Posted
on Nov 13, 2014
Trong
tiếng Anh, để mô tả các thể chế chính trị, những từ
kết thúc bằng “-ocracy” thường được sử dụng. Bộ
phận đứng trước “-ocracy” trong những từ này sẽ mô
tả cội nguồn của quyền lực trong các thể chế đó.
Chẳng hạn, một nền chuyên chế, hay “autocracy”, là
thể chế chính trị mà ý chí của ông vua quyết định
tất cả. Một nền tinh hoa trị, hay “aristocracy”, là
chính thể mà quyền lực nằm trong tay một nhóm nhỏ
những người sở hữu các phẩm chất đáng kính trọng
và ghen tị nhất trong xã hội, hay còn gọi là thiểu số
tinh hoa. Một chế độ thần quyền, hay “theocracy”, là
chính thể mà kẻ cầm quyền tối cao là những quan niệm
xã hội về Thượng đế và ý muốn của ngài. Vì “ý
muốn của Thượng đế” thường chỉ được truyền đạt
cho xã hội qua một số kênh trung gian hữu hạn, chẳng
hạn như giới thầy tu, các chế độ thần quyền thường
dễ dàng bị chuyển thành “hierocracy”, hay chế độ mà
quyền lực tập trung trong tay giới tăng lữ. “Bureaucracy”,
hay chế độ quan liêu, là chính thể trao quyền lực tối
hậu cho các công chức trong chính phủ. Trong mỗi trường
hợp kể trên, cái tên của chính thể sẽ xác định cơ
quan có quyền tuyên bố với xã hội rằng cái gì là được
phép và cái gì không được phép.
Một
nền dân chủ, hay “democracy”, là chính thể mà quyền
lực tối thượng nằm trong tay “demos” – tức nhân
dân. Tuy vậy, đám đông dân chúng sẽ không thể biểu
đạt ý chí của mình và quản trị quốc gia nếu không
được tổ chức đúng đắn. Vì mục đích chính trị,
tùy từng trường hợp, người ta lại thường loại trừ
phụ nữ, trẻ nhỏ, dân nhập cư, nô lệ, tội phạm,
người nghèo… ra khỏi cái khối gọi là “nhân dân”.
Vì vậy,”nhân dân” chỉ đồng nghĩa với một bộ phận
xác định trong dân số chứ chưa bao giờ ám chỉ toàn bộ
dân số. Hơn nữa, về mặt chuyên môn thì trong bất kì
nhà nước hiện đại nào, “nhân dân” thậm chí cũng
không phải là toàn bộ khối cử tri, mà chỉ đồng nghĩa
với một bộ phận cử tri giới hạn. Nếu một cây bút
phẫn nộ trước sự phân biệt giai cấp, thì trong tác
phẩm, ông sẽ nhắc lại tất cả những công thức về
“nhân dân” đang phổ biến trong hiện tại, rồi tiết
lộ bằng bối cảnh câu chuyện rằng ông phân biệt những
người dân thường như nông dân, thợ thủ công và người
thất học với những người giàu, người có học vấn,
người được đào tạo chuyên nghiệp, chủ ngân hàng
hoặc thương nhân.
Tuy
vậy, những tín điều về dân quyền và dân trí đang
thịnh hành ngày nay sẽ không có chút giá trị hiện thực
và vẻ đẹp đạo đức nào, trừ phi chúng được khẳng
định là của toàn dân, không có ngoại lệ. Những tín
điều đó không phải là phương châm hay nguyên tắc của
đời sống chính trị và công việc quản trị trong đời
thực; chúng là những tư tưởng cao đẹp về sức mạnh
văn minh mà xã hội loài người chưa thể phát huy.Như
những lý tưởng tạo cảm hứng, những động cơ giáo
dục và những ưu tiên đạo đức, chúng có giá trị
không thể đo đếm được. Nhưng chúng chỉ có tính triết
học và hàn lâm chung chung, chứ không phải là luật lệ
hằng ngày mà người ta nhất nhất tuân thủ trong những
tình huống khẩn cấp. Một khi chúng đã bị kéo xuống
lớp bùn của đời sống chính trị thực tế, và bị gọt
đẽo cho vừa với kích thước của những chiến lược
đảng chính trị, chúng sẽ trở thành một sự bịp bợm
đặc biệt nguy hiểm.
Chẳng
hạn, hiện vẫn thịnh hành một quan điểm cho rằng xã
hội loài người, khi hành động như một khối toàn thể,
sẽ gánh vác những vấn đề, truyền thống và tổ chức
của nó bằng lý trí và lương tâm, sẽ liên tục rà soát
lại những niềm tin mà nó được thừa kế, sẽ rút kinh
nghiệm từ những sai lầm ngớ ngẩn mà nó phạm phải,
sẽ vươn lên nhờ đánh giá và điều chỉnh lại những
định kiến của bản thân… Cái lý thuyết cho rằng
quyền lực nên thuộc về nhân dân, và nhân dân có đủ
trí khôn để hiểu thế nào là đúng hoàn toàn ủng hộ
giả thuyết này. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng nếu lý
thuyết “quyền lực nhân dân” chỉ đúng khi “nhân
dân” là một khối đồng thuận khổng lồ tập hợp tất
cả mọi người thuộc mọi thành phần của xã hội, kể
cả mọi phụ nữ, trẻ em, tội phạm, những người nhập
cư, hay những người không được giáo dục tử tế. Về
bản chất, lý thuyết này đòi hỏi “nhân dân” phải
tập hợp được mọi tiếng nói trong xã hội; chính tính
phổ quát này bảo đảm tính đúng đắn của “quyền
lực nhân dân”. Nếu khối đồng thuận này không bao gồm
một vài thành phần, như phụ nữ và trẻ em, thì sự bảo
đảm đó đã biến mất. Nó trở thành một chiều và bất
toàn, nó không còn là con người và xã hội. Từ vị trí
của những tư tưởng lớn để truyền cảm hứng, nó
chìm xuống vị trí của lời hô hào mà các chính đảng
sử dụng để giành giật quyền lợi cho bản thân.
Giờ
hãy thử áp dụng tín điều này theo phương châm rằng
“nhân dân” bao gồm nông dân và thợ thủ công, những
người chắc cũng phải được các triết gia và hiền
nhân gửi cho một ít óc thông thái chính trị. Bạn hãy
bảo một thanh niên rằng đừng lo lắng về việc học
làm gì, hãy cứ nhổ vào văn hóa, cứ qua đêm trên đường
phố và dùng ngày Chủ nhật để đọc tiểu thuyết năm
xu. Rồi khi ngày bầu cử đến, anh ta có thể tạo ra công
ăn việc làm cho mình, hoặc cho các bằng hữu, chỉ bằng
cách ném phiếu vào hòm. Hãy nói với anh ta rằng đây là
“nhân dân làm chủ” – một học thuyết mà chỉ cần
răm rắp làm theo, anh ta sẽ trở thành người thốt lên
lời sấm truyền của sự thông thái chính trị. Nếu ta
làm theo cách này, thì học thuyết dân chủ vĩ đại sẽ
trở thành một trong những sai lầm lố bịch và khó tưởng
tượng nhất.
Vì
vậy, trong thực tế, dân chủ có nghĩa là tất cả những
người từng được thừa nhận quyền chính trị phải
sống bình quyền, và quyền lực được trao cho nhóm tập
hợp được nhiều kẻ bình quyền hơn. Nếu nền chính
trị bị chia rẽ theo giai tầng, thì tầng lớp đông đảo
nhất sẽ được trao vị thế “nhân dân” và quyền lực
chính trị. Bởi lẽ đó, nếu chúng ta thiết lập một
nền dân chủ, rồi để các giai tầng và đám đông quần
chúng đối kháng với nhau, thì đó sẽ là sự phản bội
nghiêm trọng nhất đối với thể chế này. Nền dân chủ,
ngay từ đầu, sẽ mang trong mình nạn chia rẽ và tham lam,
ở mức độ đủ để làm hổ thẹn mọi thể chế chính
trị từng có.
Chế
độ tài phiệt là chính thể mà người giàu nắm quyền
kiểm soát xã hội. Đối với tôi mà nói, thì chuyện này
khá mới mẻ và thật sự đáng lo. Từng có nhiều quốc
gia có giới tài phiệt đông đảo, nhưng ở những nước
đó, người giàu chưa từng có sức mạnh thâu tóm và
kiểm soát như họ đang làm với chúng ta lúc này. Lịch
sử gần đây của những quốc gia văn minh Tây Âu đã cho
thấy chính thể tài phiệt đang phát triển rất vững
vàng và nhanh chóng. Những học thuyết phổ biến vài trăm
năm nay đã truyền bá cái quan điểm rằng mọi người
đều có quyền hưởng sự thoải mái, sung túc và sang
trọng. Do đó, nếu bất cứ ai được sung túc và sang
trọng, trong khi những người khác thì không, điều đó
có nghĩa là những thành quả của nền văn minh đã không
được phân chia đồng đều, và nhà nước đã thất bại
trong việc thực hiện chức năng của nó. Việc lẽ ra cần
phải làm là lấy lại quyền kiểm soát nhà nước, và
cho nó thực hiện đúng những chức năng mà nó được kì
vọng, như đảm bảo sự thoải mái và tiện nghi về mặt
vật chất cho mọi người dân.
Trong
khi đó, khi cơn khát vật chất của xã hội ngày càng
dâng cao, và ai cũng nghĩ rằng sống xa xỉ là quyền của
mọi người, người ta ngày càng bị cám dỗ bởi việc
sử dụng những cơ hội chính trị để trục lợi bất
chính. Trong hoàn cảnh đó, kẻ trục lợi sẽ không ý
thức rằng mình đang thiếu trung thực. Họ tự bào chữa:
tôi chỉ tận dụng mọi cơ hội có thể để thu lợi ích
từ bối cảnh chính trị và xã hội, chứ không hề phạm
pháp hoặc cố ý làm điều gì sai. Kiểu bào chữa này
hiện diện ở cả những người dân bán rẻ lá phiếu
trong kì bầu cử, lẫn công chức lạm dụng công quyền.Sau
cùng, nó đã tạo ra một lớp người tự bán bản thân
như một loại hàng hóa.
Nguyên
lí của chế độ tài phiệt là tiền có thể mua bất cứ
thứ gì mà người có tiền muốn, và lớp người-hàng-hóa
nói trên được tạo ra chỉ để trở hành công cụ. Thêm
vào đó, toàn bộ sự phát triển công nghiệp trong thế
giới hiện đại đã gắn kết nền công nghiệp với
quyền lực chính trị, qua những vấn đề của các công
ty cổ phần, tập đoàn, nhượng quyền thương hiệu, hợp
đồng công cộng…, theo những cách mới mẻ hơn và tầm
vóc lớn hơn. Cũng cần lưu ý rằng những phương pháp tự
động và phi cá nhân của nền công nghiệp hiện đại,
và thực tế rằng những nhà quản trị doanh nghiệp ngày
nay thường là chỉ là người đại diện bán ủy thác
của người nắm vốn, đã tạo nên một thứ lương tâm
tập đoàn. Thời xưa, một người La Mã tham vọng từng
mua sự nghiệp của mình bằng cách hối lội từ mọi
thẩm phán cấp thấp cho đến tòa tổng lãnh sự, tới
khi ông được nắm một tỉnh trong tay, nơi mà tiền tham
nhũng thu được đủ lớn để giúp ông vừa trả nợ và
bù đắp những khoản “đầu tư” ban đầu, vừa xây
dựng cho mình một gia tài lớn. Các nhà tài phiệt hiện
đại mua sự thuận lợi cho mình thông qua những lá phiếu
và các cơ quan lập pháp, trong niềm tin rằng quyền lực
thu được sẽ giúp họ bù đắp mọi phí tổn và mang lại
nhiều thặng dư.
Khi
đề cập đến sự tham lam của các nhà tài phiệt và
việc người dân tự bán rẻ mình, tôi không muốn những
lực lượng và xu hướng trong bài bị hiểu theo lối
phóng đại.Tuy vậy, tôi coi chế độ tài phiệt là hình
thức bẩn thỉu và hèn hạ nhất của quyền lực chính
trị mà chúng ta từng biết cho tới nay. Động cơ, cách
vận hành, luật lệ và hình phạt của nó sẽ mang đến
sự thối nát toàn diện cho mọi tổ chức chịu trách
nhiệm duy trì và bảo vệ xã hội. Cần nhận phải nhận
ra nó là gì, trong tinh thần và xu hướng của nó, từ khi
có còn là một mầm non, chứ không phải khi nó đã cắm
rễ sâu và và sinh trưởng xanh tốt.
Sau
đó, để phân tích sâu hơn về chế độ tài phiệt,
chúng ta cần ý thức rõ một sự khác biệt quan trọng.
Chế độ tài phiệt phải được phân biệt một cách cẩn
thận với “quyền lực tư bản”. Những lời phê phán
thiếu cân nhắc đối với tư bản, sự độc quyền và
niềm tin, những thứ mà chúng ta phải nghe rất nhiều,
như tôi trình bày trong phần tiếp theo, thực ra giúp ích
cho chế độ tài phiệt.
No comments:
Post a Comment