “quyền
phủ định”, theo đó chính phủ không được hạn chế
quyền tự do ngôn luận. Giới chức ở một nền dân chủ
không can thiệp vào nội dung phát biểu dù nói hay viết.
Sự
phản kháng là thước đo đối với mỗi nền dân chủ.
Do vậy quyền hội họp hòa bình là thiết yếu và là một
phần thống nhất trong việc thúc đẩy tự do ngôn luận.
Xã hội dân sự cho phép những người bất đồng về các
vấn đề được tranh luận sôi nổi. Ở nước Mỹ hiện
đại, ngay cả những vấn đề cơ bản như an ninh quốc
gia, chiến tranh và hòa bình đều được thảo luận tự
do trên báo chí và trên các phương tiện phát thanh truyền
hình. Qua đó, người những người phản đối chính sách
đối ngoại của chính quyền dễ dàng công khai quan điểm
của mình.
Tự
do ngôn luận là một quyền cơ bản, nhưng không phải là
tuyệt đối và không thể viện dẫn để kích động bạo
lực. Tội vu khống và phỉ báng nếu được chứng minh
sẽ do tòa án xử lý. Ở các nền dân chủ, nếu muốn
cấm phát ngôn hay các buổi tụ họp được cho là có thể
kích động bạo lực, làm tổn hại danh tiếng người
khác hoặc nhằm lật đổ một chính phủ hợp hiến, thì
phải chứng minh được mức độ đe dọa lớn của những
hành động đó.
Nhiều
nền dân chủ cấm phát ngôn gây phân biệt chủng tộc
hoặc hiềm thù sắc tộc. Tuy nhiên, thách thức với tất
cả các nền dân chủ là làm sao để cân bằng giữa việc
bảo vệ tự do ngôn luận và hội họp, đồng thời phải
xử lý những phát biểu thực sự kích động bạo lực,
đe dọa, hoặc lật đổ các thể chế dân chủ. Người
dân có thể phản ứng trước hành vi của một quan chức
một cách công khai và mạnh mẽ; nhưng việc kêu gọi ám
sát quan chức đó lại là phạm tội.
Tự
do tôn giáo và khoan dung
Mọi
công dân phải được tự do tín ngưỡng. Tự do tôn giáo
bao gồm quyền hành đạo một mình hoặc với những người
khác, ở nơi công cộng hoặc riêng tư, hoặc cả quyền
không theo tôn giáo nào cả và tham gia vào các buổi lễ
tôn giáo, hành đạo và giảng dạy tôn giáo mà không sợ
bị chính phủ hoặc các nhóm khác trong xã hội ngược
đãi. Mọi người đều có quyền hành đạo hoặc hội
họp với một tôn giáo hoặc tín ngưỡng, có quyền xây
dựng và duy trì các địa điểm dành riêng cho những hoạt
động này.
Giống
với các quyền con người cơ bản khác, tự do tôn giáo
không phải do nhà nước tạo ra hay ban cho, nhưng nhà nước
dân chủ nào cũng phải bảo vệ quyền tự do đó. Mặc
dù nhiều nền dân chủ công nhận có sự tách biệt chính
thức giữa nhà thờ và nhà nước, nhưng những giá trị
của chính phủ và tôn giáo không vì thế mà xung đột
căn bản. Chính phủ nào bảo vệ quyền tự do tôn giáo
cho mọi công dân thì chắc chắn bảo vệ được các
quyền khác cần thiết để có tự do tôn giáo, chẳng hạn
như quyền tự do ngôn luận và tự do hội họp. Các thuộc
địa Mỹ và hầu hết các nhà nước chính trị thần
quyền thế kỷ XVII và XVIII, đã phát triển các thuyết
về khoan dung tôn giáo và thuyết dân chủ thế tục. Ngược
lại, một số chế độ độc tài thế kỷ XX lại nỗ
lực xóa bỏ tôn giáo, coi đó là hình thức tự biểu
hiện tín ngưỡng của cá nhân, giống với ngôn luận
chính trị. Các nền dân chủ thực sự nhận thức rằng
những khác biệt về tôn giáo của mỗi cá nhân phải
được tôn trọng và vai trò chủ chốt của chính phủ là
bảo vệ lựa chọn tôn giáo, ngay cả trong những trường
hợp nhà nước cấm một tín ngưỡng tôn giáo cụ thể.
Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là bản thân tôn giáo
có thể là cái cớ để biện minh cho bạo lực chống lại
các tôn giáo khác hoặc chống lại cả xã hội. Tôn giáo
được thực thi trong bối cảnh một xã hội dân chủ
nhưng không thể vượt lên trên xã hội.
Trách
nhiệm của công dân
Tư
cách công dân trong một nền dân chủ đòi hỏi sự tham
gia, phép lịch sự và sự kiên nhẫn, tức là đòi hỏi
cả quyền lẫn trách nhiệm. Nhà khoa học chính trị
Benjamin Barber đã khẳng định: “Dân chủ thường được
hiểu là nguyên tắc đa số và các quyền ngày càng được
hiểu là sự sở hữu tư nhân của mỗi cá nhân… Nhưng
như thế là đã hiểu sai về cả các quyền và về dân
chủ”. Để một nền dân chủ thành công, công dân phải
chủ động, chứ không bị động, bởi vì họ biết rằng
sự thành công hay thất bại của chính phủ là trách
nhiệm của họ chứ không phải của ai khác.
Tất
nhiên là cá nhân thực hiện các quyền cơ bản như tự
do ngôn luận, hội họp và tự do tôn giáo. Nhưng mặt
khác, các quyền – cũng giống như các cá nhân – không
tự hoạt động một cách biệt lập. Các quyền được
thực hiện trong khuôn khổ xã hội, chính vì vậy mà
quyền và nghĩa vụ luôn đi liền với nhau.
Chính
phủ dân chủ – do dân bầu ra và có trách nhiệm trước
nhân dân – bảo vệ các quyền cá nhân, từ đó công dân
trong một nền dân chủ có thể thực hiện nghĩa vụ và
trách nhiệm công dân của mình, góp phần củng cố xã
hội.
Ít
nhất thì công dân cũng phải tự nhận thức về những
vấn đề quan trọng mà xã hội đang phải đối mặt. Chỉ
có vậy họ mới có thể biểu quyết một cách sáng suốt.
Một số nghĩa vụ như tham gia vào bồi thẩm đoàn tại
các tòa án dân sự, hình sự hoặc tòa án quân đội, có
thể do luật pháp quy định, nhưng cũng có thể là tự
nguyện.
Bản
chất của hành động dân chủ là sự tham gia của công
dân vào đời sống chính trị của cộng đồng và đất
nước họ một cách tự do, chủ động và hòa bình. Theo
học giả Diane Ravitch, “Dân chủ là một tiến trình, là
cách sống và làm việc. Dân chủ tiến hóa, chứ không
phải bất biến. Dân chủ đòi hỏi công dân phải hợp
tác, thỏa hiệp và khoan dung. Làm sao để dân chủ vận
hành là công việc không hề dễ dàng. Tự do có nghĩa là
trách nhiệm, không phải không có trách nhiệm”. Thực
thi trách nhiệm này nghĩa là can dự tích cực vào các tổ
chức hoặc theo đuổi những mục tiêu cụ thể của cộng
đồng. Trên tất cả, thực thi trách nhiệm trong một nền
dân chủ liên quan đến một quan điểm nhất định, tức
là sẵn sàng tin rằng những người khác cũng có quyền
giống như bạn.
Còn
tiếp…
------------------
Posted
on Dec 20, 2013
Dân
chủ là một thuật ngữ mà ai cũng biết nhưng vẫn bị
hiểu và dùng sai ở thời điểm mà các nhà độc tài,
các chế độ độc đảng và lãnh đạo các cuộc đảo
chính quân sự đòi dân chúng ủng hộ vì tự cho rằng
mình bảo vệ dân chủ. Tuy nhiên, sức mạnh của ý tưởng
dân chủ vẫn phát triển trong suốt chiều dài lịch sử
với nhiều biến cố. Các chính phủ dân chủ dù phải
đối mặt với nhiều thách thức, vẫn tiếp tục
tiến bộ và lan rộng trên toàn thế giới.
----------------------------------
BẦU
CỬ DÂN CHỦ
Các
cuộc bầu cử tự do và công bằng là yếu tố cơ bản
đảm bảo sự đồng thuận của nhân dân, là trụ cột
của nền chính trị dân chủ. Các cuộc bầu cử là cơ
chế chủ yếu để chuyển hóa sự đồng thuận đó thành
quyền lực của chính phủ.
Những
thành tố của bầu cử dân chủ
Jeane
Kirkpatrick từng là học giả và cựu đại sứ Mỹ tại
Liên Hợp Quốc đã đưa ra định nghĩa như sau: “Bầu cử
dân chủ không chỉ đơn thuần là hình thức… Chúng là
những cuộc bầu cử cạnh tranh, theo định kỳ, với
thành phần tham gia mở và mang tính quyết định, qua đó
các nhà hoạch định chính sách của một chính phủ được
nhân dân bầu lên. Nhân dân có quyền tự do chỉ trích
chính phủ, công khai phê phán và đề xuất các chính sách
thay thế.
Bầu
cử dân chủ mang tính cạnh tranh. Các đảng phái chính
trị và các ứng cử viên đối lập phải có quyền tự
do ngôn luận, tự do hội họp và đi lại để công khai
chỉ trích chính phủ và đưa ra trước cử tri các chính
sách và các ứng cử viên thay thế. Nếu chỉ cho phép phe
đối lập tiếp cận lá phiếu thì chưa đủ. Đảng cầm
quyền có thể có lợi thế vì đang nắm quyền, nhưng các
nguyên tắc và thủ tục tranh cử phải công bằng. Mặt
khác, quyền tự do hội họp dành cho các đảng đối lập
không ám chỉ tình trạng lộn xộn hay bạo lực. Đó là
tranh luận.
Các
cuộc bầu cử dân chủ diễn ra định kỳ. Các nền dân
chủ không bầu lên các nhà độc tài hay các tổng thống
suốt đời. Các quan chức được bầu lên phải có trách
nhiệm trước nhân dân. Nếu muốn tiếp tục được ủy
nhiệm nắm quyền, họ phải quay trở lại với cử tri
tại các cuộc bầu cử giữa kỳ và phải đối diện với
khả năng không được bầu.
Các
cuộc bầu cử dân chủ có tính mở. Khái niệm tư cách
công dân và cử tri phải đủ rộng để bao gồm tất cả
dân chúng trưởng thành. Một chính phủ được bầu lên
bởi một nhóm nhỏ, không nhiều thành phần tham gia, thì
không phải là một nền dân chủ – dù công việc trong
nước vận hành dân chủ đến mức nào đi nữa. Một
trong những đặc điểm quan trọng của dân chủ trong lịch
sử là cuộc đấu tranh của các nhóm bị đẩy ra ngoài
lề – các nhóm sắc tộc, chủng tộc hoặc các nhóm tôn
giáo thiểu số, phụ nữ – nhằm giành quyền công dân
đầy đủ và cùng với đó là quyền được bầu cử,
nắm giữ các chức vụ và tham gia đầy đủ vào đời
sống xã hội.
Các
cuộc bầu cử có tính quyết định. Chúng quyết định
giới lãnh đạo của chính phủ trong một thời gian nhất
định. Những quan chức được bầu lên bằng phổ thông
đầu phiếu nắm giữ quyền lực, chứ không đơn thuần
chỉ là các nhà lãnh đạo bù nhìn.
Các
nền dân chủ, phát triển dựa trên sự cởi mở và tính
trách nhiệm, với một ngoại lệ quan trọng nhất: bản
than việc bầu cử. Để hạn chế tối đa khả năng bị
trả thù, các cử tri ở một nền dân chủ phải được
bỏ phiếu kín. Đồng thời, việc bảo vệ thùng phiếu
và kiểm phiếu phải được tiến hành công khai nhất có
thể, để công dân tin tưởng rằng kết quả là chính
xác và chính phủ thực sự đã dựa vào “sự đồng
thuận” của họ.
Tôn
trọng đối thủ
Một
trong những khái niệm khó chấp nhận nhất đối với một
số người, đặc biệt là ở những quốc gia mà việc
chuyển giao quyền lực thường diễn ra bằng bạo lực,
đó là “chấp nhận đối thủ”. Tuy nhiên, đây là một
ý tưởng quan trọng. Nó có nghĩa là về cơ bản tất cả
các bên trong một nền dân chủ đều có chung cam kết đối
với những giá trị cơ bản. Các đối thủ chính trị
không nhất thiết phải thích người khác, nhưng họ phải
có thái độ khoan dung với họ và thừa nhận rằng mỗi
người đều có một vai trò quan trọng và hợp pháp. Hơn
thế nữa, các nguyên tắc cơ bản của xã hội phải
khuyến khích sự khoan dung và phép lịch sự trong các cuộc
tranh luận công khai.
Khi
các cuộc bầu cử đã xong, người thua phải chấp nhận
quyết định của cử tri. Nếu đảng cầm quyền thất
bại, đảng đó phải chuyển giao quyền lực hòa bình.
Bất chấp người thắng là ai, cả hai bên phải nhất trí
hợp tác trong việc giải quyết những vấn đề chung của
xã hội. Phe đối lập tiếp tục tham gia vào đời sống
chung với sự thừa nhận rằng họ đóng vai trò quan trọng
ở bất cứ nền dân chủ nào. Phe đối lập không phải
trung thành với những chính sách cụ thể của chính phủ
mà là trung thành với tính hợp pháp cơ bản của nhà
nước và tiến trình dân chủ. Rốt cuộc thì các cuộc
bầu cử dân chủ không phải là một cuộc đấu tranh
sinh tồn mà là một cuộc cạnh tranh để phục vụ.
Quản
lý bầu cử
Ở
mỗi nền dân chủ, cách thức các quan chức được bầu
lên rất khác nhau. Ví dụ, ở cấp độ quốc gia, các
nghị sĩ có thể do các các khu vực bầu cử bầu ra –
trong đó mỗi khu vực bầu một đại diện. Quy định này
được gọi là hệ thống bầu cử “người thắng được
tất”. Một cách khác, theo hệ thống tỷ lệ đại diện,
số đại diện của mỗi đảng ở cơ quan lập pháp tính
theo tổng phiếu bầu trên toàn quốc. Các cuộc bầu cử
cấp tỉnh và địa phương có thể theo mô hình ở cấp
quốc gia này.
Dù
theo hệ thống nào đi nữa, các tiến trình bầu cử phải
được đánh giá là công bằng và cởi mở để kết quả
bầu cử được công nhận là hợp pháp. Các quan chức
phải đảm bảo quyền tự do rộng mở cho người tham gia
đăng ký cử tri hoặc chạy đua vào một chức vụ; điều
hành hệ thống công bằng nhằm đảm bảo việc bỏ phiếu
kín nhưng kiểm phiếu mở, công khai; ngăn chặn gian lận
phiếu bầu và nếu cần thiết kiểm lại phiếu và giải
quyết tranh chấp bầu cử.
PHÁP
QUYỀN
Trong
phần lớn lịch sử nhân loại, luật pháp đơn giản là
ý chí của tầng lớp cai trị. Ngược lại, các nền dân
chủ đã định ra nguyên tắc pháp trị đối với cả kẻ
cai trị lẫn người bị trị.
Bình
đẳng trước pháp luật
Pháp
quyền bảo vệ các quyền kinh tế, chính trị và xã hội
cơ bản, đồng thời bảo vệ nhân dân trước mối đe
dọa của chế độ chuyên chế và tình trạng không luật
pháp. Pháp quyền có nghĩa là không một cá nhân nào, cả
tổng thống lẫn người dân, được đứng trên luật
pháp. Các chính phủ dân chủ sử dụng quyền lực theo
pháp quyền và bản thân họ chịu những giới hạn mà
luật pháp quy định.
Công
dân sống ở các nền dân chủ sẵn sàng tuân theo luật
pháp của xã hội bởi vì họ đang tuân thủ chính những
nguyên tắc và quy định của bản thân. Công lý được
thực hiện tốt nhất khi luật pháp được người dân
xây dựng nên và chính họ phải tuân theo luật pháp đó.
Dù giàu hay nghèo, dù là người thuộc phe đa số hay phe
thiểu số, dù là đồng minh chính trị của nhà nước
hay là những người đối lập hòa bình, tất cả đều
phải tuân thủ luật pháp.
Công
dân của một nền dân chủ tuân thủ luật pháp bởi vì
họ nhận thức rằng, mặc dù gián tiếp, nhưng họ đang
tuân theo chính họ với tư cách là những người làm
luật. Khi luật pháp do nhân dân xây dựng nên và sau đó
bản thân họ phải tuân theo luật pháp đó, thì cả luật
lẫn nền dân chủ đều được phục vụ.
Tiến
trình xét xử đúng luật
Ở
mọi xã hội trong lịch sử, những người điều hành hệ
thống tư pháp nắm giữ quyền lực có khả năng lạm
dụng quyền lực và trở nên chuyên quyền. Dưới danh
nghĩa nhà nước, các cá nhân bị bỏ tù, bị tịch thu
tài sản, bị tra tấn, trục xuất và hành quyết nhưng
không được chứng minh là có tội và thường không bị
buộc tội danh chính thức nào cả. Không một xã hội dân
chủ nào cho phép xảy ra tình trạng lạm dụng như vậy.
Các
nhà nước phải có quyền lực để duy trì trật tự và
trừng phạt những hành vi phạm tội, nhưng thủ tục tố
tục theo đó nhà nước thực thi luật phải công khai và
rõ rang – không được xử kín, tùy tiện hoặc bị chính
trị hóa – và phải được áp dụng như nhau đối với
tất cả mọi người. Đó chính là quy trình xét xử đúng
luật.
Để
thực hiện tiến trình xét xử đúng luật, dưới đây là
các nguyên tắc đã phát triển ở các nền dân chủ theo
hợp hiến:
• Cảnh
sát không được vào nhà dân lục soát nếu không có lệnh
của tòa án cho thấy có lý do chính đáng để tiến hành
lục soát. Ở một nền dân chủ không có việc cảnh sát
mật được gõ cửa các gia đình vào lúc nửa đêm.
• Không
ai bị giam giữ nếu không có những cáo buộc rõ ràng,
bằng văn bản nêu rõ vi phạm. Hơn thế nữa, theo quy định
về lệnh đình quyền giam giữ, tất cả những ai bị bắt
đều có quyền được đưa ra tòa xử và phải được
thả nếu tòa thấy việc bắt giữ là không có cơ sở.
• Trước
khi xét xử, không được giam giữ những người bị cáo
buộc tội lâu trong tù. Họ có quyền được xét xử công
khai, nhanh chóng và đối chất với nguyên đơn.
• Các
nhà chức trách phải cho bảo lãnh hoặc thả có điều
kiện bị cáo đang chờ xét xử nếu thấy nghi phạm khó
có thể trốn chạy hoặc vi phạm các tội khác.
• Người
dân không bị ép buộc làm chứng chống lại bản thân.
Quy định nhằm ngăn chặn tình trạng tự phân biệt đối
xử miễn cưỡng này phải là quy định dứt khoát. Do
vậy, trong bất cứ hoàn cảnh nào cảnh sát cũng không
được tra tấn hoặc xâm phạm về thể chất lẫn tâm lý
đối với nghi phạm.
• Người
dân không bị kết án hai lần, có nghĩa là không thể bị
cáo buộc hai lần cùng một tội danh nếu họ đã thụ án
tại một tòa án.
• Do
có khả năng bị các nhà chức trách lạm dụng nên cái
gọi là luật hồi tố cũng được xây dựng. Đây là
những điều luật đưa ra sau khi xảy ra sự việc, tức
là một người vẫn có thể bị cáo buộc tội danh ngay
cả khi hành vi của anh ta ở thời điểm xảy ra chưa được
quy định là phạm tội.
• Cấm
các hình thức trừng phạt dã man hoặc bất bình thường.
Không
quy định nào trong số những quy định này có nghĩa là
nhà nước thiếu quyền lực cần thiết để thực thi
luật và trừng phạt người vi phạm. Trái lại, hệ thống
tư pháp ở một nền dân chủ sẽ hiệu quả nếu việc
điều hành hệ thống đó được nhân dân đánh giá là
công bằng và bảo vệ được an toàn cá nhân, cũng như
phục vụ lợi ích công cộng.
CHỦ
NGHĨA HỢP HIẾN
Hiến
pháp – văn kiện khẳng định những nghĩa vụ cơ bản
của chính phủ và những hạn chế đối với quyền lực
của nhà nước – là một thiết chế quan trọng đối
với bất cứ nền dân chủ nào.
Hiến
pháp: Luật tối thượng
Hiến
pháp quy định những mục đích và khát vọng cơ bản của
một xã hội vì lợi ích chung của người dân. Mọi công
dân, kể cả các lãnh đạo nhà nước, phải tuân thủ
hiến pháp quốc gia. Hiến pháp là bộ luật cao nhất của
quốc gia.
Hiến
pháp – thường được pháp điển hóa thành một văn
kiện riêng biệt – quy định quyền lực của chính phủ
quốc gia, quy định bảo vệ các quyền con người cơ bản
và quy định trình tự hoạt động cơ bản của chính
phủ. Các hiến pháp thường được dựa trên những thực
tiễn và tiền lệ chưa được pháp điển hóa trước đó
nhưng đã được chấp nhận rộng rãi. Ví dụ, Hiến pháp
Mỹ được dựa trên những khái niệm xuất phát từ
thông luật của Anh, cũng như nỗ lực của các triết gia
thế kỷ XVIII nhằm định nghĩa các quyền con người.
Chủ
nghĩa hợp hiến công nhận rằng chính phủ dân chủ và
có trách nhiệm phải chịu những giới hạn rõ ràng. Bởi
vậy, mọi bộ luật phải được soạn thảo phù hợp với
hiến pháp. Ở một nền dân chủ, cơ quan tư pháp độc
lập về chính trị cho phép công dân có quyền đòi thay
đổi những bộ luật mà họ cho là không hợp hiến và
yêu cầu tòa án ra phán quyết đối với những hành vi
bất hợp pháp của chính phủ hoặc của các quan chức
chính phủ.
Dù
bản chất hiến pháp là lâu dài và có ý nghĩa rất lớn,
nhưng vẫn phải có khả năng thay đổi và thích nghi nếu
chúng không muốn trở thành thứ đồ cổ chỉ để ngắm
mà thôi. Hiến pháp lâu đời nhất trên thế giới –
Hiến pháp Mỹ – bao gồm 7 điều khoản ngắn gọn và 27
điều sửa đổi bổ sung. 10 điều sửa đổi bổ sung đầu
tiên của Hiến pháp Mỹ được gọi là Tuyên ngôn Nhân
quyền. Tuy nhiên, văn kiện này cũng là nền tảng của
cấu trúc mang tính “hiến pháp” rộng lớn gồm các
quyết định pháp lý, bộ luật, hành động của tổng
thống và những thông lệ đã được phát triển trong 200
năm qua, góp phần giữ cho Hiến pháp Mỹ phù hợp đến
hôm nay.
Nhìn
chung, có hai trường phái liên quan đến tiến trình sửa
đổi, hoặc thay đổi hiến pháp của một quốc gia. Một
trường phái cho rằng tốt nhất là đưa ra một quy trình
khó khăn, yêu cầu phải qua nhiều bước và phải có sự
chấp thuận của đa số lớn nếu muốn sửa đổi. Như
vậy, hiến pháp sẽ thay đổi không thường xuyên và chỉ
khi nào có những lý do thật bức xúc thì việc thay đổi
hiến pháp mới nhận được sự ủng hộ lớn của dân
chúng. Đó là trường phái Mỹ.
Phương
pháp thay đổi hiến pháp đơn giản hơn, mà nhiều nước
sử dụng là quy định rằng bất cứ điều sửa đổi
nào đều có thể đưa ra để quốc hội chấp thuận và
sau đó cử tri thông qua tại cuộc bầu cử tiếp theo.
Những hiến pháp được sửa đổi theo kiểu này có thể
sẽ rất dài.
Chủ
nghĩa liên bang: Phân tán quyền lực
Khi
người dân tự do chọn sống theo một khuôn khổ hiến
pháp được nhất trí, khuôn khổ đó có thể được thực
hiện theo nhiều cách khác nhau. Một số nền dân chủ có
các cơ quan quản lý đơn nhất. Những nền dân chủ khác
theo hệ thống chính phủ liên bang – tức là quyền lực
được chia sẻ ở cấp độ địa phương, khu vực và
quốc gia.
Ví
dụ, Mỹ là một nền cộng hòa liên bang trong đó các
bang có vị trí pháp lý của riêng họ và quyền lực độc
lập với chính phủ liên bang. Không giống với sự phân
chia chính trị ở các quốc gia như Anh và Pháp – những
nước có cấu trúc chính trị đơn nhất – ở Mỹ chính
quyền liên bang không có quyền xóa bỏ hay thay đổi các
bang. Ở Mỹ, mặc dù quyền lực ở cấp liên bang ngày
càng gia tăng đáng kể, nhưng các bang vẫn có những trách
nhiệm quan trọng trong những lĩnh vực như giáo dục, y
tế, giao thông và thực thi luật. Đổi lại, các bang ngày
càng đi theo mô hình liên bang khi trao bớt chức năng cho
cộng đồng địa phương, chẳng hạn như quản lý các
trường học và cảnh sát.
Sự
phân chia quyền lực trong hệ thống liên bang không bao giờ
là rõ ràng. Các cơ quan liên bang, bang và địa phương,
tất cả đều có các chương trình nghị sự chồng chéo
nhau và thậm chí là xung đột trong những lĩnh vực như
giáo dục và luật hình sự. Tuy nhiên, hình thức liên
bang có thể tối đa hóa cơ hội tham gia của người dân
– nhân tố vô cùng quan trọng đối với sự vận hành
của xã hội dân chủ. Người Mỹ cho rằng cấu trúc liên
bang của họ bảo vệ được quyền tự trị của cá
nhân.
Còn
tiếp…
No comments:
Post a Comment