Tóm Lược: Tu chính án thứ nhất trong Hiến
pháp Hoa Kỳ liên hệ đến những tự do căn bản nhất của công dân trong
một quốc gia, gồm có: tôn giáo, ngôn luận, báo chí, hội họp, và
biểu tình. Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ, qua nhiều phán quyết quan trọng
trong hai trăm năm qua, dần dà nới rộng và bảo vệ quyền tự do ngôn
luận của dân trong việc chống đối chính quyền trên các khía cạnh về
chỉ trích chính quyền, xúi giục bạo động, lật đổ chính quyền, lời
lẽ công kích, an ninh quốc gia, ngôn ngữ tượng trưng trong học đường,
hội họp ôn hòa trong trật tự, và bôi nhọ và phỉ báng. Chế độ cộng
sản tại Việt Nam không biết hoặc cố tình không biết những quy tắc căn
bản về tự do ngôn luận trên thế giới, điển hình là Tu chính án thứ
nhất trong Hiến pháp Hoa Kỳ, đặt ra những luật lệ mơ hồ với mục
đích tùy nghi áp dụng trong việc đàn áp người dân và bóp nghẹt tự
do ngôn luận.
*
Tu chính án thứ nhất (the First Amendment),
thường được gọi tu chính án về tự do ngôn luận (freedom of speech), có
lẽ là tu chính án quan trọng nhất trong các tu chính án của Hiến
Pháp Hoa Kỳ vì nó bảo vệ quyền căn bản nhất của công dân trong một
quốc gia và của con người: quyền tự do ngôn luận; tự do phát biểu ý
kiến; hoặc tự do diễn tả, biểu hiện ý tưởng; quyền tập hợp ôn hòa.
Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ (TCPVHK), qua nhiều phán quyết quan trọng
trong hai trăm năm qua, dần dà nới rộng quyền tự do ngôn luận trên
nhiều khía cạnh, đặc biệt bảo vệ quyền tự do ngôn luận của người
dân trong việc chống đối chính quyền.
Tại Việt Nam, tự do ngôn luận là quyền bị
nhóm cầm quyền cộng sản (NCQCS) chà đạp nhiều nhất. NCQCS tại Việt
Nam đặt ra nhiều bộ luật nhằm kiểm soát mọi hành vi của người dân.
Nhiều luật lệ cố tình mơ hồ hoặc có phạm vi bao quát, dẫn đến việc
nhân viên thi hành tùy nghi áp dụng và tòa án tùy nghi xét xử. Đặc
biệt, những luật dính líu đến nhân quyền, thí dụ quyền tự do ngôn
luận, thường được hóa trang để chà đạp các quyền này dưới các tội
danh khác trong Bộ Luật Hình Sự (BLHS), từ "tội tuyên truyền chống
Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam" (điều 88), "tội lợi dụng
các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp
của tổ chức, công dân (điều 258), cho tới "tội gây rối trật tự công cộng"
(điều 245).
Các vụ bắt bớ, truy tố, và giam cầm các nhà
hoạt động cho tự do dân chủ gần đây chứng minh việc này. Nguyễn Đình
Ngọc (Nguyễn Ngọc Già) và Nguyễn Ngọc Như Quỳnh (Mẹ Nấm) là hai
người bị bắt giam vì họ thực hiện quyền tự do ngôn luận một cách ôn
hòa, viết các bài chỉ trích NCQCS trên các trang mạng và trên các
phương tiện truyền thông xã hội (CTV 2016b, 2016c). Nguyễn Hữu Quốc Duy
và Nguyễn Hữu Thiên An bị giam cầm nhiều tháng chỉ vì Thiên An bị nghi vấn
xịt sơn 4 chữ "ĐMCS" lên trước tường của trụ sở công an, và Quốc
Duy bày tỏ quan điểm ủng hộ em mình, Thiên An, trên facebook cá nhân (Trịnh
2016). Tất cả đều bị truy tố theo Điều 88 BLHS (tlđd.).
Trong bài này, tôi không có ý định so sánh tự
do ngôn luận giữa Hoa Kỳ và Việt Nam. Tuy nhiên, như đã trình bày trong
bài trước (Cao-Đắc 2016), NCQCS tại Việt Nam thường so sánh tình trạng
nhân quyền tại Việt Nam với Hoa Kỳ, chỉ trích Hoa Kỳ, và trong vài
trường hợp, còn ngông nghênh coi chế độ cộng sản tại Việt Nam hơn cả
Hoa Kỳ trên các khía cạnh tự do dân chủ. Vì vậy, tôi viết bài này
để vạch ra sự thật cho một số người bị NCQCS lừa bịp để họ không
bị lợi dụng, và đóng góp một phần nhỏ nhoi vào tài liệu tham khảo
cho các độc giả muốn tìm hiểu thêm.
Hệ thống pháp luật tại Hoa Kỳ, tuy không hoàn
hảo, rất tôn trọng quyền người dân, nhất là quyền tự do ngôn luận.
Sự "bảo vệ hiến pháp dành cho tự do ngôn luận tại Hoa Kỳ dường
như không sánh được tại bất kỳ nơi nào trên thế giới" (Sedler
2006). Trong bảng xếp hạng về tự do báo chí năm 2016, Hoa Kỳ đứng
hạng 41 trong 180 quốc gia (Reporters 2016). Tuy cao rất xa hơn Việt Nam
(đứng hạng 175), Hoa Kỳ xếp hạng sau Phần Lan (hạng 1), Đức (hạng 16),
Gia Nã Đại (hạng 18), Úc (hạng 25). Ta nên biết tự do báo chí chỉ là
một phần của tự do ngôn luận, và trên những khía cạnh khác của tự
do ngôn luận, nhất là về phương diện chống đối chính quyền, Hoa Kỳ
có lẽ đứng hàng đầu trên thế giới. Tìm hiểu về Tu chính án thứ
nhất, nhất là các tiền lệ của các vụ án do TCPVHK phán quyết giúp
ta có một khái niệm rõ rệt về những nguyên tắc căn bản và những
luận cứ về ý nghĩa của tự do ngôn luận. Bài này sẽ chú trọng vào
những đặc điểm về tự do ngôn luận tại Hoa Kỳ để độc giả có dịp suy
gẫm về sự khác biệt giữa hai hệ thống Hoa Kỳ và Việt Nam.
A.
Những yếu tố của Tu chính án thứ nhất.
Tu chính án thứ nhất được đưa ra vào năm 1789
và phê chuẩn vào năm 1791. Nguyên văn Tu chính án này như sau:
"Quốc Hội không được làm luật tôn
trọng việc thiết lập tôn giáo, hoặc cấm cản việc thực hành tôn
giáo; hoặc thu ngắn tự do ngôn luận, hoặc tự do báo chí; hoặc quyền
người dân tập họp ôn hòa, và kiến nghị tới Chính quyền cho việc
chỉnh sửa các oan trái." ("Congress
shall make no law respecting an establishment of religion, or prohibiting the
free exercise thereof; or abridging the freedom of speech, or of the press; or
the right of the people peaceably to assemble, and to petition the Government
for a redress of grievances.") (Xem, thí dụ như, Wikipedia 2016a).
Chúng ta hãy phân tách từng nhóm chữ trong văn bản này để hiểu rõ
thêm ý nghĩa.
1.
Quốc Hội không được làm luật (Congress shall make no law):
Trong tất cả mười Tu chính án của Bản Tuyên
Bố Nhân Quyền, chỉ có Tu chính án thứ nhất dùng chủ từ "Quốc
Hội" trong "Quốc Hội không được làm luật" thay vì không
xác định chủ từ. Ta nên hiểu trong hệ thống chính quyền Hoa Kỳ, danh
từ "Quốc Hội" ("Congress") có ý nghĩa đặc biệt,
dùng để chỉ Quốc Hội liên bang, và không phải cơ quan lập pháp tiểu
bang. Ngoài ra, Quốc Hội là cơ quan lập pháp, độc lập với hành pháp
và tư pháp. Sự khác biệt này thực ra không ảnh hưởng nhiều, vì mọi
Tu chính án đều đã được TCPVHK diễn giải là áp dụng cho mọi luật
lệ, của bất cứ nhánh phân quyền nào, lập pháp, hành pháp, hay tư
pháp, và Tu chính án thứ 14 áp dụng hầu hết các quyền trong 10 Tu
chính án đầu vào mỗi tiểu bang. Nói tóm lại, câu "Quốc Hội sẽ
không làm luật" áp dụng cho mọi cơ quan chính quyền (lập pháp,
hành pháp, tư pháp) của cả tiểu bang và liên bang.
2.
Tôn trọng việc thiết lập tôn giáo, hoặc cấm cản việc thực hành tự
do tôn giáo (respecting an establishment of religion, or prohibiting the free
exercise thereof):
Phần về tôn giáo thường được coi là có hai
câu: "Câu Thiết Lập" (Establishment Clause) và "Câu Thực
Hành Tự Do" (Free Exercise Clause). Khi đi với câu trước (không làm
luật, make no law), phần này cấm cả hai việc: khuyến khích và cản
trở tôn giáo. Nói cách khác, Tu chính án thứ nhất buộc chính quyền
giữ tư thế trung dung (neutral) về vấn đề tôn giáo.
3.
Thu ngắn tự do ngôn luận, hoặc tự do báo chí (abridging the freedom of
speech, or of the press):
Từ ngữ "thu ngắn" (abridge) trong câu
này cần được đề cập. Abridge (thu ngắn) là chữ cổ. Nó có nghĩa lấy
đi, tóm tắt, cắt ngắn. Thu ngắn hàm ý không cắt bỏ hoàn toàn, mà
chỉ một phần. Do đó, "không được làm luật thu ngắn tự do ngôn
luận" có ý nghĩa rằng "phải tôn trọng tự do ngôn luận hoàn
toàn." Cho phép chính phủ thu ngắn sự phát biểu ý tưởng là cho
phép chính phủ kiểm duyệt ý tưởng, hoặc chỉ cho phát biểu "nửa
sự thật" (Collins 2008).
4.
Quyền người dân tập họp ôn hòa (the right of the people peaceably to
assemble):
Quyền tập họp ôn hòa bao gồm các hoạt động
như hội thảo, biểu tình, tuần hành, trong trật tự và ôn hòa. Quyền
người dân tập họp ôn hòa hầu như luôn luôn được bảo vệ, ngay cả khi đa
số dân muốn dìm các biểu lộ gây bực bội, khó chịu, hoặc công kích
(Hudson 2002).
5.
Kiến nghị tới Chính quyền cho việc chỉnh sửa các oan trái (to
petition the Government for a redress of grievances):
Quyền kiến nghị là quyền đòi hỏi chính
quyền các cấp chỉnh sửa sai trái. Quyền này thường không được chú
trọng đặc biệt trong hiện đại vì được coi là đương nhiên trong các
tương tác giữa dân và chính quyền. Quyền này bao gồm mọi hoạt động
như các chiến dịch viết thư, e-mail, vận động, kiện cáo, thu thập chữ
ký, phản đối và rào cản ôn hòa (Newton 2002).
B.
Các phán quyết tiền lệ của TCPVHK diễn giải Tu chính án thứ nhất:
Trong bài trước (Cao-Đắc 2016), tôi thảo luận
về tầm quan trọng của luật do tòa làm (judge-made laws). TCPVHK diễn
giải ý nghĩa của Hiến pháp, gồm các Tu chính án qua các vụ kiện
cáo, và các diễn giải này trở thành tiề̉n lệ, hoặc luật, áp dụng
cho các vụ kiện cáo sau đó. Trong phầ̉n sau đây, tôi sẽ chú trọng đến
những nét chính của Tu chính án thứ nhất liên hệ đến tự do ngôn
luận, bày tỏ ý tưởng, và hội họp biểu tình. Vì khuôn khổ giới
hạn, tôi sẽ không đề cập đến các khía cạnh khác như tôn giáo, thuần
phong mỹ tục, phát biểu thương mại (thí dụ, quảng cáo). Độc giả có
thể tham khảo thêm tại các tài liệu khác (Xem, thí dụ như, FAC;
Johnson 2002; Vance 2013).
1.
Chỉ trích, chế giễu chính quyền hoặc viên chức chính quyền:
Chỉ trích chính quyền hoặc viên chức chính
quyền thường nhắm vào chính sách nào đó của chính phủ hoặc một hay
nhiều cá nhân là viên chức trong chính phủ. Nhiều khi chỉ trích chính
quyền được diễn tả qua sự hài hước hoặc chế giễu. Một trong những
nét đặc sắc của chính trị Hoa Kỳ là sự thịnh hành việc người dân
chỉ trích, chế giễu, hoặc nhạo báng chính quyền, nhất là cấp lãnh
đạo quốc gia như Tổng thống, Phó Tổng thống, Thượng nghị sĩ, trên
các phương tiện truyền thông đại chúng như báo chí, truyền thanh, và
truyền hình. Các chương trình truyền hình như Saturday Night Live (SNL)
thường có những hoạt cảnh, dàn dựng để chế nhạo Tổng thống (Byrnes
2015). Cuộc hội họp cơm tối hàng năm với báo chí tại Toà Bạch Ốc
(White House Correspondents' Dinner) là dịp để khách mời chế giễu Tổng
thống đương thời và vị Tổng thống tự chế giễu về những chuyện kém
cỏi hoặc xấu xa của chính mình và nội các (Wikipedia 2016i).
Cho dù dưới hình thức nào, nghiêm trang hay
hài hước, người dân Hoa Kỳ có hoàn toàn tự do chỉ trích chính quyền
và các viên chức chính quyền, kể cả và nhất là Tổng
thống."Trong toàn thể lịch sử Hoa Kỳ, chính quyề̉n quốc gia chưa
từng bao giờ trừng phạt việc chỉ trích viên chức hoặc chính sách
chính quyền, ngoại trừ trong thời chiến" (Stone 2009, 941). Ngay cả
trong thời chiến, Hoa Kỳ cũng không tích cực truy tố những người chỉ
trích chính quyền về chiến tranh. Trong khoảng đầu thế kỷ thứ 21,
chính phủ Hoa Kỳ không cố truy tố ai chỉ trích chiến tranh ở Iraq hoặc
bất kỳ biện pháp chính phủ trong cuộc chiến chống khủng bố (tlđd.,
955). Tại Hoa Kỳ, "chỉ trích chính quyền và ủng hộ các ý tưởng
không thịnh hành, mà người ta có thể coi là chướng hoặc đi ngược lại
chính sách công, hầu như luôn luôn được cho phép" (Wikipedia
2016f).
Vì chỉ trích chính quyền hoặc nói xấu cấp
lãnh đạo luôn luôn được tôn trọng tại Hoa Kỳ, không có cơ quan chính
quyền nào dám cả gan truy tố người dân làm những việc đó. Vì vậy,
hầu như không có vụ án nào dính líu đến chỉ trích chính quyền hoặc
nói xấu cấp lãnh đạo thuần túy. Ngoài ra, không phải chỉ ở Hoa Kỳ,
theo kết quả thăm dò thế giới của Pew Research, "chỉ trích chính
sách chính quyền là dạng được chấp nhận nhiều nhất" trên khắp
thế giới trong các loại tự do ngôn luận (Poushter và Given 2015).
Ngược lại, tại Việt Nam, việc chỉ trích
chính quyền hoặc nói xấu cấp lãnh đạo bị kết tội hình nặng nề,
thường được trá hình dưới tội danh "tuyên truyền chống nhà nước"
theo điều luật 88. Blogger Nguyễn Ngọc Già bị kết án 3 năm tù giam và 3 năm
quản chế với cáo buộc "tuyên truyền chống nhà nước" theo điều 88 bộ
luật hình sự (CTV 2016b) qua những bài ông viết vạch ra những sai lầm và
tội ác của cộng sản và nhận xét chính đáng về thể chế nhân bản
Việt Nam Cộng Hòa. Tương tự, Nguyễn Ngọc Như Quỳnh (blogger Mẹ Nấm) bị công
an bắt khẩn cấp vào ngày 10 tháng 10, 2016, với cáo buộc "tuyên truyền
chống nhà nước" theo điều 88 bộ luật hình sự qua những bài bà viết và
các hoạt động đấu tranh cho tù nhân lương tâm và môi trường (CTV 2016c).
2.
Xúi giục bạo động, lật đổ chính quyền, lời lẽ công kích:
Quyền tự do ngôn luận phân biệt rõ ràng hai
việc: phát biểu ý kiến và hành động thực hiện ý kiến gây hại. Sự
khác biệt này rất quan trọng vì nó cho thấy tầm quan trọng của tự
do trao đổi tư tưởng. Trong tiến trình trao đổi tư tưởng, một ý tưởng
nghe có vẻ xấu chưa chắc có hại thực sự, vì nó có thể dẫn đến
một ý tưởng tốt đẹp và hoàn hảo hơn. Trong việc chống đối chính
quyền, có những ý tưởng đề xướng bạo động, lật đổ chính quyền,
hoặc cổ xúy lời lẽ công kích. TCPVHK luôn luôn bảo vệ tự do phát
biểu những ý tưởng đó vì phát biểu ý tưởng không đồng nghĩa với
hành động thực hiện ý tưởng một cách tức khắc và gây hại thực
sự.
Vào năm 2010, ba ứng cử viên Quốc hội của
Đảng Cộng hòa Hoa Kỳ, được phong trào Đảng Trà (Tea Party) ủng hộ -
Sharon Angle, Stephen Broden, và Rick Barber - "lý luận trong lúc vận
động năm 2010 rằng cách mạng bạo lực nên là một lựa chọn và chính
quyền độc tài có thể bị đối phó với vũ khí mà dân được trang bị
theo Tu chính án thứ hai" (Shipler 2015, 6-7). Tuy các ứng cử viên
này không được đắc cử, việc họ hô hào cách mạng bạo lực hoặc lật
đổ chính quyền bằng bạo lực là việc thực hiện quyền tự do ngôn
luận và đã được TCPVHK phán là được Tu chính án thứ nhất bảo vệ
cách đây hơn 50 năm và được củng cố lại nhiều lần sau đó.
Có nhiều vụ án được TCPVHK cứu xét liên hệ
đến các khía cạnh xúi giục bạo động, lật đổ chính quyền bằng bạo
lực, và lời lẽ công kích hoặc chướng tai. Các vụ án này trở thành
các tiền lệ có thẩm quyền cho các vụ sau đó, hoặc được các cơ quan
chính quyền tuân theo. Các vụ chính yếu gồm có: Yates v. United
States (1957), Brandenburg v. Ohio (1969), Communist Party of Indiana v.
Whitcomb (1974), và United States v. Eichman (1990).
Trong vụ Yates v. United States (1957)
mà tôi đã trình bày trong bài trước (Cao-Đắc 2016), TCPVHK nhấn mạnh
rằng tự do ngôn luận cho phép người dân chủ trương hoặc ủng hộ học
thuyết trừu tượng về lật đổ chính quyền. TCPVHK phán rằng Tu chính
án thứ nhất về tự do ngôn luận bảo vệ phát biểu và hành vi cực
đoan và phản động (radical and reactionary speech) trừ phi phát biểu và
hành vi đó đưa ra mối nguy hiểm rõ ràng và hiện tại (clear and present
danger) (Wikipedia 2016g).
Trong vụ Brandenburg v. Ohio, Brandenburg là
một thủ lãnh hội Ku Klux Klan (KKK), hội người Mỹ trắng kỳ thị người
Mỹ đen, bị phạt 1.000 đô la US và án tù từ một tới mười năm vì tổ
chức một cuộc tập họp nhiều người mặc áo choàng và mũ trùm đầu,
đốt thánh giá, và đọc diễn văn (Wikipedia 2016j; Tedford và Herbeck
2013, 60-62). Brandenburg bị kết tội cổ xúy bạo lực dưới một hình
luật của tiểu bang Ohio. TCPVHK bãi bỏ án Brandenburg, phán rằng
"những bảo đảm hiến pháp về tự do ngôn luận và tự do báo chí
không cho phép cấm đoán việc ủng hộ dùng lực hoặc dùng việc vi phạm
luật trừ phi việc ủng hộ đó nhắm vào xúi giục hoặc gây ra hành
động phi pháp ngay tức khắc" (Wikipedia 2016j; Tedford và Herbeck
2013, 61).
Phán quyết Brandenburg là phán quyết quan
trọng trong việc cân nhắc giữa biểu đạt tự do ngôn luận và khuyến
khích bạo động. Hai yếu tố quan trọng trong phán quyết này là
"ý định" (intent) và tính chất "sắp xảy ra" (imminence).
Trước hết, cái biểu đạt đó phải mang theo một ý đồ nghiêm trọng xúi
giục hành động phi pháp. Giảng giải lý thuyết, tuyên bố khơi khơi
hoặc phản ứng vì nóng giận được coi là không đủ nghiêm trọng cho
việc xúi giụ̣c hành vi phạm pháp. Kế tiếp, hành động phi pháp đó
phải sắp xảy ra, nghĩa là xảy ra tức khắc, ngay lập tức (Tedford và
Herbeck 2013, 62). Nếu việc xúi giục hoặc kích động đó nhắm vào một
hành động phi pháp trong tương lai, vài ngày, vài tháng, hoặc vài năm,
thì không thể coi là "sắp xảy ra" được.
Trong vụ Communist Party of Indiana v.
Whitcomb vào mùa bầu cử năm 1972, tiểu bang Indiana bắt buộc
những người được đề cử nộp lời tuyên thệ rằng đảng của họ
"không ủng hộ việc lật đổ chính quyền địa phương, tiểu bang,
hoặc quốc gia bằng lực hoặc bạo động." (Wikipedia 2016b). Đảng
cộng sản tại Indiana không chịu nộp câu tuyên thệ đó, và vì vậy,
tiểu bang Indiana từ chối ghi tên các ứng cử viên của họ trên phiếu
bầu. Đảng cộng sản chống án lên TCPVHK. Với phán quyết nhất trí
(unanimous), TCPVHK bênh Đảng cộng sản, phán rằng, "một nhóm ủng
hộ việc lật đổ bằng bạo lực như là một học thuyết trừu tượng thì
không thể nhất thiết coi là ủng hộ hành động phạm pháp." Tòa
nhắc lại phán quyết trong vụ Brandenburg, và còn nhấn mạnh thêm rằng
"việc truyền bá trừu tượng sự cần thiết hoặc thích ứng cho bạo
lực không giống như việc sửa soạn một nhóm cho hành động bạo lực và
tôi luyện nhóm đó cho việc đó." Tòa phán tiếp rằng một luật mà
không phân biệt được hai tính chất này thì vi phạm các tự do được
bảo đảm bởi Tu chính án thứ nhất và thứ mười bốn (Wikipedia 2016b).
Trong vụ United States v. Eichman (1990),
TCPVHK phán rằng tuy đốt cờ quốc gia khiến nhiều người bực tức,
"chính phủ không được ngăn cấm sự biểu đạt một ý tưởng chỉ vì
xã hội thấy cái ý tưởng đó chướng tai hoặc không chấp nhận
được" (Wikipedia 2016e).
NCQCS tại Việt Nam không hiểu sự khác biệt
giữa truyền bá lý thuyết về bạo lực và sửa soạn cho hành động bạo
lực thực sự, và thường kết tội những người truyền bá lý thuyết
với hành động thực thụ cho bạo lực. Áp dụng cách diễn giải luật
về tự do ngôn luận của NCQCS tại Việt Nam, một người trong lúc cãi
vã quát tháo với đối phương, "Tao giết mày," sẽ phạm tội
nặng không kém gì tội giết người thực sự. Thực ra, những người đấu
tranh cho tự do dân chủ chưa đi đến giai đoạn truyền bá lý thuyết dùng
bạo lực chống đối chính quyền thực sự, mà đã bị đàn áp mãnh
liệt. Ta không khỏi tự hỏi chuyện gì sẽ xảy ra khi họ truyền bá lý
thuyết về bạo động chống chính quyền.
3.
An ninh quốc gia:
Tự do ngôn luận có thể va chạm với an ninh
quốc gia. Do đó, một vấn đề của tự do ngôn luận là tiết lộ bí mật
chính phủ liên hệ đến an ninh quốc gia. Vấn đề này đang trở nên sôi
động gần đây, nhất là sau khi có những tiết lộ về những bí mật
chính quyề̉n như vụ Edward Snowden công bố tài liệu liên quan đến việc
chính phủ Hoa Kỳ giám sát mọi người khắp nơi trên thế giới. Vụ
Snowden thực ra không dính líu đến tự do ngôn luận nhiều bằng quyền
riêng tư. Vì Snowden chưa bị chính phủ Hoa Kỳ bắt giữ và vụ này chưa
được đem ra tòa nên ta chưa biết phán quyết của TCPVHK thế nào. Ngoài
ra, vì Snowden là nhân viên một công ty có khế ước với chính quyền,
việc tiết lộ bí mật chính quyền có thể vi phạm những nguyên tắc
bảo toàn bí mật được thỏa thuận giữa công ty và nhân viên. Ta cũng
nên hiểu tuy Snowden đang bị chính phủ Hoa Kỳ truy nã, báo chí và các
cơ sở truyền thông có hoàn toàn tự do in lại hoặc tường thuật đầy
đủ những gì Snowden gửi đến họ. Thực ra, hai tờ báo The Guardian và
The Washington Post đoạt giải Pulitzer vào năm 2014 về phục vụ công
chúng qua loạt bài về các chương trình giám sát của chính phủ Hoa
Kỳ dựa vào tài liệu do Snowden tiết lộ (Farhi 2014). Điều đó cho thấy
rõ chính phủ Hoa Kỳ sẵn sàng chấp nhận những tiết lộ bất lợi cho
họ, chính vì họ tôn trọng tự do ngôn luận của dân hơn cả quyền lợi
hiện tại của chính mình.
Tu chính án thứ nhất còn khuyến khích báo
chí hoặc các cơ sở tin tức công bố những bí mật liên hệ đến an ninh
quốc gia, trừ phi việc tiết lộ đó "chắc chắn đưa đến sự nguy
hại quốc gia trực tiếp, tức khắc, và không thể sửa chữa được"
(Stone 2009, 959). "Trong toàn thể lịch sử Hoa Kỳ, chưa từng bao
giờ có một truy tố hình sự nào với báo chí vì công bố thông tin bí
mật liên hệ đến an ninh quốc gia" (tlđd., 958). Vụ gần nhất
cho trường hợp đó là vụ New York Times v. United States, vụ
Tài Liệu Ngũ Giác Đài (the Pentagon Papers). Vụ đó như sau. Vào năm
1967, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Robert McNamara cho phép một cuộc nghiên
cứu tối mật về Chiến Tranh Việt Nam. Cuộc nghiên cứu đó, được báo
cáo trong 47 quyển, duyệt lại chi tiết tỉ mỉ chính sách Hoa Kỳ đối
với Đông Dương, kể cả những chiến dịch quân sự và những thương lượng
ngoại giao. Vào mùa xuân năm 1970, Daniel Ellsberg, một cựu viên chức Bộ
Quốc phòng, đưa bản sao các Tài Liệu Ngũ Giác Đài cho tờ New York
Times. Sau khi tờ Times bắt đầu đăng các trích đoạn trong tài liệu Ngũ
Giác Đài, chính phủ Hoa Kỳ nộp đơn lên tòa xin tòa cấm tờ Times tiếp
tục đăng các trích đoạn này. TCPVHK bác bỏ yêu cầu cấm in đó. Tòa
phán rằng "việc công bố ngay cả tài liệu bí mật không thể bị
ngăn chận theo hiến pháp, trừ phi chính quyền có thể chứng minh rằng
việc tiết lộ đó sẽ 'chắc chắn đưa đến sự nguy hại quốc gia trực
tiếp, tức khắc, và không thể sửa chữa được.' " (tlđd.,
959). Với điề̉u kiện "chắc chắn," "trực tiếp,"
"tức khắc," và "không thể sửa chữa được," chính
phủ Hoa Kỳ khó mà chứng minh được sự nguy hại quốc gia, cho dù việc
đó xảy ra trong thời chiến khi sự tham dự quân đội Hoa Kỳ tại Việt
Nam lên tới cực đỉnh.
Tại Việt Nam, các điều luật trong BLHS như
điều 88 và điều 258, thường được dùng để đàn áp, bắt bớ, và giam
cầm những người thực hành quyền tự do ngôn luận dựa vào lý do an
ninh quốc gia. Trên thực tế, những hành động coi là "xâm phạm lợi
ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân" chỉ là
những hành động vạch trần sự sai quấy, lừa bịp, hoặc tội ác của
NCQCS.
4.
Tự do ngôn luận trong học đường:
Quyền tự do ngôn luận trong học đường được
TCPVHK xét đoán trong vụ Tinker v. Des Moine (1969), liên
hệ đến ngôn ngữ tượng trưng (symbolic speech) và quyền hiến pháp của
học sinh tại trường học công. Vào năm 1965, tại Des Moine, tiểu bang
Iowa, cậu John F. Tinker (15 tuổi), các em của cậu ta Mary Beth Tinker (13
tuổi), Hope Tinker (11 tuổi), và Paul Tinker (8 tuổi), cùng với bạn
Christopher Eckhardt (16 tuổi) quyết định đeo khăn đen quàng tay tới
trường để phản đối chiến tranh Việt Nam và ủng hộ Cuộc Đình Chiến
Giáng Sinh do Thượng Nghị Sĩ Robert F Kennedy kêu gọi (Wikipedia 2016d).
Nhà trường đuổi Mary Beth, Christopher, và John Tinker và không cho vào
trường cho tới khi các em không còn đeo vải đen nữa. (Hope Tinker và
Paul Tinker còn quá nhỏ nên trường không phạt.) John F. Tinker,
Christopher Eckhardt, và Mary Beth Tinker kiện nhà trường, và vụ kiện
dần dà được đưa lên TCPVHK.
TCPVHK phán quyết ba điểm quan trọng: (1) Đeo
băng đen trên tay gần như là "ngôn ngữ thuần túy" (pure speech)
và được bảo vệ đầy đủ trong Tu chính án thứ nhất; (2) Thầy cô và
học sinh đều được hưởng các quyền trong Tu chính án thứ nhất; (3)
Nhà trường cấm và trừng phạt các em vì sự diễn tả thụ động yên
lặng, và các em không khuấy rối trật tự. TCPVHK bênh vực các em học
sinh và phán, "Các viên chức nhà trường không có quyền tuyệt đối
với học sinh. Học sinh trong hay ngoài trường đều là 'người' dưới
Hiến pháp chúng ta. Các em có các quyền căn bản mà quốc gia/ tiểu
bang phải kính trọng, y như các em phải kính trọng nghĩa vụ mình với
quốc gia/tiểu bang" (Xem, Cornell).
Tại Việt Nam, các em học sinh sinh viên hầu như
không được coi là công dân trong một quốc gia vì các quyền tự do của
các em bị giới hạn dựa vào các lý do kỷ luật học đường và an ninh
quốc gia. Với chính sách nhồi sọ trẻ em, NCQCS cấm cản quyền tự do
ngôn luận trong học đường, với mục đích ngăn chận mầm mống tự do dân
chủ ngay từ trong lúc các em học sinh biết suy luận. Một thí dụ cho
thấy việc này. Vào ngày 5 tháng 4 năm 2016, Bộ Giáo dục và Đào tạo
(GD&ĐT) Việt Nam công bố 10 điều cấm sinh viên không được làm trong nhà trường
và ngoài xã hội. Nếu vi phạm, sinh viên sẽ bị phạt theo một trong bốn biện
pháp: khiển trách, cảnh cáo, đình chỉ học tập có thời hạn, và buộc thôi học
(Phạm 2016). Mười điều cấm này liên hệ đến các quyền căn bản của con
người, được trá hình dưới các từ ngữ về an ninh quốc gia, luật
pháp. Đặc biệt, điều 4 liên hệ đến tự do ngôn luận như sau: Đăng tải,
bình luận, chia sẻ bài viết, hình ảnh có nội dung dung tục, bạo lực, đồi trụy,
xâm phạm an ninh quốc gia, chống phá Đảng và Nhà nước, xuyên tạc, vu khống, xúc
phạm uy tín của tổ chức, danh dự và nhân phẩm của cá nhân trên mạng Internet.
Đương nhiên, học sinh dưới tuổi thành niên không
nên có hoàn toàn tự do ngôn luận. Tuy nhiên, khi có những vấn đề liên
quan đến xã hội và cuộc sống, thí dụ môi trường, các em nên được
hưởng quyền phát biểu ý kiến trong ôn hòa và trật tự, như các em
Paul, Hope, Mary Beth, và John, và Christopher ở 8 tới 16 tuổi đã làm
cách đây hơn 50 năm. Ngoài ra, với các sinh viên trưởng thành (18 tuổi
trở lên), các em nên được đối xử như mọi công dân khác, hưởng mọi
quyền tự do và nhân quyền. Với việc đặt thêm điều luật cấm sinh viên
ở tuổi trưởng thành không được làm trong trường và ngoài xã hội,
NCQCS coi sinh viên đại học khác với và tệ hơn công dân thường. Ngoài
ra, việc cấm đoán sinh viên trong các hoạt động ngoài trường học vượt
quá quyền hạn của Bộ Giáo Dục. Làm sao một cơ sở giáo dục lại có
thể có những hành động phi pháp và đi ngược lại tôn chỉ giáo dục
như vậy?
5.
Hội họp ôn hòa trong trật tự:
Quyền tập họp gồm các hoạt động hội thảo,
biểu tình, tụ họp, diễn hành, giăng biểu ngữ, hô hào khẩu hiệu,
hoặc các hoạt động tương tự. Tại Hoa Kỳ, thông thường, người dân không
cần xin phép chính quyền trước khi tổ chức các hoạt động này (Xem
ACLU). Nếu người đi biểu tình chỉ đi trên lề đường hoặc vỉa hè, tuân
theo đèn giao thông và người đi bộ thì hoạt động của họ được hiến
pháp bảo vệ cho dù không có giấy phép. Tuy nhiên, vài hoạt động cần
giấy phép. Vài thí dụ gồm có: diễn hành không trên vỉa hè hoặc lề
đường, hoặc hoạt động cần cản giao thông hoặc chặn đường xá, các
cuộc biểu tình cần loa phát thanh, các cuộc biểu tình tại vài nơi
công viên hoặc phố đặc biệt nào đó (tlđd.). Nên nhớ việc xin
giấy phép này là để chính quyền địa phương cung cấp nhân viên cảnh
sát giúp đỡ cuộc diễn hành, thí dụ ngăn chận đường để đoàn người
diễn hành đi qua có trật tự.
TCPVHK xác nhận tầm quan trọng của quyền tự
do này trong vụ De Jonge v. State of Oregon (1937), phán
rằng "quyền tập họp ôn hòa là quyền có cùng nguồn gốc với các
quyền tự do ngôn luận và báo chí và cũng là quyền căn bản tương
đương" (Hudson 2002). Trong vụ này, De Jong và một số thành viên
của Đảng Cộng Sản Hoa Kỳ bị bắt vì tổ chức một cuộc họp có
khoảng 150-300 người tham dự. TCPVHK hủy bản án và phán rằng
"tập họp ôn hòa cho cuộc thảo luận hợp pháp không thể là một
tội." Ta nên ghi nhận một lần nữa rằng tuy chủ thuyết cộng sản
đi ngược lại với chính sách quốc gia Hoa Kỳ, quyền truyền bá các
học thuyết này hoặc hội họp các đảng viên cộng sản vẫn được tôn
trọng dưới Tu chính án thứ nhất.
Tu chính án thứ nhất cấm chính phủ ngăn cản dựa
vào nội dung của câu nói hoặc lời phát biểu. Tuy nhiên, điều này
không có nghĩa là Hiến pháp bảo vệ hoàn toàn mọi hoạt động ngôn
luận tự do trong mọi trường hợp. Cảnh sát và nhân viên chính quyền
được phép đặt vài giới hạn về "thời gian, địa điểm và cách
thức" một cách hạn hẹp, nhưng không được phân biệt theo nội dung.
Những giới hạn này phải được áp dụng cho mọi phát biểu bất kể quan
điểm (Xem ACLU). "Nguyên tắc quan trọng nhất trong Tu chính án thứ
nhất trong thực hành là nguyên tắc trung lập nội dung" (content
neutrality) (Sedler 2006). Thí dụ, nếu chính quyền cho phép người dân
tuần hành chống đối việc cắt cây với vài giới hạn như đi xếp hàng
ôn hòa trên lề đường, thì chính quyền cũng phải cho phép người dân đi
tuần hành như vậy để chống đối việc một xí nghiệp gây ô nhiễm môi
trường tiếp tục hoạt động trên đất nước.
Tại Việt Nam có nhiều trường hợp NCQCS có sự
phân biệt cuộc diễn hành, hội họp, biểu tình theo nội dung (thí dụ,
diễn văn, hô hào, biểu ngữ). Thí dụ, vào năm 2016, lễ tưởng niệm hải
chiến Hoàng Sa 1974 bị sách nhiễu, cản trở tại các thành phố miền
Nam như Sài Gòn, trong khi tưởng niệm hải chiến Trường Sa 1988 được dễ
dàng (BBC 2016a; Cát 2016).
6.
Bôi nhọ và phỉ báng:
Bôi nhọ hay phỉ báng (libel) là hành động
viết lời lẽ làm hại thanh danh uy tín của người khác. Tại Hoa Kỳ,
phỉ báng có thể dân sự hoặc hình sự tùy tiểu bang, nhưng tất cả
mọi tiểu bang đều có luật dân sự cho phỉ báng hoặc hại thanh danh
người khác. Các tiểu bang có hình luật về phỉ báng thường coi phỉ
báng là tội nhẹ (misdemeanor) và coi sự thật là bào chữa tuyệt đối.
Vì phỉ báng liên hệ đến công bố hoặc xuất
bản bài viết, sự va chạm giữa tự do ngôn luận và phỉ báng khó
tránh khỏi. Trong luật lệ Hoa Kỳ, một cách tổng quát, TCPVHK luôn luôn
coi trọng tự do ngôn luận, nhất là của báo chí đối với chính quyền,
và có nhiều phán quyết bảo vệ tự do ngôn luận.
Một trong những vụ án quan trọng liên hệ đến
tự do ngôn luận và phỉ báng chính quyền hoặc nhân viên chính quyền là
vụ New York Times v. Sullivan (1964). Vào năm 1960, tờ New
York Times đăng quảng cáo chiếm cả trang kêu gọi đóng góp quỹ bào
chữa cho Martin Luther King, Jr. chống lại việc King bị kết tội nói
dối với tòa Alabama. Bài quảng cáo đó có phần chỉ trích cảnh sát
và chứa vài chi tiết không chính xác nhưng nhỏ nhặt. Sullivan không bị
kêu đích danh trong bài quảng cáo, nhưng ông ta có nhiệm vụ quản trị
ban cảnh sát, nên ông đệ đơn kiện tờ New York Times về tội phỉ báng ở
Tòa tiểu bang Alabama. Sullivan thắng kiện và được bồi thường 500.000
đô la. Tờ New York Times chống án lên TCPVHK.
TCPVHK bãi bỏ quyết định tòa tiểu bang
Alabama, phán rằng, "Tu Chính Án Thứ Nhất bảo vệ việc công bố
mọi câu, ngay cả các câu sai lầm, về hành vi của viên chức công quyền
trừ phi các câu đó được viết ra với ác ý thực sự (với sự hiểu
biết rằng các câu đó sai lầm hoặc với sự bất chấp sự thật một
cách cẩu thả)" (Wikipedia 2016a, 2016c; Tedford và Herbeck 2013, 64).
TCPVHK còn phán thêm rằng việc có "câu sai lầm không thể tránh
được trong cuộc thảo luận tự do, và . . . việc đó phải được bảo vệ
nếu các quyền tự do phát biểu phải được chút châm chước cần thiết
để được tồn tại" (Lewis 2009, 17).
Phán quyết NY Times là một cái
tát vào mặt chính quyền. Chính quyền tiểu bang Alabama, toan tính
dùng luật dân sự về phá hại thanh danh (defamation) để̀ cản trở hoặc
ngăn ngừa tự do ngôn luận chỉ trích họ, nhưng họ không ngờ TCPVHK bênh
vực tự do ngôn luận, và lại còn đặt ra các điều kiện khó khăn cho
các nguyên đơn chính phủ cho các vụ phỉ báng hoặc gây hại thanh danh.
Rất khó mà chứng minh được ác ý thực sự hoặc cẩu thả trong việc
công bố sự thật. Thông thường, một cơ quan ngôn luận luôn luôn có những
tiêu chuẩn và kiểm chứng để xác định sự thật trong một nguồn tin.
Nguồn tin đó có thể sau này được chứng minh là sai sự thật, nhưng
nếu cơ quan ngôn luận đó không có ác ý (ác ý đây nghĩa là biết là
sai mà vẫn đăng như thật), thì không thể có tội hoặc chịu trách
nhiệm pháp lý. Ta nên ghi chú rằng điều kiện "ác ý thực sự"
chỉ có áp dụng khi viên chức chính quyền kiện dân thường hoặc cơ quan
ngôn luận tư nhân. Điều kiện đó không áp dụng khi người dân thường
kiện người khác (Wikipedia 2016a).
Tại Việt Nam, NCQCS thường dùng các lý do bôi
nhọ lãnh đạo hoặc xúc phạm nghiêm trọng danh dự của Quân đội nhân dân Việt
Nam, hoặc tổn hại đến uy tín của đội ngũ những người làm báo để trừng phạt
người dân hoặc báo chí thực hiện quyền tự do ngôn luận. Một vụ điển
hình là việc tịch thu thẻ nhà báo của ông Mai Phan Lợi.
Vào ngày 20-6-2016, Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền
thông Trương Minh Tuấn quyết định tịch thu thẻ nhà báo của ông Mai Phan Lợi,
phó Tổng Thư ký báo Pháp Luật, điều hành Diễn đàn Nhà báo Trẻ (CTV 2016a).
Nguyên nhân dẫn tới việc bị thu thẻ là do ông Lợi đã mở một cuộc thăm dò nhỏ về
nguyên nhân máy bay cứu cấp CASA8983 bị rơi trên đường tìm kiếm hai phi công
trên máy bay Su30 bị mất tích trong khi đang bay huấn luyện trên biển (CTV
2016a). Ông Mai Phan Lợi viết, "Vì sao CASA tan xác?" và đưa ra 8
câu trả lời để lựa chọn. Thông báo của Bộ Thông tin và Truyền thông nói
ông Lợi đã "xúc phạm nghiêm trọng danh dự của Quân đội nhân dân Việt Nam,
gây tổn thương sâu sắc đến gia đình, người thân, đồng đội của những cán bộ, chiến
sỹ gặp nạn khi đang làm nhiệm vụ; làm tổn hại đến uy tín của đội ngũ những người
làm báo" (BBC 2016b).
C.
Kết Luận:
Tại Hoa Kỳ, quyền tự do ngôn luận có thể
được coi là quyền căn bản nhất của con người và được Tu chính án thứ
nhất bảo vệ. Đương nhiên, quyền này không có nghĩa người dân muốn nói
gì thì nói. Có nhiều ngoại lệ cho tự do ngôn luận (Wikipedia 2016h).
Những giới hạn về tự do ngôn luận tại Hoa Kỳ thường dính líu đến
các khía cạnh thuần phong mỹ tục (thí dụ khiêu dâm), tạo nguy hiểm
trong xã hội (thí dụ như la hét "cháy" trong rạp hát đông
nghẹt người khi không thực sự có cháy), và ngôn ngữ thương mại (thí
dụ, quảng cáo sai lạc).
Tại Hoa Kỳ, tự do ngôn luận hầu như luôn luôn
được tôn trọng khi quyền đó được hành xử chống đối chính quyền một
cách ôn hòa (thí dụ, viết trên trang mạng xã hội, blogs), chỉ trích
cấp lãnh đạo, ngay cả hô hào lật đổ chính quyền bằng bạo lực.
Chính những người bị chống đối vẫn tôn trọng quyền tự do ngôn luận.
Tổng thống Hoa Kỳ đầu tiên, George Washington tuyên bố, "Nếu
tự do ngôn luận bị tước đoạt, thì chúng ta như những con cừu ngu ngốc
và câm lặng, bị dẫn tới lò sát sinh"(Xem Goodreads). Tổng
thống Harry Truman nói, "Nếu một chính quyền áp dụng
chính sách khóa miệng tiếng nói chống ̣đối, thì chính quyền đó chỉ
có một con đường là đi xuống theo đường lối của những biện pháp
ngày càng đàn áp cho tới khi trở thành một nguồn khủng bố cho toàn
dân và tạo nên một quốc gia mà mọi người sống trong sợ hãi" (tlđd.).
Tổng thống Theodore Roosevelt khẳng định, "Nói rằng không
được chỉ trích Tổng thống, hoặc phải theo phe Tổng thống, đúng hay
sai, không những không yêu nước và tôi mọi, mà còn phản quốc theo đạo
đức với công chúng Mỹ" (tlđd.).
Với sự đàn áp tự do ngôn luận ngày càng gia
tăng của NCQCS, người dân Việt Nam có muốn trở thành những con cừu ngu
ngốc và câm lặng bị dắt tới lò sát sinh dưới tay nhóm cầm quyền
khủng bố, và trở thành tôi mọi và phản quốc?
Tài
Liệu Tham Khảo:
tlđd.: tài liệu đã
dẫn, thay cho "sđd." (sách đã dẫn) để chỉ tài liệu
(sách, trang mạng, liên lạc riêng, v.v.) đã trích dẫn xuất hiện ngay
trước trích dẫn này.
ACLU. Know Your Rights: Demonstrations and
Protests.https://www.aclu.org/sites/default/files/field_pdf_file/kyr_protests.pdf (truy
cập 22-10-2016).
BBC Tiếng Việt. 2016a. Tưởng niệm hải chiến
Trường Sa 1988. 14-3-2016.http://www.bbc.com/vietnamese/vietnam/2016/03/160314_antichina_protest (truy
cập 22-10-2016).
_________. 2016b. Ông Mai Phan Lợi 'bị rút
thẻ nhà báo'. 20-6-2016.http://www.bbc.com/vietnamese/vietnam/2016/06/160620_phan_loi_thu_hoi_the_nha_bao (truy
cập 26-6-2016).
Byrnes, Jesse. 2015. 40 years of SNL
political sketches. 15-2-2015.http://thehill.com/video/in-the-news/232847-40-years-of-snl-political-sketches(truy
cập 21-10-2016).
Cao-Đắc Tuấn. 2016. Hiến pháp và hệ
thống pháp luật Hoa Kỳ. 23-9-2016.http://danlambaovn.blogspot.com/2016/09/hien-phap-va-he-thong-phap-luat-hoa-ky.html (truy
cập 22-10-2016).
Cát Linh. 2016. Tưởng niệm 42 năm hải chiến
Hoàng Sa – Khác biệt ở hai đầu đất nước. 19-1-2016. http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/42-years-paracel-islands-difference-north-south-kl-01192016205902.html (truy
cập 22-10-2016).
Collins, Ronald K. L. 2008. About that word
‘abridging’ in the First Amendment… 1-5-2008. http://www.firstamendmentcenter.org/about-that-word-%E2%80%98abridging%E2%80%99-in-the-first-amendment-%E2%80%A6 (truy
cập 23-9-2016).
Cornell. Tinker v. Des Moines Independent
Community School Dist.https://www.law.cornell.edu/supremecourt/text/393/503 (truy
cập 21-10-2016).
CTV Danlambao. 2016a. Thu thẻ nhà báo để khoả
lấp trách nhiệm trong vụ máy bay rơi?! 21-6-2016. http://danlambaovn.blogspot.com/2016/06/thu-nha-bao-e-khoa-lap-trach-nhiem.html (truy
cập 22-10-2016).
_________. 2016b. Blogger Nguyễn Ngọc Già bị
kết án 3 năm tù giam trong phiên toà phúc thẩm. 6-10-2016. http://danlambaovn.blogspot.com/2016/10/blogger-nguyen-ngoc-gia-ra-toa-phuc.html (truy
cập 22-10-2016).
_________. 2016c. Blogger Nguyễn Ngọc Như Quỳnh
bị công an bắt khẩn cấp. 11-10-2016. http://danlambaovn.blogspot.com/2016/10/blogger-nguyen-ngoc-nhu-quynh-bi-cong.html (truy
truy cập 22-10-2016).
FAC (First Amendment Center). Frequently
Asked Questions - Religion.http://www.firstamendmentcenter.org/faq/frequently-asked-questions-religious-liberty (truy
cập 20-10-2016).
Farhi, Paul. 2014. Washington Post wins Pulitzer
Prize for NSA spying revelations; Guardian also honored. 14-4-2014.https://www.washingtonpost.com/politics/washington-post-wins-pulitzer-prize-for-public-service-shared-with-guardian/2014/04/14/bc7c4cc6-c3fb-11e3-bcec-b71ee10e9bc3_story.html (truy
cập 20-10-2016).
Goodreads. Quotes About Freedom Of Speech.http://www.goodreads.com/quotes/tag/freedom-of-speech (truy
cập 22-10-2016).
Hudson, David L., Jr. 2002. Assembly
overview. 29-10-2002.http://www.firstamendmentcenter.org/assembly-overview (truy
cập 22-10-2016).
Johnson, Bruce E.H. 2002. Advertising &
First Amendment overview. 10-12-2002.http://www.firstamendmentcenter.org/advertising-first-amendment-overview (truy
cập 20-10-2016).
Lewis, Anthony. 2009. Freedom for the
Thought That We Hate – A Biography of the First Amendment. Basic Books. New
York, New York, U.S.A.
Newton, Adam. 2002. Petition overview.
10-10-2002.http://www.firstamendmentcenter.org/petition-overview (truy
cập 22-10-2016).
Phạm Trần. 2016. 10 điều cấm sinh viên - mấy
điều tha cho đảng? 22-4-2016.http://danlambaovn.blogspot.com/2016/04/10-ieu-cam-sinh-vien-may-ieu-tha-cho-ang.html (truy
cập 22-10-2016).
Poushter, Jacob and Given, Dionna. 2015. Where
the world sees limits to free speech. 18-11 -2015. http://www.pewresearch.org/fact-tank/2015/11/18/where-the-world-sees-limits-to-free-speech/ (truy
cập 21-10-2016).
Reporters Without Borders. 2016. 2016 World
Press Freedom Index.https://rsf.org/en/ranking (truy
cập 22-10-2016).
Sedler, Robert A. 2006. Freedom of Speech:
The United States versus the Rest of the World. 19-7-2007. https://papers.ssrn.com/sol3/papers.cfm?abstract_id=1000263 (truy
cập 18-10-2016).
Shipler, David K. 2015. Freedom of Speech -
Mightier than Sword. Alfred A. Knopf. New York, U.S.A.
Stone, Geoffrey R. 2009. Free Speech and
National Security. 84 Indiana Law Journal 939 (2009). Also:http://chicagounbound.uchicago.edu/cgi/viewcontent.cgi?article=2975&context=journal_articles (truy
cập 12-10-2016).
Tedford, Thomas L. và Herbeck, Dale A. 2013. Freedom
of Speech in the United States. Seventh edition. Strata Publishing, State
College, Pennsylvania, U.S.A.
Trịnh Kim Tiến. 2016. Nguyễn Hữu Quốc Duy
là ai? 13-8-2016.http://danlambaovn.blogspot.com/2016/08/nguyen-huu-quoc-duy-la-ai.html (truy
21-10-2016).
Vance, Laurence M. 2013. Pornography and the
First Amendment. 20-12-2013.https://www.fff.org/explore-freedom/article/pornography-and-the-first-amendment/(truy
cập 20-10-2016).
Wikipedia. 2016a. First Amendment to the
United States Constitution. Thay đổi chót: 18-10-2016.https://en.wikipedia.org/wiki/First_Amendment_to_the_United_States_Constitution (truy
cập 20-10-2016).
_________.2016b. Communist Party of Indiana
v. Whitcomb. Thay đổi chót: 1-3-2016. https://en.wikipedia.org/wiki/Communist_Party_of_Indiana_v._Whitcomb(truy
cập 22-10-2016).
_________.2016c. New York Times Co. v.
Sullivan. Thay đổi chót: 19-10-2016.https://en.wikipedia.org/wiki/New_York_Times_Co._v._Sullivan (truy
cập 22-10-2016).
_________.2016d. Tinker v. Des Moines
Independent Community School District. Thay đổi chót: 22-10-2016.https://en.wikipedia.org/wiki/Tinker_v._Des_Moines_Independent_Community_School_District (truy
cập 22-10-2016).
_________.2016e. United States v. Eichman.
Thay đổi chót: 18-4-2016.https://en.wikipedia.org/wiki/United_States_v._Eichman (truy
cập 20-4-2016).
_________. 2016f. Freedom of speech in the
United States. Thay đổi chót: 19-10-2016. https://en.wikipedia.org/wiki/Freedom_of_speech_in_the_United_States(truy
cập 22-10-2016).
_________. 2016g. Yates v. United States.
Thay đổi chót: 10-7-2015.https://en.wikipedia.org/wiki/Yates_v._United_States (truy
cập 21-9-2016).
_________. 2016h. United States free speech
exceptions. Thay đổi chót: 4-10-2016. https://en.wikipedia.org/wiki/United_States_free_speech_exceptions (truy
cập 16-10-2016).
_________. 2016i. White House
Correspondents' Association. Thay đổi chót: 20-10-2016.https://en.wikipedia.org/wiki/White_House_Correspondents%27_Association(truy
cập 21-10-2016).
_________. 2016j. Brandenburg v. Ohio.
Thay đổi chót: 1-10-2016.https://en.wikipedia.org/wiki/Brandenburg_v._Ohio (truy
cập 21-10-2016).
23.10.2016
No comments:
Post a Comment