Wednesday, February 13, 2019

CHIẾN TRANH VIỆT - TRUNG 40 NĂM [1979-2019] NHÌN LẠI (Nguyễn Tuấn Khoa)




Nguyễn Tuấn Khoa
13/02/2019

Diễn Biến

Rạng sáng 17/02/1979, Trung Quốc phát lệnh tấn công Việt Nam. 600 ngàn quân TQ  dàn trải trên 1,000 Km biên giới. Ban đầu TQ dùng chiến thuật thí quân “biển lửa-biển người” nên tiến sâu hơn 10 km như vào chốn không người. Sau đó vì địa hình hiểm trở và tiếp vận kém (dùng lừa vận chuyển) nên TQ khó triển khai cấp sư đoàn.

Trong 10 ngày đầu, do chưa chuyển quân kịp nên VN chỉ sử dụng lực lượng tự vệ địa phương và vài sư đoàn chủ lực gồm 70.000 người để chống trả 600 ngàn quân TQ. Do lực lượng tinh nhuệ, hệ thống phòng thủ tại các hang động ở các điểm cao nên VN tạo được thế trận cân bằng.

Ngày 27/02/1979 TQ tập trung đánh Lạng Sơn, chiến sự khốc liệt để rồi chiều ngày 04/03 TQ vào Lạng Sơn, đe dọa Hà Nội.

Ngày 03/03/1979, QĐ I chuyển đến Lạng Sơn sau nhiều ngày di chuyển từ Kampuchea bằng máy bay vận tải hạng nặng AN-12 của Liên Xô. Các lực lượng không quân hùng hậu với pháo binh được Liên Xô khẩn cấp viện trợ cũng được điều tới Lạng Sơn, báo trước một trận chiến khốc liệt. QĐ II đang trên đường ra Bắc từ chiến trường Kampuchea.

Ngày 05/03/1979 Bắc Kinh tuyên bố “chiến thắng”, “hoàn thành mục tiêu chiến tranh” và rút quân.

Ngày 07/03 VN tuyên bố cho phép TQ rút quân. Trên đường rút quân, TQ đã tàn phá tất cả những gì chúng gặp và tệ hơn gây ra thảm sát thường dân tại Đổng Chúc- Cao Bằng
Ngày 16/03/1979 TQ tuyên bố hoàn thành việc rút quân.

Ai là bên thắng trận? 

Sau khi TQ rút quân, cả hai phía đều tuyên bố thắng trận. Khi 2 bậc thầy về bưng bít đánh nhau thì rất khó cho thế giới có được con số thật về thương vong và tử vong. Theo số liệu của các nhà sử học quốc tế thì: tỷ lệ thương vong/tử vong phía TQ là 60 ngàn/25 ngàn, tiêu tốn 1.3 tỷ USD trong khi đó tỷ lệ phía VN là 20 ngàn/10 ngàn.

Ngày 16/03/1979, tại hội nghị Quân Chính Đặng Tiểu Bình chỉ trích tướng lãnh TQ: “Đánh lần này vũ khí, quân số đều gấp nhiều lần Việt Nam. Ở Cao Bằng gấp 5-6 lần. Ở Lạng Sơn, Lào Cai gấp 6-7 lần ” nhưng “… thương vong của chúng ta gấp 4 lần so với Việt Nam. Uy tín của chúng ta đã bị hủy diệt”.

Nguyên nhân cuộc chiến

Việc các quốc gia CS, VN, Kampuchea, TQ, đánh lẫn nhau cho thấy ý thức hệ quốc tế cộng sản chỉ là vỏ bọc để nước lớn thôn tính nước nhỏ. Điểm lại, có 3 nguyên nhân quan trọng dẫn đến cuộc chiến Việt-Trung:

Chủ quyền Hoàng Sa & Trường Sa
Ngày 14.9.1958, VN đã bị mắc bẫy TQ dẫn đến việc Thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi công hàm nhìn nhận chủ quyền Trung Quốc trên quần đảo Trường Sa. Đây là một cơ sở pháp lý quan trọng để TQ nuôi mộng thôn tính cả biển Đông sau này.

Năm 1972, Nixon đã bán đứng đồng minh VNCH trong chyến viếng thăm Bắc kinh để rồi ngày 18/01/1974 TQ đánh chiếm Hoàng Sa dưới sự làm ngơ của Đệ Thất Hạm Đội của Mỹ gần đó. VNCS, cũng giống như VNCH, do mắc nợ nên không thể lên án đồng minh bất lương.

Ngày 05/04/1975 Hải Quân Bắc Việt, nhanh tay hơn TQ, đã chiếm Trường Sa từ VNCH và ngày 07/05/1975 công bố bản đồ VN có cả Trường Sa và Hoàng Sa trên báo SGGP. Đây là một bước đi cứng rắn của Hà Nội sau một thời gian dài im lặng.

Đối với TQ, việc chiếm Trường Sa, VN đã vi phạm công hàm 1958. Đây được xem là một nguyên nhân quan trọng của chiến tranh 1979.

Vấn đề Hoa Kiều Chợ Lớn: chiếm Sài Gòn 1 tháng, Hà Nội đã ép Hoa Kiều Chợ Lớn nhập quốc tịch để đối lấy phiếu lương thực.
Ngày 24/03/1978, Hà Nội cho bao vây Chợ Lớn, kiểm kê kể cả từng hiệu buôn nhỏ. Trong đợt càn quét này, Hà Nội đã tịch thu khoảng 8 tấn vàng và quốc hữu hóa 30,000 cơ sở sản xuất và thương mại. Chưa dừng lại ở đó, ngày 03/05/1978, Hà Nội cho đổi tiền, tối đa cho mỗi gia đình là 100 Đồng. Chỉ phút chốc, tiền VNCH mà Hoa Kiều đang giữ trở thành rác và họ bị phá sản!

Bắc Kinh nổi giận, quyết định ngưng viện trợ ngay lập tức 72 dự án đang hoạt động tại VN, kêu gọi người Hoa trong cả nước về TQ và thậm chí đòi đem tàu vào tận Cảng Sài Gòn đón. Hơn 250 ngàn người đã trở về TQ, một số khác đi theo dạng thuyền nhân do chính quyền tổ chức lén lút, một số ít khác đi kinh tế mới.

Việt Nam đánh Kampuchia: Đây là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến chiến tranh Việt-Trung 1979.
Việc đánh Kampuchia đặt TQ vào thế mất an toàn biên giới mà lần đầu gặp phải từ năm 1949: phía Bắc có “bá quyền” Liên Xô và phía Nam là “tiểu bá quyền” Việt Nam với âm mưu lập liên bang Đông Dương. Tuy nhiên, những cuộc tiếp xúc sau đó như đổ dầu vào lửa.

Ngày 07/06/1979, Võ Nguyên Giáp cùng một đoàn quân sự-ngoại giao ghé Bắc Kinh sau chuyến thăm Mat-xco-va. TQ không đón tại sân bay, không có tiêc chiêu đãi, cho các quan chức hạng II tiếp. Tướng Giáp trả đũa bằng cách tiết lộ rằng VN đang cầm tù các cố vấn TQ vào tháng 5/1979 trong một cuộc tấn công Kampuchia. Sau đó, báo Nhân Dân đăng bài Giáp thăm TQ và để thêm hình ảnh 1000 năm VN chống TQ tại bảo tàng. Một ngày sau, Phạm Văn Đồng ghé Bắc Kinh, Lý Tiên Niệm trao cho ông Đồng một kháng thư phàn nàn về VN tấn công Trường Sa 1975, VN đàn áp người Hoa Chợ Lớn. Hai bên lớn tiếng với nhau.

Việt Nam thời hậu chiến 1979

Sau khi tuyên bố rút quân 16/03/1979, TQ vẫn còn chiếm đóng 60 Km2 . Chiến tranh biên giới vẫn còn tiếp diễn 10 năm sau đó với ít nhất 6 trận đánh cấp sư đoàn, gây tổn thất không kém cuộc chiến năm 1979. Chiến tranh Việt-Trung chỉ thực sự chấm dứt khi các quốc gia CS ở Đông Âu sụp đổ. Nhận thấy nguy cơ lan đến VN, một đoàn lãnh đạo VN cao nhất sang Trung Quốc cầu hòa, chấp nhận các điều kiện tiên quyết và đi đến ký Mật Ước Thành Đô 1990. VN đã tự mình phá hỏng cơ hội thoát Trung và đặt mình vào thế yếu trong quan hệ vơi TQ!

Giống như hình thức triều cống, trong hai năm liên tiếp 1999, 2000, VN đã ký 2 hiệp định, nhường cho TQ Ải Nam Quan và nửa thác Bản Giốc. Đau xót hơn, VN bị TQ đối xử như một kẻ bại trận khi lần lượt dâng tiếp Bauxite Tân Rai, Formosa, Đặc Khu Kinh Tế 99 năm. VN chịu nhục khi bất lực nhìn TQ cắm giàn khoan 981 trong hải phận VN, mời kẻ xâm lược Tập Cận Bình đến giáo huấn các đại biểu quốc hội bù nhìn, rút giàn khoan chuẩn bị khai thác phải chịu đền bù cho Repsom 2 tỷ USD…

So với giới lãnh đạo thời Lê Duẫn, những lãnh đạo thời nay tỏ ra bạc nhược trước kẻ thù. Họ đang đặt tổ quốc vào tình thế nguy ngập. Tất cả những người này không bản lĩnh chính trị, không có kiến thức ngoại giao tối thiểu thậm chí không có tư cách. Thế lực nào, trong hay ngoài, đã đặt họ vào vị trí cao nhất nước?

Trong lịch sử, chưa bao giờ TQ có cơ hội lớn để thôn tính VN như hiện nay.

---------------------

Tham khảo:

Brother Enemy: the war after the war- Nayan Chanda-1988- Publisher New York Macmillan

VIệt Nam, 1945-1975: Chiến Tranh, Tỵ Nạn và Bài Học Lịch Sử- Lê Xuân Khoa- 2004- NXB Tiên Rồng




No comments: