Hoàng Hải
Vân
Đăng
lúc: 29.10.2016 15:21
Cả
nước đang hướng về đồng bào bị hoạn nạn do thiên tai ở miền Trung. Một lần nữa,
người Việt chúng ta lại thể hiện truyền thống tốt đẹp của dân tộc “lá lành đùm
lá rách”.
Việc
cứu giúp và kêu gọi người khác cùng cứu giúp đồng bào bị hoạn nạn, có người chỉ
vì tình thương, có người vì việc nghĩa phải làm, có người muốn để phước lại cho
con cháu, có người vì danh tiếng, vì để quảng bá thương hiệu, để khuếch trương
các hoạt động với nhiều mục đích khác nhau, v.v…, dù với động cơ gì thì cũng
đáng quý, đáng được trân trọng. Không nên cao đạo xét nét động cơ của những người
làm từ thiện.
Làm
từ thiện, nhà Phật gọi là bố thí. Theo nghĩa Hán-Việt, bố là ban phát rộng rãi,
thí là cho. Dùng từ “bố thí” hơi khó nghe, nó có vẻ như bề trên, kẻ cả ban phát
sự dư thừa cho kẻ dưới. Tuy nhiên, từ này gốc tiếng Phạn là dāna,
có nghĩa là sự chia sẻ, hiến tặng vật chất, năng lực hoặc trí huệ cho người
khác, là một trong sáu hạnh cao đẹp của bồ tát. Theo nhà Phật thì bố thí có ba
cấp độ: tài thí (hiến tặng của cải), pháp thí (chỉ cho con đường để tự cứu) và
vô úy thí (hiến tặng sự không sợ hãi), trong đó vô úy thí là cấp độ cao nhất của
hạnh bố thí.
Chia
ra ba cấp độ không phải là hạ thấp đức hạnh của cấp độ trước và đề cao đức hạnh
của cấp độ sau, mà để nói lên sự dễ hoặc khó của các cấp độ mà thôi. Cho tặng của
cải là rất đáng quý và ai cũng có thể làm được, lá lành đùm lá rách, thậm chí
là rách cũng có thể đùm lá nát. Chỉ cho con đường để tự cứu cũng đáng quý tương
tự nhưng không phải ai cũng làm được, phải là người “có học”, có kinh nghiệm và
thông tuệ mới làm được. Còn hiến tặng sự không sợ hãi, đương nhiên là rất đáng
quý, nhưng ngoài sự thông tuệ còn phải có bản lĩnh, có sức mạnh che chở, thậm
chí có quyền uy mới có thể làm nổi.
Trở
lại cuộc cứu giúp đồng bào bị thiên tai. Đông đảo người dân đang thực hiện “tài
thí” để giảm bớt cảnh đói khổ cho đồng bào mình, nhưng thiên tai cứ tiếp diễn
năm này qua năm khác, lại diễn ra “tài thí”, triền miên bất tận. Còn “pháp
thí”, ở đây là hướng dẫn cho đồng bào mình cách ăn ở thuận với thiên nhiên, biết
cách chủ động đề phòng để giảm đến mức thấp nhất rủi ro trong bão lũ, tuy cũng
có thực hiện nhưng không được nhiều và ít hiệu quả. Riêng về “vô úy thí”,
ai có thể hiến tặng cho người dân sự không sợ hãi, ai có thể tạo ra được sự an
lành cho người dân trước thiên tai ? Đó chỉ có thể là Nhà nước.
Dân
tộc ta sống trên mảnh đất này, hàng ngàn năm nay đã thích nghi với thiên nhiên
mà định cư ở những khu vực an toàn. Dân miền Trung sống trên dải đất phía dưới
là biển, phía trên là núi rừng bao bọc. Dù thiên nhiên có thịnh nộ tới đâu thì
người dân nơi đây cũng vẫn được thiên nhiên che chở, họ vẫn tồn tại và sinh con
đẻ cái bao đời nay. Là vì họ biết bảo vệ thiên nhiên, họ lao động sản xuất làm
ra của cải để sinh sống nhưng không xâm phạm đến thiên nhiên, họ chỉ nhận phần
khiêm tốn mà thiên nhiên ban tặng. Trừ một số năm thiên tai đột biến, nhìn
chung ngày xưa bão lũ không gây hại trầm trọng cho cuộc sống người dân, ít diễn
ra cảnh màn trời chiếu đất, ít có người chết như mấy chục năm gần đây (ngoài những
trường hợp bất cẩn). Chính rừng, sông suối và thảm thực vật hiền hòa đã bảo vệ
cuộc sống yên lành cho người dân trước trước mọi biến động của thiên nhiên.
Ngày
nay, rừng nguyên sinh ở miền Trung đã gần như bị phá sạch. Núi non chỉ còn trơ
sỏi đá, nhiều thảm thực vật biến thành sa mạc. Sông suối bị nắn dòng làm thủy
điện, bị đào bới để khai thác khoáng sản vô tội vạ. Không còn rừng, không còn sự
thuận dòng của sông suối thì lấy gì mà điều hòa lũ lụt. Lũ lụt ngày càng trở
nên trầm trọng và hạn hán kéo dài chính là sự trả đũa của thiên nhiên. Nhưng
oan nghiệt là chỉ có những người dân miền Trung nghèo khó gánh chịu sự trả đũa
đó, còn những kẻ hưởng lợi lớn nhất từ việc phá rừng và tàn phá thiên nhiên thì
bình an vô sự.
Thủ
tướng Nguyễn Xuân Phúc, không lâu sau khi nhậm chức đã ra lệnh đóng cửa rừng
trong cả nước. Quyết định này là vô cùng cần thiết nhưng quá muộn và chưa đủ.
Vườn
nhà tôi là một mảnh đất trước đây là rừng nguyên sinh bị người ta tàn phá chỉ
còn cát trắng. Tôi đã cố gắng phục hồi những mầm cây còn sót lại. Có 4 cây sến
đâm chồi và tôi dưỡng tới 5 năm nhưng chỉ to bằng bắp tay. Thời gian để những
cây sến đó thành những cây gỗ mà người ta đã chặt phải mất nhiều chục năm nữa.
Nói như vậy để thấy rằng, khi rừng đã bị phá thì gần như không thể phục hồi, muốn
phục hồi phải mất vài thế hệ con người, trong điều kiện rừng phải bị đóng cửa
tuyệt đối.
Đóng
cửa rừng cũng chưa đủ. Bắt gỗ lậu, thậm chí bỏ tù bọn phá rừng và tiêu thụ gỗ lậu
cũng chưa đủ. Phải cấm sử dụng gỗ rừng vào việc xây dựng các công trình dân dụng,
chỉ cho phép sử dụng các loại gỗ rừng trồng và các loại gỗ có thể nhanh chóng
tái sinh. Không có nơi tiêu thụ thì mới mong ngăn chặn được nạn phá rừng. Cần
biết, ở Trung Quốc người ta có những biện pháp tương đối có hiệu quả nhằm ngăn
chặn nạn phá rừng, nhưng lại không cấm triệt để việc dùng gỗ rừng trong xây dựng
nên đã và đang xảy ra tình trạng “xuất khẩu phá rừng” từ Trung Quốc, nghĩa là
Trung Quốc biến thành thị trường tiêu thụ gỗ do phá rừng không phải của họ mà của
các nước khác. Đối với việc phá rừng và nắn dòng sông suối để làm thủy điện,
đến lúc phải chấm dứt, dù đã quá muộn.
Dù
phải mất nhiều thế hệ mới khôi phục lại rừng, nhưng nếu không bắt đầu ngay từ
bây giờ thì rừng sẽ bị hủy diệt mãi mãi. Nhà nước làm ơn nhanh chóng “vô úy thí”
cho dân đi. Chỉ có bảo vệ được rừng, khôi phục lại sự hài hòa của thiên nhiên
thì mới có thể hiến tặng cho dân sự không sợ hãi.
HOÀNG
HẢI VÂN
No comments:
Post a Comment