on
November 24, 2014 8:23 AM
Trong
cuộc sống đa đoan và nhiều thăng trầm, trắc trở của
tôi, biết bao nhiêu kỷ niệm, biến cố đã trôi qua trong
đời kể từ ngày tôi bám vào chiếc xe ba bánh, xa ngôi
làng Mã Châu, xã Xuyên Châu, Quận Duy Xuyên, tỉnh Quảng
Nam thân thuộc.
Những
vui, buồn, hy vọng, tuyệt vọng đã đến và đi trong đời
sống nhiều đến nỗi tôi không thể nào nhớ hết. Thế
nhưng, tôi sẽ không bao giờ quên được những tháng ngày
đầu tiên của tôi trên đất Mỹ.
Trong
trí nhớ của tôi vẫn còn in đậm hình ảnh chiếc Boeing
của hãng Northeast bay ngược chiều kim đồng hồ đưa
chúng tôi từ Manila đến phi trường Chicago vào một ngày
cuối tháng 11 năm 1981. Giọng người nữ tiếp viên hàng
không êm ái cất lên lời tạm biệt. Tôi không hiểu hết
nhưng đại khái biết rằng cô ta vừa chào mừng chúng
tôi sắp đặt chân lên đất Mỹ. Tôi tự nhủ, “quãng
đời lưu vong thật sự sắp bắt đầu”. Bên ngoài trời
đẹp nhưng xa lạ.
Như
lời bà hướng dẫn viên người Phi dặn dò trước khi
lên máy bay, chúng tôi, tay cầm chặt chiếc túi đựng hồ
sơ tỵ nạn có chữ ICM thật lớn, sắp một hàng dài dọc
theo hành lang phòng đợi để khỏi bị lạc.
Người
đầu tiên ra đón chúng tôi ở phi trường Chicago là một
cô gái Việt trẻ đẹp, có lẽ còn là sinh viên và đang
làm việc cho cơ quan thiện nguyện. Một ông Mỹ già đẩy
đến cho cô ta một thùng áo quần và lặng lẽ bỏ đi.
Theo lịch trình đã được ấn định trước, tại Chicago
chúng tôi sẽ được cấp phát áo ấm mùa đông trước
khi chuyển máy bay về địa điểm định cư cuối cùng
trong hành trình tỵ nạn. Trạm cuối của tôi là
Boston.Tôi biết và kính trọng thành phố Boston văn hóa
lịch sử, qua nhiều môn học, nhưng chưa bao giờ nghĩ có
một ngày sẽ là nơi tôi gửi gắm phần đời còn lại
của mình.
Người
con gái đẹp mà tôi không dám hỏi tên, phát cho mỗi
người trong đoàn chúng tôi một chiếc áo ấm. Tất cả
đều cùng một cỡ như nhau. Chúng tôi ngạc nhiên nhìn
chiếc áo ấm dày cộm rộng thùng thình hoàn toàn tương
phản với bầu trời nắng chang chang bên ngoài.
Hiểu
ý, với giọng Huế nhẹ nhàng, người đẹp dạy cho chúng
tôi, những lưu dân đến từ vùng nhiệt đới, bài học
đầu tiên về thời tiết nước Mỹ: “Ngó vậy mà không
phải vậy đâu. Trời gạt mấy anh đấy. Ra ngoài không
áo ấm vài phút là chết cóng”. Ngừng một chút, nàng
cười tinh nghịch: “Ai không tin bước ra thử thì biết”.
Nghe cô ta nói vui vui, tôi cũng định đáp lại bằng vài
lời tán tỉnh nhưng chợt nhớ ra đây không phải là quán
cà-phê trên đường Duy Tân cây dài bóng mát mà là thân
phận hẩm hiu của một người tỵ nạn chân vừa chạm
đất quê người, nên đành im lặng.
Đúng
như lời cô gái Việt ở Chicago cảnh cáo, Boston chào đón
tôi bằng những cơn bão tuyết triền miên suốt mùa đông
dài rét buốt.
Đêm
giao thừa của ngày Tết Việt Nam đầu tiên trên nước
Mỹ, không có bánh chưng xanh, không có rượu nồng pháo
nổ, không một lời chúc tụng ngoại trừ âm hưởng của
những bông tuyết trắng bị gió đùa vào cửa sổ.
Người
anh lớn tuổi nhất trong nhà đang cặm cụi sửa soạn một
bàn thờ nhỏ trong phòng khách để cúng ông bà. Bàn thờ
đơn giản, chỉ một lon hương, hai cây đèn, một nải
chuối và một bình hoa. Tôi và những người ở cùng nhà
ra khỏi phòng, nghiêm trang đứng sau lưng anh. Anh khấn vái
xong, chúng tôi, những kẻ không họ hàng, thân thuộc gì
với nhau, cũng lần lượt mỗi người thắp một cây
hương, cúi đầu vái ba vái. Không biết vái về đâu và
cũng không biết từ phương Đông xa xôi, tổ tiên ông bà
có nghe được lời cầu nguyện của những đứa con đang
lạc loài trên đất khách.
Tôi
thường gọi đất Mỹ nầy là đất tạm dung, trạm dừng
chân của tôi và hàng triệu đồng bào tôi, trên quãng
đường dài lưu lạc. Tôi trả thuế cho nước Mỹ căn cứ
vào những lợi tức mà tôi thu nhập được. Đó không
phải là một nghĩa vụ thiêng liêng theo kiểu “Đừng
hỏi đất nước đã làm gì cho bạn, hãy hỏi bạn đã
đóng góp được gì cho đất nước” (Ask not what your
country can do for you; ask what you can do for your country) của
cố TT Kennedy. Nước Mỹ không phải là “country” của
tôi. Tôi trả thuế nhưng đó không thể gọi là đóng
góp. Đóng góp hàm ý nghĩa thiêng liêng, tự nguyện trong
lúc trả thuế là một điều luật pháp bắt buộc tôi
phải làm nhằm trang trải cho các khoản chi dùng công
cộng.
Ngày
tôi đưa tay tuyên thệ làm một người Mỹ vừa được
công dân hóa sau năm năm thường trú, tôi cảm thấy buồn
nhiều hơn vui, tủi thẹn nhiều hơn tự hào. Một tên Mỹ
da vàng không quê hương, không tổ quốc, ngơ ngơ ngác
ngác giữa quê người, có gì đáng để mừng vui.
Viên
thư ký sở nhập tịch hỏi tôi theo thủ tục có muốn
thay cái tên cúng cơm của tôi bằng tên Mỹ. Tôi lắc
đầu. Nhiều người đã chọn đổi tên. Một số người
làm như thế chỉ để dễ kiếm công ăn việc làm nhưng
cũng một số khác để chứng tỏ mình biết hội nhập
vào đời sống Mỹ. Việt Nam, với nhóm người sau, đã
đồng nghĩa với một thời quá vãng.
Tự
do, vâng, tôi may mắn tìm được tự do nhưng đó chỉ là
tự do cho chính bản thân mình. Ngồi trên thềm tòa nhà
lịch sử Fanueil Hall ở Boston sau giờ tuyên thệ tôi làm
bốn câu thơ lục bát để kỷ niệm ngày thành công dân
Mỹ:
Mặt
mày hớn hở vui tươi
Sao lòng nghe thẹn làm người tự do
Của nầy là của trời cho
Của ta đánh mất không lo đi tìm.
Sao lòng nghe thẹn làm người tự do
Của nầy là của trời cho
Của ta đánh mất không lo đi tìm.
Năm
1999, vợ chồng tôi quyết định dời sang một tiểu bang
khác nếu công ăn việc làm thuận tiện hơn. Tôi được
một công ty chuyên về Internet ở miền Tây Nam phỏng vấn
bằng điện thoại. Kết quả rất khả quan. Họ hứa hẹn
rất nhiều, từ việc giúp chúng tôi di chuyển cho đến
việc tạm cư trong thời gian đầu. Quyết định rời khỏi
tiểu bang Massachusetts, về mọi phương diện, vật chất
cũng như tinh thần, là một quyết định lớn của gia
đình tôi. Sau này tôi không rời tiểu bang mà chỉ dời
sang thành phố khác cũng thuộc Massachusetts. Dù sao chúng
tôi cũng quyết định bán căn nhà ở Dorchester cho một
người quen.
Đêm
cuối trong căn nhà cũ, lần đầu tiên tôi khám phá ra
rằng nước Mỹ với tôi không phải là đất tạm dung.
Cảm giác đêm cuối cùng, cách đây gần 20 năm khi tôi xa
Sài Gòn, đã trở lại với tôi lần nữa. Tôi sắp sửa
rời xa một căn nhà, một nơi chốn thân thương. Căn nhà
trên đường Thornley Street là nhà của tôi, Dorchester là
thôn xóm của tôi và Boston là thành phố của tôi. Nước
Mỹ đã cho tôi nhiều hơn tôi trả lại cho nước Mỹ.
Ân
huệ mà đất nước nầy đã cho tôi không phải chỉ là
tự do nhưng còn là cơ hội và hy vọng, những điều tôi
đã không tìm thấy trên quê hương ruột thịt của mình.
Hy vọng không phải là giấc mơ huyền ảo mà là một
điều có thực và là chất sống cần thiết để nuôi
dưỡng một con người phải không ngừng tranh đấu để
sống còn như tôi. Nước Mỹ gắn bó với cuộc đời tôi
nhiều hơn tôi gắn bó với nước Mỹ.
Đêm
cuối trong căn nhà cũ, lần đầu tiên, tôi nghĩ về đất
nước đã cưu mang tôi trong suốt gần 20 năm nhiều thay
đổi của đời tôi với một tấm lòng biết ơn và trân
trọng chân thành.
Đêm
cuối trong căn nhà cũ, tôi nằm nhớ lại bàn tay người
lính hải quân Mỹ của chiến hạm USS White Plains vói
xuống để nhấc thân hình ốm o, đói khát của tôi lên
khỏi chiếc cầu dây đong đưa bên thành tàu. Chiếc cầu
dây mong manh tôi bám để leo lên chiến hạm trở thành
chiếc cầu biên giới, không chỉ cách ngăn giữa độc
tài và tự do, của quá khứ và tương lai, mà còn giữa
có quê hương và thiếu quê hương.
Đêm
cuối cùng trong căn nhà cũ, tôi mới sực nhớ ra rằng,
tôi chưa bao giờ nói một tiếng cảm ơn những thủy thủ
đã cứu vớt tôi trong đêm hãi hùng trên biển Đông năm
ấy. Lẽ ra, ít nhất mỗi năm một lần, tôi nên gởi một
tấm thiệp Giáng Sinh kèm theo lời cảm ơn về địa chỉ
của chiến hạm USS White Plains ở Bộ Hải Quân Mỹ. Tôi
tệ đến nỗi một việc làm đơn giản như thế mà bao
nhiêu năm qua tôi vẫn chưa làm được.
Đêm
cuối cùng trong căn nhà cũ tôi nằm ôn lại một khoảng
đời 20 năm, từ hai bàn tay trắng đến khi có được một
gia đình êm ấm. Nỗ lực của chính tôi không thể nào
thành đạt nếu không có những cơ hội đã được mở
ra từ xã hội Mỹ. Nước Mỹ là vùng đất của cơ hội
và mọi người đều có quyền có một American Dream.
Đêm
cuối cùng trong căn nhà cũ, tôi nghĩ về con đường
Dorchester mà tôi mỗi ngày mấy bận đi qua. Giống như
đường Santa Clara ở San Jose, Bolsa ở Nam California,
Colonial ở Orlando, đường Dorchester là xương sống của
xóm Dorchester chúng tôi. Bao nhiêu người đã ăn nên làm
ra cũng nhờ vào con đường nầy, mặc dù không phải ai
cũng biết ơn nó, không phải ai cũng nhớ tới nguồn gốc
của chính mình, không phải ai cũng nhớ đến những ngày
đầu tiên đi sắp hàng mua từng vỉ cánh gà, từng gói
mì ăn liền bằng Food Stamps trong cái rét căm căm của
miền Đông Bắc.
Trên
con đường đó mỗi buổi sáng tôi đã gặp hàng trăm em
bé Việt Nam sắp hàng ở góc đường chờ xe bus đưa đến
trường. Những chiếc xe bus màu vàng nối đuôi nhau đưa
các em đến tương lai huy hoàng của nước Mỹ. Nói như
cựu tổng thống Bill Clinton, các em là chiếc cầu của
tương lai hiệp chủng quốc Hoa Kỳ. Các em may mắn quá.
May mắn lớn nhất không phải chỉ vì các em được làm
công dân của một cường quốc nhưng quan trọng hơn, các
em không phải sống trong những ngày cháo rau khoai sắn như
hàng triệu đứa trẻ cùng thế hệ các em bên kia bờ
trái đất. Các em sẽ không bao giờ hiểu thế nào là “kế
hoạch nhỏ”, “trồng cây, trồng người”. Các em sẽ
lớn lên, vươn lên trong cuộc đời một cách hiên ngang,
không sợ hãi.
Nhà
văn Trần Hoài Thư đến Boston nhiều lần và cũng đã yêu
mến một cách say mê con đường Dorchester như chính tôi
đã và đang yêu mến. Anh Trần Hoài Thư có lần viết về
thành phố Boston: “Con
đường Dorchester qua những tiệm ăn, tạp hóa Việt Nam.
Và một khu Việt. Và những gương mặt da vàng. Và những
lời trao đổi bằng tiếng mẹ đẻ vang trên bãi đậu
xe. Đời sống vẫn bận rộn. Cõi lòng vẫn quay quắt.
Nhớ nhung vẫn bão bùng. Bạn hữu mấy thằng trôi thất
tán. Mấy thằng đợi một chuyến đò ngang…Cái mẫu số
chung ấy là mẫu số của bất cứ người tị nạn nào
trong chúng ta…Cám ơn Boston với những con tim kỳ diệu.
Nếu không có những con tim này, tôi nghĩ, chắc chắn sẽ
không có Trần Trung Đạo”.
Đêm
cuối trong căn nhà cũ, tôi biết rằng mình không chỉ có
một quê hương. Ngoài quê hương Quảng Nam Đà Nẵng ở
Việt Nam, tôi còn có một quê hương khác, quê hương
Boston trên nước Mỹ này.
Trần
Trung Đạo
(viết
ngắn lại từ bút ký Hai Gánh Quê Hương)
No comments:
Post a Comment