Friday, February 8, 2019

NGÀY XUÂN NGHE CHƠI VÀI CÂU HÁT XẨM (S.T.T.D. Tưởng Năng Tiến)




07/02/2019

Bà con kiều bào luôn là một phần máu thịt không thể tách rời của Tổ quốc

Mong kiều bào tích cực đóng góp xây dựng đất nước.

*
Lấy cớ tết nhất, tôi “hú” cả đống bạn bè tụ tập – uống sương sương vài chai – cho đỡ lạnh lòng viễn xứ. Sau khi cạn mấy ly đầy, và đầy vài ly cạn (rồi lại cạn mấy ly đầy nữa) thì chúng tôi đều “chợt thấy vui như trẻ thơ” – dù tất cả đã ngoài sáu muơi ráo trọi!

Xong “Ly Rượu Mừng” của Phạm Đình Chương, cả đám tiếp tục đồng ca bài “Thằng Cuội.” Bản nhạc mà có lẽ đứa bé nào sinh trưởng ở miền Nam (vào thập niên 1950 - 60) cũng thuộc. Bài đồng dao này được nhạc sĩ Lê Thương viết bằng những lời lẽ rất tân kỳ, dù nền tân nhạc Việt Nam – ở thời điểm đó – còn ở giai đoạn phôi thai.

Bóng trăng trắng ngà có cây đa to
Có thằng Cuội già ôm một mối mơ …
Lặng nghe trăng gió hỏi nhau
Chị kia quê quán ở đâu
Gió không có nhà
Gió bay muôn phương
Biền biệt chẳng ngừng
Trên trời nước ta…”
Các con dế mèn suốt trong đêm khuya
Hát xẩm không tiền nên nghèo xác xơ

 
Hát Bộ, hát Chèo, hát Cô Đầu, hát Cải Lương, hát Hồ Quảng… để kiếm sống ra sao thì tôi không biết. Chớ còn hát xẩm thì dù có được (cho) tiền, vẫn nghèo xơ xác.
 
Thuở ấu thơ, thỉnh thoảng, tôi cũng nhìn thấy những người hát xẩm. Họ thường ngồi ở cầu thang chợ Đà Lạt – vào lúc chợ đông – gẩy những tiếng đàn buồn bã, và hát những bài ca u uất, giữa sự hờ hững của “ông đi qua bà đi lại.”
 
Đó là chuyện hát xẩm miền Nam, trong trí nhớ non nớt của tôi, khi đất nước đã hoàn toàn chia cắt. Ở miền Bắc, sinh hoạt của một số những người hát xẩm – có lúc – hoàn toàn khác hẳn:
 
“Khi hoà bình mới lập lại 1954, ông (nhà văn Thanh Tịnh) được giao phụ trách một đoàn xẩm, gồm 23 anh chị em, phần lớn là mắt kém, đi về hướng Bùi Chu – Phát Diệm, lấy lời ca tiếng hát dân gian để động viên đồng bào đừng nghe theo những lời dụ dỗ di cư của kẻ địch mà hãy ở lại với quê hương.” (Vương Trí Nhàn. Cây Bút Đời Người. Saigon: Phương Nam, 2002).
 
Quê hương, tuy thế, xem ra cũng chả “ưu ái” gì lắm với những người ở lại. Ngay cả Thanh Tịnh (một nhà văn tăm tiếng, biên tập viên của tạp chí Văn Nghệ, sĩ quan cao cấp của Quân Đội Nhân Dân Việt Nam Anh Hùng) cũng sống dở giữa lòng cách mạng:
 
“Ở vào cái tuổi chưa đầy sáu muơi mà Thanh Tịnh những năm đó trông đã già lắm, già hơn tuổi rất nhiều… muốn biết Thanh Tịnh đơn độc thế nào phải nhìn những lúc ông đi bộ. Trên đường Phan Đình Phùng, duới những hàng sấu, cũng già cả mệt mỏi, ông bước đi như không thể dừng lại nên phải bước, khuôn mặt đăm chiêu, dáng điệu đờ đẫn.” (Vương T.N. sđd 181).
 
Với hàng triệu người di cư thì hậu vận cũng không sáng sủa gì hơn. Họ bị bắt lại, trọn đám, sau ngày miền Nam được hoàn toàn giải phóng! Từ đây, Nam / Bắc hoà lời ca. Một bản trường ca rất khó hát nên nhiều kẻ đã liều mạng đâm xầm ra biển, hay ù té bỏ chạy thục mạng qua biên giới xứ người.

Họ thuộc thành phần “bất hảo, cặn bã của xã hội, ma cô, đĩ điếm, trộm cướp, trây lười lao động, ngại khó ngại khổ, chạy theo bơ thừa sữa cặn… ” – theo như nguyên văn lời giải thích của giới truyền thông trong nước với dư luận thế giới,  và với lũ cột đèn (còn) ở lại.
 
Không hiểu đám người này đã hành nghề ma cô, đĩ điếm và tổ chức trộm cướp ra sao – nơi đất khách – nhưng số lượng bơ thừa sữa cặn mà họ gửi về cố hương đã cứu toàn dân, cũng như toàn Đảng, thoát chết (đói) nhiều phen. Từ đó, Bộ Chính Trị bèn đổi mới tư duy, và cũng bắt đầu… đổi giọng. Chỉ qua một đêm, tiếng Việt (bỗng) có thêm nhiều cụm từ rất mới và (nghe) rất thân thương: khúc ruột xa ngàn dặm, sứ giả Lạc Hồng, thành phần không thể thiếu trong đại gia đình dân tộc …  Bộ Ngoại Giao VN cũng có thêm một vị Thứ Trưởng, Chủ Nhiệm Ủy Ban Người Việt Ở Nước Ngoài.

Nếu bỏ những chức danh vừa kể, cho nó đỡ rườm rà, và nói trắng phớ ra thì đây chỉ là một đoàn hát xẩm tân thời. Nhiệm vụ mới không phải là động viên người dân ở lại (vì chúng đã lỡ đi thoát rồi) mà là kêu gọi họ đừng nỡ ngoảnh mặt đi luôn, tội lắm!

Ảnh lấy từ trang Dân Luận

Nói cho chính xác thì trước khi cái “đoàn hát xẩm” này được chính thức thành lập, Chính Quyền Cách Mạng cũng đã từng có những động thái để hoà giải với cộng đồng người Việt tị nạn, cụ thể là chuyến công du Hoa Kỳ (vào năm 2004) của bà Phó Chủ Nhiệm Ủy Ban Đối ngoại Quốc Hội – Tôn Nữ Thị Ninh.

Chỉ tiếc có điều là cái giọng hát xẩm của bà Ninh không được dễ nghe cho lắm:

- Trong gia đình chúng tôi có những đứa con, cháu hỗn láo, bướng bỉnh thì để chúng tôi đóng cửa lại trừng trị chúng nó, dĩ nhiên là trừng trị theo cách của chúng tôi. Các anh hàng xóm đừng có mà gõ cửa đòi xen vào chuyện riêng của gia đình chúng tôi.

 Mình là thế thượng phong của nguời chiến thắng, mình cần chủ động, người ta không thể chủ động được do mặc cảm, cũng không thể yêu cầu ngươi ta đi trước, họ đứng ở vị trí không thuận lợi trong tiến trình lịch sử.
 
Đã ngồi ngửa nón giữa chợ đời mà còn ca ông ổng (‘mình là thế thượng phong”) như thế thì có mà ăn cứt. Thứ Trưởng Nguyễn Thanh Sơn – Chủ Nhiệm Ủy Ban Người Việt Ở Nước Ngoài – cũng thế, cũng muốn kiếm ăn nhưng nói năng cứ như như là cắn vào mông thiên hạ vậy:

-         So sánh dân chủ ở Mỹ với dân chủ ở Việt Nam thì chưa biết ở đâu hơn ở đâu.

-         Trong rất nhiều người đã về Việt Nam, chúng tôi đã gặp, và chúng tôi biết chứ, rất nhiều người tham gia những cuộc biểu tình trước đây từ những cuộc biểu tình...phản đối chuyến đi thăm của nguyên chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết sang Hoa Kỳ năm 2007, trong số họ rất nhiều người đã về Việt Nam và chúng tôi gặp, chúng tôi biết. Chúng tôi có hỏi một vài người tại sao lại tham gia như thế làm gì thì họ bảo là thực tế nói thật là cũng đi để kiếm thêm vài ba chục đô la vì họ phát tiền, họ cho tiền thì tại sao không đi.
 
Với cái đám “bất hảo, cặn bã của xã hội, ma cô, đĩ điếm, trộm cướp, trây lười lao động, ngại khó ngại khổ, chạy theo bơ thừa sữa cặn” và sẵn sàng đi biểu tình chỉ “để kiếm thêm vài ba chục đô la” mà Đảng và Nhà Nước mong họ “tích cực đóng góp xây dựng đất nước” thì quả là ước mong rất đỗi viển vông. Cũng viển vông y như dự tính huy động tiền và vàng của người dân trong nước vậy.

Túng quá nên hoá quẫn chăng?






No comments: