Đỗ
Kim Thêm,
CTV Phía Trước
Posted
on Aug 12, 2014
Giới
thiệu sách: Capital in the Twenty-first Century, by Thomas
Piketty, translated by Arthur Goldhammer, Belknap Press/Harvard
University Press, 2014, 696 pp, $39.95.
Bối
cảnh
Suy
trầm kinh tế 2008, khủng hoảng tài chính, ngân hàng
và nợ công gây hoang mang cho dân chúng về khả năng
lãnh đạo của chính giới tại Hoa Kỳ và châu Âu và
phương cách vận hành của nền kinh tế thị trường.
Bất
trắc kinh tế làm không ai tin là trước mắt sẽ có giải
pháp hồi phục cho các nước phương Tây, cho giới trẻ
thất nghiệp tại Tây Ban Nha và khả năng trả nợ cho Hy
Lạp.
Bất
công xã hội lan rộng đến một mức độ báo động mà
phong trào Occcpy Wall Street là một thí dụ và động loạn
sẽ còn tiếp diễn. Triển vọng thăng tiến cho mọi người
nay đã tiêu tan, vì chi phí giáo dục quá mắc hoặc thiếu
động lực khích lệ. Giới trung lưu trí thức, một cột
trụ chính cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế
thị trường, đang co cụm.
Ngược
lại, khi thực lực kinh tế của Trung Quốc càng lớn mạnh
làm cho mô hình “đồng thuận Bắc Kinh” và “tư bản
nhà nước” thuyết phục được nhiều hơn. Theo lập
luận này, các nước chậm tiến đang chuyển hướng sang
nền kinh tế thị trường cần tập trung cho các biện
pháp mạnh để xoá đói giảm nghèo. Do đó, ước mơ phát
triển dân chủ, cải cách chính trị và tôn trọng nhân
quyền trong trường kỳ phải nhường bước.
Trong
bối cảnh bất an kéo dài này, những người ưu tư thời
cuộc đã có hằng loạt các câu hỏi: Chủ nghiã tư
bản sẽ đi về đâu? Hình thái mới của tư bản trong
thế kỷ XXI là gì? Và đâu là giải pháp cho các vấn đề
bất công xã hội?
Học
giới phương Tây đã có vô số các hội luận và lý giải
cho các câu hỏi này, nhưng gần đây một tác phẩm đã
gây nhiều tranh luận sôi nổi là Capital
in the Twenty-First Century
của Thomas Piketty, mà bài viết sau đây sẽ giới thiệu
các luận điểm chính.
Tác
giả
Thomas
Piketty sinh ngày 7.5.1971 tại Clichy, Pháp. Ông theo học khoa
Kinh tế tại École Normale Supérieure (ENS), trình luận án
tiến sĩ tại École des Hautes Etudes en Sciences Sociale và
London School of Economics với chuyên đề về phân phối
tài sản. Từ năm 1993 đến 1995 ông phụ giảng tại
Massachusetts Institute of Technology (MIT), Hoa Kỳ. Năm 1995
ông là thành viên nghiên cứu thuộc Centre National de
la Recherche Scientifique (CNRS) và 2000 ông là Giám Đốc của
École des Haute Études en Sciences Sociales (EHESS). Từ năm
2007 ông giảng dạy tại Paris School of Economics.
Ông
nghiên cứu chuyên về phân phối lợi tức, phân
phối tài sản và công bình xã hội. Hợp tác với các
chuyên gia nổi danh khác là Anthony Atkinson (Oxford) và
Emmanuel Saez (Berkeley) ông đã trình bày về bất công xã
hội tại các nước công nghiệp phương Tây từ năm
1940 đến 1970. Với nhiều sách và luận văn kinh tế
ông nhận được giải thưởng Prix de meilleur jeune
économiste de France (2002) và Yro-Jahsson Preis (2013). Nhưng với
tác phẩm Capital
in the Twenty-First Century,
do Harvard University Press xuất bản năm 2014 ông là tác giả
nổi danh, vì tác phẩm này
ang
bán chạy nhất và được thảo luận sôi nổi tại Hoa Kỳ
và Tây Âu.
Tác
phẩm
Tư
bản trong thế kỷ XXI
là một luận đề mà Piketty giới thiệu những hình thái
mới của tư bản tạo bất công xã hội và đề xuất
giải pháp san bằng trên căn bản toàn cầu. Ông nhận xét
là dù đề tài tích lũy tư bản thành tích sản và di sản
không được kinh tế gia đương đại quan tâm, nhưng hiệu
ứng lại quan trọng hơn là tài sản được làm ra và
tiết kiệm.
Đồng
ý với Marx tư bản là một yếu tố sản xuất, nhưng ông
không dừng lại ở các khái niệm thặng dư giá trị và
bóc lột nhân công để giải thích. Tích lũy tư bản
là hình thái mới vì nó không là một tiến trình do tiết
kiệm, đầu tư và tạo lập tài sản mà David Ricardo và
John Stuartz Mill đề cập.
Piketty
định nghiã tư bản là khoản thu được tính thành tiền
và có thể có nhiều hình thức khác nhau, thí dụ như
động sản, bất động sản, doanh lợi do cổ phiếu chứng
khoán, lãi xuất công khố phiếu, bồi thường và các
thu khoản đủ loại do lợi nhuận từ tư bản.
Một
yếu tố khác quan trọng trong xã hội tư bản hiện
nay là hố cách biệt giữa thu nhập lợi tức của công
nhân và doanh thu của doanh nghiệp và thu nhập của giới
lãnh đạo doanh nghiệp (CEO). Hai hình thái tương phản này
đang lên đến mức độ báo động, tạo thành bất công
xã hội.
Theo
ông, trước khi tìm hiểu về hình thái bất công và tư
bản trong thế kỷ XXI có hai luận điểm chủ yếu cần
làm sáng tỏ là:
Có
phải động lực của việc tích lũy tư bản tư nhân tất
yếu đưa tới việc tập trung tài sản vào trong tay một
thiểu số người như Marx đã mô tả trong thế kỷ XIX
không? và
Có
phải tăng trưởng, cạnh tranh và tiến bộ kỹ thuật là
những động lực đưa tớí những phát triển trong
giai đoạn sau đó và nó làm giảm bớt bất công xã hội
và hài hoà giai cấp như Simon Kuznets giải thích trong thế
kỷ XX không?
Ông
phản bác cả hai. Thứ nhất, ông không tin về thuyết
định mệnh kinh tế như Marx cổ vũ. Cho dù quy luật kinh
tế là chính, nhờ đó để tìm ra quy luật phát triển
tổng quát, nhưng không phải đó là tất cả và đấu
tranh cách mạng vô sản là giải pháp tối hậu. Bất công
trong thu nhập là một vấn đề kinh tế tiền lương mà
còn có hậu quả cho xã hội, vì sự vận hành của các
động lực chính trong xã hội tư bản qua thời gian sẽ
đưa tới bất công hoặc công bình.
Thứ
hai, luận điểm của Kurnets cũng không thuyết phục vì lẽ
cạnh tranh, tiến bộ kỹ thuật và tăng trưởng không thể
xem là một tiến trình tự nhiên hay tình cờ, thiếu chỉ
đạo, mà tự nó sẽ có hiệu ứng ngăn ngừa mọi bất
công xã hội. Ngược lại, chính giới cần có kế hoạch
kiên quyết để đối phó và tìm các hợp tác quốc tế.
Đúc
kết từ những tài liệu thuế vụ tại Pháp, Hoa Kỳ,
Anh, Ấn Độ, Nhật Bản, Mã Lai, Nam Phi, Uruguay và nhiều
nước khác ông cho là di sản là một hiện tượng không
bình thường trong việc tạo lập và tích lũy tư bản,
mà đó chính là nguyên nhân sinh ra bất công trong việc
phân phối lợi tức xã hội trong thế kỷ XXI. Nếu bất
công, trước đây theo Marx, là một động lực thúc đẩy
cho giới vô sản đấu tranh, hay sau này, giới trung lưu
tìm đường thăng tiến qua cơ hội giáo dục, thì hiện
nay, triển vọng giải quyết công bình xã hội càng lu mờ
vì lẽ không còn cơ hội đấu tranh chuyên chính cách mạng
và giới trung lưu co cụm.
Dùng
tài liệu thuế vụ để chứng minh bất công nên ông
cũng đề nghị dùng biện pháp đánh thuế lũy tiến giới
hữu sản tại các nuớc công nghiệp là một giải pháp
san bằng và sự hợp tác quốc tế là một phương tiện
để đạt mục tiêu. Ông hy vọng là chương trình này sẽ
tạo ra một sự tái phân phối lợi tức, đem lại công
bình xã hội, nâng cao thành quả của chủ nghĩa tư bản,
nhưng quan trọng nhất là giúp cho chủ nghĩa này sóng sót.
Dù là người đề xuất, chính ông cũng nghi ngờ giải
pháp này là khả thi, nhất là trong tình hình chung hiện
nay.
Bố
cục
Sách
gồm có bốn phần gồm 16 chương. Phần I bàn về lợi
tức và tư bản gồm có hai chương. Chương 1 trình bày
hai khái niệm này và lý giải về mối quan hệ giữa hai
khái niệm. Chương 2 phân tích tỷ lệ tăng trưởng dân
số và năng xuất, sự thành hình của các khái niệm
trong thế kỷ XVIII.
Phần
II gồm có 4 chương giới thiệu về những năng động
trong mối quan hệ giữa tư bản và thu nhập, mà
nội dung là bàn đến mối quan hệ giữa tư bản
và lao động trong thế kỷ XIX. Chương 3 nói về sự hình
thành khái niệm tư bản tại Pháp. Chương 4 so sánh chủ
đề này với Đức và Hoa Kỳ. Chương 5 mở rộng
khái niệm và đặt ra mối quan hệ trên căn bản toàn
cầu.
Phần
III bàn về cấu trúc của bất công gồm có 6 chương.
Chương 7 xét đến vấn đề bất công trong thực tế dựa
trên việc nghiên cứu về phân phối lợi tức và tư bản.
Chương 8 lý giải về những động lực lịch sử của
bất công giữa Pháp và Hoa Kỳ. Hai chương 9 và 10 mở rộng
tầm phân tích đến nhiều quốc gia khác. Chương 11 soi
sáng tầm quan trọng của thừa kế. Chương 12 tìm hiểu
sự phân phối tài sản của thế kỷ XX.
Phần
IV thảo luận về việc điều tiết tư bản trong thế kỷ
XXI và gồm có 4 chương. Chương 13 nói đến mô hình nhà
nước xã hội. Chương 14 giới thiệu nội dung chương
trình về thuế lợi tức lũy tiến, đặc biệt giới
thiệu kinh nghiệm trong quá khứ và khuynh hướng gần
đây. Chương 15 đề ra những điều kiện áp dụng chương
trình này trong thế kỷ XXI, so sánh tình trạng lý tưởng
với thực tế, trong đó có một số vấn đề liên
quan là quản lý và di dân. Chương 16 bàn về hậu qủa
của nợ công.
Nội
dung
Nguyên
nhân của bất công xã hội
Lập
luận chính của ông là tỷ lệ tăng trưởng kinh tế
chậm hơn so với tích lũy tư bản nên bất công
gia tăng, nhưng đến thế kỷ XXI trào lưu này đưa
đến hậu quả nghiêm trọng nhất: sự cách biệt lợi
tức thu nhập và di sản tích lũy không thể thu hẹp
được nữa và tác hại nặng nề đến phân phối tài
sản xã hội. Ông đã tìm ra mối tương quan này và nêu
lên nhiều thí dụ ở Hoa Kỳ và châu Âu để chứng minh.
Tại
Hoa Kỳ, thuế lợi tức được áp dụng kể từ năm
1913. Qua các hồ sơ khai thuế ông chứng minh là vào thế
kỷ XIX mức cách biệt trung bình giữa thu nhập lãnh đạo
doanh nghiệp và nhân viên bình thuờng là 1/20, ngày nay
hố cách biệt trung bình trong 500 doanh nghiệp lớn
nhất là 1/200. Cao hơn nữa là trường hợp của Tim Cook,
lãnh đạo của Apple kiếm được 378 triệu đô la trong
năm 2011, thu nhập này do tiền lương, tiền chia lời
cổ phiếu và doanh thu đủ loại của doanh nghiệp, và
tỷ lệ cách biệt ước tính là 1/6.258. Trong năm 2012,
công nhân bình thường của Wall Mart kiếm không quá 25.000
đô la/năm, trong khi Michael Duke, lãnh đạo phụ trách bán
lẻ kiếm được 23 triệu. Một thí dụ nổi bật nhất
là tài sản của 85 người giàu nhất thế giới mà trong
đó có ba người nối tiếng nhất là Bill Gates, Warren
Buffet và Carlos Slim, tổng cộng tài sản của họ là 3
nghìn 500 tỷ đô la, có nghiã là bằng 1/2 tài sản của
dân số trên thế giới cộng lại. Dĩ nhiên, còn vô số
thí dụ về tài sản kếch sù của giới siêu giàu, họ
là minh tinh điện ảnh, doanh nhân quốc tế, danh tài thể
thao hay các tác giả sách bán chạy nhất.
Piketty
không đồng ý là giới siêu giàu mới là những người
có tài năng siêu việt, đóng góp to lớn cho nhân loại và
đáng hưởng những phần thưởng vật chất tương xứng.
Dù khó tìm ra một chuẩn mực để đo lường thành quả,
nhưng không thể nói họ làm việc cực nhọc, thông minh
và tiết kiệm nhiều hơn. Thực ra, các khoản thu nhập
này là một hiện tượng bất thường vì không theo quy
luật thị trường lao động, phần thì do các lãnh đạo
cấu kết để chia chác, trục lợi qua nhiều hình
thức, phần khác thì họ tìm mọi cách không cho công nhân
được chia phần thành quả doanh nghiệp. Ngoài ra, họ là
những người biết cách khai thác kỹ thuật mới trong
lĩnh vực internet hay truyền thông để làm giàu nhanh. Đó
là một quy luật nội tại của doanh nghiệp mà người
ta dễ nhận ra. Nhưng theo ông, khi chính quyền không
thể điều tiết và tỷ lệ thu nhập này tăng nhanh
hơn tăng trưởng kinh tế thì bất công có thể xác định
được. Tích lũy tư bản trong thời hiện đại đến
từ những hình thức tích sản này và đang biến
thành di sản.
Vấn
đề châu Âu được Piketty thảo luận sâu rộng hơn vì
các tài liệu khả dụng về thuế khoá từ có từ cuối
thế kỷ XVIII. Ông cho là lịch sử kinh tế là một cuộc
chay đua bất phân thắng bại giữa tích lũy tư bản và
tăng trưởng kinh tế mà các yếu tố chính là do phát
triển dân số và canh tân kỹ thuật.
Ông
kết luận là trước khi thế chiến thứ nhất bùng nổ,
giá trị tư bản tích lũy tại châu Âu cao từ sáu
đến bảy lần hơn thu nhập quốc gia. Tuy nhiên, qua
bốn thập niên, châu Âu vì bị hai cuộc thế chiến tàn
phá và mức tiết kiệm không còn nhiều, mà tỷ lệ
này giảm đi một nửa. Sau thế chiến thứ hai, tích lũy
tư bản tăng lên. Đó là thời kỳ kinh tế phồn
thịnh từ năm 1945 đến năm 1973 và được
sách vở kinh tế gọi là thời kỳ Hoàng Kim, mà
điển hình là lợi tức công nhân tăng làm mức sống
của đại chúng tăng. Trong khi các kinh tế gia xem đây
là một hiện tượng phát triển bình thường và tất yếu
trong bối cảnh tái thiết hậu chiến, thì ông giải thích
đó là một ngoại lệ của lịch sử và đã
chấm dứt vì trào lưu sẽ không trở lại.
Về
vai trò của di sản trong lịch sử phát triển kinh tế thì
Piketty chứng minh là di sản chiếm một vai trò khiêm
nhượng so với thu nhập quốc dân trong thời kỳ chiến
tranh, nhưng lại tăng nhanh trong thời hậu chiến, vào năm
1970 chiếm khoảng dưới 50%, nhưng hiện nay đã lên đến
70% và còn tiếp tục tăng. Tầm quan trọng của di sản là
do ảnh hưởng của giới siêu giàu, mà ngày nay được
goị chung là thành phần thượng tầng 1% trong xã hội.
Mực sống cực kỳ xa hoa phung phí của giới thượng lưu
qúy tộc, mà người Việt quen gọi là giới ngồi nhà
mát ăn bát vàng, trong thế kỷ XIX được các tiểu thuyết
gia Pháp như Balzac và Austen mô tả khá chi tiết. Mức sống
cao sang này có giảm đi trong thời kỳ 1910 cho đến 1950,
nhưng sau 1970 thì tăng nhanh trở lại, dù trong mức độ
có ít hơn so với thế kỷ XIX.
Qua
nhiều dẫn chứng ông kết luận là mức độ bất công
tại châu Âu ít hơn tại Hoa Kỳ vì châu Âu can thiệp
chặt chẽ hơn về luật lao động, các chương trình an
sinh xã hội và thuế khoá, nhưng cả hai có một đặc
điểm chung trong thế kỷ XXI là hình thức tích lũy
và tạo lập tư bản do di sản và tỷ lệ taọ lập di
sản tăng nhanh hơn tỷ lệ tăng trưởng kinh tế. Do đó,
bất công lan rộng đến mức độ không thể san bằng.
Giải pháp cho vấn đề là chính quyền cần có một biện
pháp đánh thuế giới hữu sản trong tầm vóc quốc tế.
Giải
pháp san bằng
Làm
sao đem lại công bình xã hội khi năng động nội tại
của chủ nghiã tư bản hướng theo một chiều mới là
tạo lập tích sản và di sản?
Tăng
trưởng là cần thiết để đem lại quân bình giữa lao
động và tư bản. Nhìn chung, Piketty thực tế hơn khi cho
là tỷ lệ tăng trưởng hàng năm đạt được 1% đến
1,5% là nhiều, nhưng phải liên tục. Khi mức tăng trưởng
1,5% là đi vào ổn định, đạt đến gần mức tăng trước
năm 1914. Hiện nay, theo ông, không có điều kiện
để đạt đến tỷ lệ tăng trưởng từ 4% đến 5%,
và nhất là trong trường hợp dân số đình trệ hay
giảm sút.
Đánh
thuế nhà giàu là một biện pháp để chống lại tập
trung tư bản, nhưng đó không phải chuyện đấu tranh giai
cấp của Marx mà phải là một chính sách thuế khoá công
minh. Xác định tỷ lệ thuế suất là một nhiệm vụ
chính trị nhưng cũng cần có sự hợp tác quốc tế
và nhiều mô hình có thể áp dụng. Ông đề nghị
là có thể miễn thuế đối với tài sản cá
nhân có đến 1 triệu Euro, đánh 1% thuế cho ai có tài sản
từ 1 đến 5 triệu, tăng lên 2% cho ai có trên 5 triệu
và cứ như thế lên từ 5 đến 10% khi trên mức 1 tỷ.
Nhưng
người ta cũng có thể quyết định khác hơn là những
loại tài sản khiêm nhường cũng bị ảnh hưởng, thí dụ
như 0,1% cho dưới 200.000 Euro, 0,5% cho khoảng từ 200.000 và
một triệu.
Theo
ước tính của Piketty tỷ lệ thu cao nhất là 3 đến 4 tỷ
lệ phần trăm điểm của thu nhập quốc gia, vì mục tiêu
của đánh thuế tư bản lũy tiến không phải là phát
triển một nguồn thu mới cho nhà nước, nhưng là điều
tiết hợp lý cho chủ nghiã tư bản. Gánh nặng về thuế
khóa tại Tây Âu hiện nay đã quá mức, với nguồn thu
nhập mới làm cho việc đóng góp của giới trung lưu giảm
đi.
Ông
ý thức được vấn đề tư bản từ các nuớc công
nghiệp phát triển đang tháo chạy khắp thế giới để
trốn thuế, trong khi sự hợp tác ngay trong châu Âu trong
lĩnh vực này đã không đạt được kết quả, thì
đề xuất của ông lập một biểu thuế áp dụng trên
toàn cầu là một ảo tưởng. Ông lạc quan hơn khi cho
rằng đó là một giải pháp hữu ích, vì đến một lúc
nào đó thì cộng đồng quốc tế sẽ thấy nhu cầu áp
dụng là cần thiết và sẽ khởi động.
Còn
tiếp…
.
.
.
Đỗ
Kim Thêm,
CTV Phía Trước
Posted
on Aug 23, 2014
Tác
giả
Thomas
Piketty sinh ngày 7.5.1971 tại Clichy, Pháp. Ông theo học khoa
Kinh tế tại École Normale Supérieure (ENS), trình luận án
tiến sĩ tại École des Hautes Etudes en Sciences Sociale và
London School of Economics với chuyên đề về phân phối
tài sản. Từ năm 1993 đến 1995 ông phụ giảng tại
Massachusetts Institute of Technology (MIT), Hoa Kỳ. Năm 1995
ông là thành viên nghiên cứu thuộc Centre National de
la Recherche Scientifique (CNRS) và 2000 ông là Giám Đốc của
École des Haute Études en Sciences Sociales (EHESS). Từ năm
2007 ông giảng dạy tại Paris School of Economics.
Ông
nghiên cứu chuyên về phân phối lợi tức, phân
phối tài sản và công bình xã hội. Hợp tác với các
chuyên gia nổi danh khác là Anthony Atkinson (Oxford) và
Emmanuel Saez (Berkeley) ông đã trình bày về bất công xã
hội tại các nước công nghiệp phương Tây từ năm
1940 đến 1970. Với nhiều sách và luận văn kinh tế
ông nhận được giải thưởng Prix de meilleur jeune
économiste de France (2002) và Yro-Jahsson Preis (2013). Nhưng với
tác phẩm Capital
in the Twenty-First Century,
do Harvard University Press xuất bản năm 2014 ông là tác giả
nổi danh, vì tác phẩm này đang bán chạy nhất và được
thảo luận sôi nổi tại Hoa Kỳ và Tây Âu.
----------------------
Nhận
xét
Dù
sách bán chay nhất và được giới thiệu như là một
tác phẩm quan trọng về lịch sử tư tuởng kinh
tế hiện đại và đem lại những chuyển biến trong
nhận thức về chủ nghiã tư bản cho tương lai,
nhưng Piketty không tránh khỏi nhiều phê bình mà một số
ý chính có thể tóm lược như sau.
Know
How
Piketty
đề ra hai thành tố chính là tư bản và lao động trong
tiến trình sản xuất. Ông tập trung lý giải về mối
quan hệ này đóng góp cho tăng trưởng như thế nào.
Theo
ông, tư bản là yếu tố sản xuất mà người ta có thể
mua, bán, tặng, tiết kiệm và tích lũy thành di sản như
giới siêu giàu hiện nay đang làm. Ngược lại, lao động
là yếu tố cá nhân, chỉ có thể mua bán qua thị trường
nhân dụng mà luật lao động là cơ sở. Không ai có thể
mua bán sức lao động của người khác vì thời kỳ nô
lệ không còn. Tư bản có hai đặc điểm:
Một
là khả năng sinh lợi trong tương lai mà ước tính triển
vọng là quan trọng. Từ đó một mảnh đất có thể bán
giá quá cao trong khi một mảnh đất bên cạnh không đem
lại một thu khoản đặc biệt cho sở hữu chủ, đây là
một thí dụ quen thuộc trong sự biến động giá cả trên
thị trường bất động sản mà triển vọng sẽ quyết
định giá tương lai của tư bản.
Hai
là tư bản có thể được tích lũy và sinh lợi qua tiết
kiệm. Một người có thể tiết kiệm 100 đơn vị của
lợi tức thu nhập, và trong điều kiện bình thường sẽ
tăng thêm được 4 đến 5 đơn vị trong một năm. Do đó,
có triển vọng tái đầu tư và nhờ thế mà tư bản và
lợi tức cùng song hành tăng gia.
Thực
ra, hai thành tố tư bản và lao động chưa đủ. Ông
cũng không thể lý giải vai trò thay đổi kỹ thuật trong
tiến trình sản xuất, dù ông có đề cập. Một thí dụ
phản bác lập luận của Piketty rõ rệt nhất là vai trò
của Know how.
Tổng
trị giá tài sản hiện nay của ba doanh nghiệp Apple,
Google và Facebook lên trên một nghìn tỷ đô la. Piketty
không thể dùng yếu tố tạo lập, tích lũy và gia
tăng tư bản cuả ba doanh nghiệp này để giải thích
sự thành công. Nếu so với giá trị đóng góp của
tư bản đầu tư ban đầu và lao động hiện có thì không
đáng kể, nếu có so ở đây là với tài năng đóng góp
của lãnh đạo và thay đổi kỹ thuật. Bất công thu nhập
trong nội bộ của doanh nghiệp là hiển nhiên, nhưng tài
năng lãnh đạo và sự thay đổi triệt để của Know how
đóng góp nhiều hơn là vai trò di sản, tư bản và lao
động như Piketty lý giải.
Mức
tăng trưởng đến 5% mà Piketty đề ra để làm khởi
điểm phát sinh cho bất công cũng không thuyết phục.
Tăng trưởng là do đầu tư. Đầu tư sinh lợi liên hệ
đến vấn đề lĩnh vực đầu tư, mà trào lưu hiện
nay cho thấy yếu tố Know how quan trọng hơn là tư bản và
lao động. Đã có nhiều thí dụ chứng minh tại Trung
Quốc, Chile và Hoa Kỳ cho lập luận này.
Mức
Trung Quốc cho quốc tế vay chiếm tỷ trọng 30% của
TSLQG hằng năm, nhưng sinh lợi từ tiền cho vay là
bằng không, tình trạng này còn tiếp tục. Cụ thể
là Trung Quốc là chủ nợ của Hoa Kỳ, đem tiền vào
Hoa Kỳ để tái đầu tư, nhưng chỉ tập trung vào thị
trường cổ phiếu và bất động sản, nên mức sinh lợi
không thể là đáng kể mà nguy cơ nhiều hơn.
Trường
hợp của Chile khi đầu tư ở hải ngoại cũng tương tự.
Trong 30 năm qua, Chile có tiền đem ra hải ngoaị đầu
tư là nhờ huy động tiết kiệm quốc nội. Chile
không có khả năng thâm nhập lĩnh vực Know how tại hải
ngoại, nên đầu tư không sinh lợi và không giúp
cho tăng trưởng.
Ngược
lại, dù Hoa Kỳ đang vay của thế giới là 13 nghìn
tỷ, phần lớn để trang trải công phí, phần còn lại
sử dụng cho các chương trình đầu tư tại hải
ngoại, trong đó có các dự án thuộc lĩnh vực Know how
tại Trung Quốc và các nước công nghiệp đang trổi dây,
nơi mà tỷ lệ tăng trưởng còn ở mức 9%. Triển vọng
sinh lợi trong chiến lược này tất nhiên là cao, nhưng có
thể giúp gì trong việc san bằng bất công quốc nội là
một vấn đề còn tranh luận, nhất là trong bối cảnh
suy trầm còn tiếp tục.
Quyết
định lĩnh vực đầu tư là chính để giúp tăng
trưởng. Phát sinh bất công không hoàn toàn lệ thuộc
vào tỷ lệ trong mối quan hệ tư bản và lao động như
Piketty xác định.
Di
sản
Lo
âu của Piketty về mức tác hại của di sản không có cơ
sở, vì tại Hoa Kỳ di sản đã không gây bất công trong
quá khứ, từ đó mà không thể kết luận là sẽ có hậu
quả này trong tương lai. Ảnh hưởng của các gia đình tỷ
phú như Rockefeller, Carnegie và Ford là thí dụ. Một phần,
các tài sản này đã bị phân tán, phần khác, hậu duệ
thụ hưởng cũng không thể trực tiếp tham gia sinh hoạt
công quyền để gây thêm bất công, nhằm bảo vệ di sản
như nhiều người lầm tưởng. Trong chừng mực nào đó,
họ cũng có những hoạt động gây áp lực nhưng
không như các lobbyist chuyên nghiệp.
Điều
chắc chắn là hậu duệ của Bill Gates và Warren Buffet sẽ
tiếp tục nắm giữ di sản không lồ này, nhưng có thể
gây tác hại đến bất công cho toàn xã hội là không thể
xác định, nhưng những hoạt động từ thiện hiện nay
của Bill Gates đã chứng minh ngược lại. Một suy đoán
khác là không ai biết được các diễn biến của lĩnh
vực công nghệ thông tin. Các tài năng mới trong lĩnh vực
này sẽ có các chuyển biến đột phá làm cho Bill Gates
hay Warren Buffet sẽ không còn giữ vững ngôi vị, một
vấn đề có thể xãy ra. Giới lãnh đạo này cũng không
đến từ thành phần có di sản hay trong chính giới.
Là
người Pháp, Piketty biét rõ là sử dụng di sản vào mục
tiêu văn hoá, xã hội hay tôn giáo là một truyền thống
của Âu Tây. Nhờ thế, nhiều hoạt động nghệ
thuật tại Pháp đều được tài trợ và các danh tài hội
hoạ như Courbet, Manet, Cézane, Monet hay các văn sĩ như
Baudelaire, Flaubert hay Proust có phương tiện làm việc. Gần
đây, Amnesty International và Human Rights Watch cũng đã gia
tăng hoạt động nhờ thụ hưởng tài trợ loại này.
Hiện
nay, huy động việc sử dụng tích sản và di sản vào các
mục tiêu xã hội là một vấn đề trong các lĩnh vực
sponsoring và social engeneering tại Hoa Kỳ. Do đó, trước
trào lưu này khó có thể xác định mức độ tác hại
tuyệt đối của tích sản di sản về bất công xã hội
như Piketty tiên đoán.
Thăng
tiến xã hội
Theo
Piketty, thiếu năng động xã hội là không còn cơ hội
thăng tiến cho giới trung lưu và giới có lợi tức thấp,
một khởi điểm cho bất công. Lập luận này không đúng
cho các sắc dân di dân mà thành công của người Việt ty
nạn trong thế hệ đầu tiên là một phản bác thuyết
phục nhất. Không phải thu nhập, di sản và gia thế sẽ
quyết định cơ hội thăng tiến mà là yếu tố văn hoá,
lối sống và quyết tâm. Cảm nhận được môi trường
tự do mới và có động lực khích lệ do gia đình giúp
cho người Việt hội nhập và thăng tiến trong mọi lĩnh
vực xã hội nhập cư. Do đó, thu nhập cao và tài sản
không thể lý giải cho sự thăng tiến của thành phần di
dân.
Một
khó khăn mà giới trung lưu phải chịu trong thời gian qua
là mức lương không tăng nhanh so với nhu cầu tiêu thụ
đang thay đổi. Mức lương khả dụng và nỗ lực thích
nghi trong tình hình biến đổi như người di dân sẽ quyết
định thăng tiến và không phải là tích lũy tài sản hay
di sản của giới trung lưu là chính. Mối quan hệ lợi
tức và lao động mà Piketty đề ra không thể giải thích.
Có
lập luận cho rằng tiền lương của công nhân tại các
nước công nghiệp sẽ không tăng vì chủ doanh nghiệp còn
tiếp tục đầu tư để hưởng những lợi điểm lương
thấp tại các nước chậm tiến. Do đó, bất công sẽ
còn kéo dài. Piketty chỉ có thể giải thích sự bất công
trong mối tương quan tiền lương và tăng trưởng trong nội
bộ từng nước công nghiệp phát triển và không trên căn
bản toàn cầu để so sánh ý nghiã đích thực của thăng
tiến.
Nếu
thảo luận bất công trong bối cảnh toàn cầu hoá, đầu
tư tư nhân và mậu dịch quốc tế giữa các nước công
nghiệp phương Tây và đang trổi dậy, ông sẽ có những
nhận định toàn diện hơn về cạnh tranh và phát triển.
Sự
trổi dậy kinh tế của Trung Quốc, Ấn Độ, Viêt Nam, các
nước khác tại Đông Á và Nam Mỹ trong nhiều thập niên
qua đã giúp cho hằng trăm triệu người dân khỏi thoát
cảnh nghèo đói tận cùng. Nhờ tham gia hội nhập mậu
dịch quốc tế mà các nước đang trổi dậy cũng có điều
kiện tốt đẹp hơn, ít nhất là so với tình trạng sống
trước đây.
Nhìn
chung, bất công trong từng nước một còn là môt vần đề
gay go mà Việt Nam là một thí dụ. Vấn đề phát triển
châu Phi sẽ là một thách thức quan trọng nhất cho nhân
loại hôm nay. Do đó, lý giải về thăng tiến xã hội của
Piketty không toàn diện.
Công
bình thuế vụ
Đây
là một đề tài mà Piketty không phải là người đề ra
đầu tiên vì được tranh luận từ lâu. Ai là người
được xem là có cuả? Có phải cứ có tài sản nhất
thiết là tạo bất công xã hội không? Và doanh nghiệp
nào tạo ra bất công? Một vấn đề cần xác định. Đến
năm 2010, cá nhân nào thu nhập được 1 triệu rưởi đô
la một năm được xếp vào thành phần hữu sản, còn
doanh nghiệp thì không có mức độ xác định, thường
thì doanh nghiệp có tham gia thị trường cổ phiếu hoặc
số thương vụ trên 500 triệu đô la và có 10.000 công
nhân, nhưng chuẩn mực này không chính xác, vì hiện nay
có nhiều doanh nghiệp vẫn còn do gia đình quản lý nhưng
có tài sản kết sù. Ý chính của Piketty về bất công là
hướng về việc thu nhập của giới lãnh đạo thuộc
dạng CEO của thị trường tài chánh và công nghiệp thông
tin.
Việc
đánh thuế tài sản tích lũy của giới CEO, như Piketty đề
nghị, gây bất mãn cho giới hữu sản trung bình. Một
người làm việc lương thiện, có những thương vụ bình
thường, hợp pháp, dành dụm qua một thời gian dài, nay
trở thành giới hữu sản, bị đánh thuế, nên họ không
còn lại gì cho con cháu. Đây là một hình phạt tối đa
có hiệu lực hồi tố, không thể gọi là công bằng xã
hội và tác hại trầm trọng vì không khích lệ cho tiết
kiệm và tái đầu tư.
Taị
các nước châu Âu, thuế gia sản là một vấn đề được
tranh cải khá gay gắt. Phần Lan có đề xuất rồi cũng
bị áp lực phải từ bò. Các nước Áo, Đan Mạch, Đức,
Thụy Điển và Tây Ban Nha cũng nằm trong tình trạng tương
tự. Gần đây nhất là Ý trong năm 2011. Các đảng tại Ý
đề ra thuế cho những người có bất động sản để
vận động tranh cử. Vì dân chúng phản ứng trước thuế
biểu nặng nề nên các đảng phải đành phải rút lại.
Chính quyền đảo Cyprus cũng tìm cách đánh thuế tài sản
trên tiền ký thác của trương chủ ngân hàng với hy vọng
tăng nguồn thu để giải quyết vấn đề kinh tế, nhưng
thực tế cho thấy ngược lại, chỉ đem lại bất ổn
trong dân chúng.
Dù
đề xuất giải pháp đánh thuế giới hữu sản, nhưng
Piketty không trình bày những khó khăn khi áp dụng, đo
lường hậu quả và kiểm soát. Quan trọng nhất là ông
không tìm ra một đối sách khi không thể tăng thu và huy
động được tiết kiệm quốc nội cho các đầu tư mới.
Khi khả năng trốn thuế của giới hữu sản tinh vi trong
tầm mức quốc tế, thì phương sách của Piketty cần xét
lại.
Điều
kiện lý tưởng để áp dụng một chính sách thuế khoá
công minh là hệ thống chính trị dân chủ tốt đẹp lòng
trong hoạt động hữu hiệu của một nền kinh tế thị
trường tự do. Trong thực tế, công bình thuế vụ không
gì khác hơn là có một thể chế dân chủ và luật pháp
được mọi thành phần dân chúng triệt để tôn trọng,
kể cả giới hữu sản. Lý tưởng này đạt được do
thành qủa của một hệ thống giáo dục trọng pháp mà
nước giàu đang suy đồi và nước nghèo chưa có. Đóng
thuế nhiều là niềm hảnh diện cá nhân và thể hiện
lòng yêu nước, hiện nay chỉ có trong truyền thống văn
hoá của Nhật Bản.
Giải
pháp tương ứng khả thi
Nếu
giải pháp của Piketty là ảo tưởng, tại sao không thể
tìm một giải pháp có hiệu ứng tương tự nhưng khả
thi? Một thí dụ được đề cập nhiều nhất là áp dụng
thuế tiêu thụ lũy tiến, thay vì áp dụng thuế di sản.
Biện pháp này đơn giản vì nhắm vào các mặt hàng xa xĩ
dành cho giới thượng lưu và nhất là áp dụng trên căn
bản địa phương, nơi mà sở thuế có thể kiểm tra
được. Lối đánh thuế này không tác động đến khuynh
hướng tiết kiệm như thuế lợi tức hay di sản. Thuế
tiêu thụ lũy tiến sẽ hổ trợ cho tăng trưởng nhiều
hơn.
Một
biện pháp khác cũng đã từng được đề cập đến là
hoàn toàn miễn thuế cho công nhân có thu nhập thấp và
giảm thuế cho công nhân có thu nhập cao hơn.
Chi
phí giáo dục hiện nay là một thực tế khó khăn cho giới
có lợi tức thấp, nhưng một trào lưu mới đang thịnh
hành là giaó dục miễn phí online, mà chương trình trực
tuyến của M.I.T. của Hoa Kỳ là một thí dụ. Các chương
trình giáo dục trọn đời và từ xa là một mô hình mới
khả thi.
Trong
chừng mực giới hạn, triển vọng về các biện pháp
tương ứng khả thi là một vấn đề cần thảo luận sâu
rộng để san bằng bất công xã hội.
Bài
học cho Việt Nam?
Độc
giả người Việt thất vọng vì Piketty không trực tiếp
soi sáng vấn đề Việt Nam.
Bất
công xã hội tại Việt Nam không cần phải tìm hồ sơ
thuế vụ để dẫn chứng như Piketty theo đuổi. Dù không
có số thống kê cho hố cách biệt giữa thu nhập nông
dân và lãnh đạo doanh nghiệp thu mua nông sản, giữa công
nhân và lãnh đạo doanh nghiệp xuất khẩu, nhưng thực tế
cho thấy phải hơn tỷ lệ 1/6.258 của doanh nghiệp Apple.
Thành
phần 1% dễ nhận diện hơn điều tra hình sự. Theo một
báo cáo năm 2013 của UBS và Wealth X, một công ty nghiên
cứu tài sản ở Singapore, số lượng người giàu nhất
tại Việt Nam đã tăng lên 14,7%, số lượng người có
tài sản cá nhân thấp nhất là 30 triệu đô la hay nhiều
hơn lên đến 195 người, mà không ai khác hơn là thuộc
về lãnh đạo.
Nguyên
nhân bất công? Chuyện dể hiểu vì không có yếu tố hải
ngoại. Về lý thuyết, ai cũng biết là do cơ chế chính
trị:
“Đảng
lãnh đạo,
nhà
nước quản lý,
nhân
dân làm chủ đất nước”,
nhưng
người dân đọc và viết lại bằng cách đánh dâú phẩy
một cách khác hơn:
“Đảng
lãnh đạo nhà nước,
quản
lý nhân dân,
làm
chủ đất nước“
và
phản ảnh đúng với thực tế.
Cơ
chế độc đảng cho phéplãnh đạo không cần chứng minh
khả năng làm việc, sống thanh liêm, có tiết kiệm và
đáng được hưởng thành quả tương xứng. Với đặc
thùnày lãnh đạo biến Việt Nam thành một nền kinh tế
trọng thương bất phú, tư bản thân tộc và xã hội thị
trường mà không bị ai truy tố.
Giải
pháp khả thi? Chuyện hão huyền. Đánh thuế giới hữu
sản theo cách của Piketty cũng sẽ không thành công, một
phần vì luật lệ tài chính không nghiêm minh và phần
khác thì tích sản của lãnh đạo đã theo con cháu ra
ngoại quốc từ lâu, nên các biện pháp sai áp, nếu có,
không thể áp dụng. Piketty chỉ lý giải đúng về nguyên
nhân bất công xã hội là do chế độ gây ra và sai là về
giải pháp đánh thuế.
Giải
pháp tương ứng khả thi để san bằng bất công xã hội
hiện nay không còn quan trọng nữa vì giữ gìn toàn vẹn
lãnh thổ và tồn vong của chế độ trở thành hai vấn
đề sinh tử cho Việt Nam, một thách thức nằm ngoài tầm
nhìn của Piketty và phạm vi của bài giới thiệu sách
này.
----------------------
MỘT
BÀI GIỚI THIỆU KHÁC
04:54:pm
26/11/14
Capital
in the 21st century là tựa
đề quyển sách của Giáo sư kinh tế người Pháp Thomas
Piketty vốn đang tạo tranh cãi gay gắt trong năm 2014: riêng
tại Mỹ, các nhà trí thức cấp tiến ca tụng đây là
môt trong những tác phẩm quan trọng nhất cho tương lai,
còn cánh bảo thủ gọi ông là một nhà tư tưởng Mác
Xít trá hình!
Quyển
sách khá dài nhưng đề tài tương đối dễ hiểu. Piketty
nhận xét rằng các quốc gia sau giai đoạn tăng trưởng
nhanh chóng rồi đều sẽ đến lúc phát triển chậm lại
còn khoảng từ 1-1.5% mỗi năm. Trường hợp này đã xảy
ra tại Âu Châu, Nhật Bản và ngay cả ở Hoa Kỳ nếu
không có nguồn nhân lực mới do nhập cư; sau này sẽ tái
diễn tại Trung Quốc và những nước tân hưng. Nguyên
nhân chủ yếu vì một khi quốc gia đã công nghệ hóa thì
không còn nhiều cơ hội mới để khai phá trong khi dân số
bớt sanh đẻ nên đà tăng tốc phải chậm lại.
Lợi
tức trong xã hội được tạo ra nhờ vào hai nguồn lao
động và vốn đầu tư. Khi dân số và đà phát triển
tăng nhanh thì lao động tạo ra nhiều của cải so với
vốn; trái lại khi tăng trưởng chậm thì vốn có khuynh
hướng tích lũy nên lâu dài sẽ thu hút nhiều lợi tức
hơn so với lao động. Kết quả là của cải trong xã hội
càng ngày càng tập trung vào thiểu số dẫn đến tình
trạng bất cân đối khiến nền kinh tế đánh mất đi
tính cạnh tranh.
Giải
thích như thế này cho dễ hiểu: ở các nước lạc hậu
trước đây như Việt Nam thì gia đình có đến 10 con, con
cái phải dựa vào năng lực của mình thay vì trông cậy
nơi gia tài của cha mẹ. Khi vừa mở cửa thị trường
thì cơ hội còn nhiều nên lao động hay kinh doanh đều có
mức thu nhập cao. Đến nay các gia đình ở thành phố
thường chỉ có 1 hay 2 con nên sau này dù chỉ để lại 1
căn nhà trị giá trên dưới 500 ngàn USD thì gia tài vẫn
rất lớn, trong khi đa số các thanh thiếu niên còn lại
sanh ra trong gia đình nghèo dù trọn đời đi làm công cũng
không thể nào mơ tưởng có được căn nhà ở thành phố.
Hơn thế, con cái nhà khá giả được gởi đi du học nước
ngoài trong lúc thanh niên trong nước hoặc phải bỏ học
hay phẩm chất giáo dục kém nên mức độ chênh lệch ở
ngay bước vào đời đã khác nhau rất nhiều.
Thí
dụ trên cho người Việt nhưng không phù hợp với tinh
thần của quyển sách vì Việt Nam là một nước đang
phát triển, trong lúc chủ đề của tác phẩm nhằm vào
khối các quốc gia công nghiệp. Tác giả dùng nhiều dữ
liệu thống kê ở ba nước Anh, Pháp, Mỹ kể từ thế kỷ
18 đến nay để dẫn chứng cho quan điểm của mình và đề
nghị biện pháp để các nước công nghiệp giải quyết
mức độ chênh lệch giàu nghèo trong xã hội.
Tưởng
cũng nên nhắc rằng tình trạng khác biệt giàu nghèo cũng
vừa được Thống đốc Ngân Hàng Trung ương Hoa Kỳ bà
Janet Yellen nói đến, nhưng ưu tư của bà Yellen ở khía
cạnh chính sách tiền tệ hiện thời của Hoa Kỳ tuy bơm
lên giá địa ốc và chứng khoán còn lương bổng chưa
theo đó tăng lên. Trong khi đó tác giả Piketty đứng trên
tầm nhìn xa về tương quan giữa vốn và lao động trong
phần còn lại của thế kỷ 21.
Dù
gì thì quyển sách của Piketty cũng xuất hiện đúng thời
điểm và đụng chạm đến điểm nhức nhối muôn đời
nhưng nhất là kể từ sau cuộc đại khủng hoảng 2007-09
tại Hoa Kỳ và còn dài dài ở Âu Châu, vì biện pháp do
tác giả đề nghị là tăng thuế nhà giàu để san bằng
chênh lệch ở mức lũy tiến rất cao dựa trên tài sản
và lương bổng.
Có
hai lối nhìn về kinh tế và chính trị: hoặc xem nhà nước
là tác nhân chính để phân phối của cải và cơ hội
đồng đều cho xã hội; hay nhà nước càng tập trung
quyền hành thì càng làm bậy! Ở các xã hội Âu-Mỹ còn
tranh luận, riêng Việt Nam thuế má tăng vọt thì không
biết đánh vào ai, nhưng tư nhân và lao động chết sớm
còn quan lại quyền chức và giai cấp đặc quyền… lại
sướng. Đây có lẽ là lý do khiến nhà cầm quyền Bắc
Kinh cho phép dịch nguyên văn tác phẩm của Piketty và tiếp
đón ông như Karl Marx đầu thai.
Nhưng
phân tích của Piketty không phải là thiếu hợp lý và có
thể áp dụng ngay cả các nước đang phát triển. Thí dụ
phần trên về Việt Nam cho thấy tình trạng chênh lệch
giàu nghèo chẳng những tăng vọt mà còn được cơ chế
hóa: giả sử con Thủ tướng và con dân có mức độ
thông minh và chịu khó làm việc giống nhau nhưng con Thủ
tướng đi du học Âu-Mỹ trong lúc con dân học trường
Việt, nếu sau này đặt trên cơ sở nhân tài (cộng thêm
quan hệ tốt) thì con Thủ tướng chắc chắn phải được
trọng dụng hơn. Thế là “con vua thì lại làm vua, con
sãi ở chùa lại quét lá đa”, xã hội mất đi tính năng
động trong lúc dòng dõi thế tục được hợp thức và
hợp lý hóa theo kiểu “meritocracy” của Trung Quốc hiện
nay. Cho nên phải chọn cha mẹ mà đầu thai.
Tác
phẩm của Piketty dài, tuy viết dễ hiểu nhưng quá nhiều
phân tích nên đọc cũng hơi chán, nếu tìm được quyển
rút ngắn (abridged version) chắc tạm đủ. Điều đáng nói
nơi đây là tại Âu-Mỹ có môi trường để trình bày và
tranh luận những quan điểm khác biệt và quan trọng,
trong khi ở Việt Nam xin đừng áp dụng lý thuyết kinh tế
nào mà mình chưa thấu hiểu để sau này lãnh đạo phải
thú nhận rồi trăm năm nữa cũng chẳng biết đi về đâu!
©
Đàn Chim Việt
No comments:
Post a Comment