Vũ Thư
Hiên
Cập
nhật lần cuối 24/10/2016
Đôi
lời dẫn nhập
"Trong
tháng 8.1991, làng thơ Việt Nam đã chịu hai cái tang lớn: nhà thơ Lưu Trọng Lư
mất ngày 10, nhà thơ Hồ Dzếnh mất ngày 13 cùng tại Hà Nội."
Đó
là câu mở đầu bài viết Tưởng niệm hai nhà thơ của nhà phê bình Đặng Tiến trên
Diễn Đàn số 2, tháng 11 cùng năm. Đoạn về Hồ Dzếnh mở ra như sau :
""Hồ
Dzếnh, nhà thơ Minh hương, tên thật là Hà Triệu Anh. Hồ Dzếnh là hai chữ Hà Anh
đọc theo giọng Quảng Đông. Ông sinh năm 1916 tại làng Đông Bích, huyện Quảng
Xương, Thanh Hoá, thân phụ là người Trung Quốc lưu lạc sang Việt Nam cuối thế kỷ
XIX, gặp mẹ ông là một cô lái đò trên sông Ghép, tỉnh Thanh Hoá. Cuộc tình
duyên này do ông kể lại trong tập truyện ngắn Chân trời cũ (1940)."
Bạn
đọc có thể bấm vào đây để
đọc toàn bài, và nhớ lại tên những tác phẩm khác của Hồ Dzếnh. Ở đây, chúng tôi
chỉ lấy lại mấy câu trên vì hai sự kiện: năm nay cũng là năm kỷ niệm lần thứ
100 ngày sinh (và ngày giỗ thứ 25) của ông, một "nhà thơ Minh hương".
Có phải vì cái gốc Minh hương ấy mà...
Người
viết mấy dòng này không theo thuyết âm mưu nhưng vẫn lạ là không tìm thấy trên
Google dấu vết của một bài viết nào trên báo chí nhắc tới ngày giỗ lần thứ 25
và/hoặc năm sinh thứ 100 của Hồ Dzếnh. Bản thân nhà văn Vũ Thư Hiên cũng đã ngần
ngại khi gửi bài viết dưới đây cho chúng tôi: "Trong làn sóng dân tộc
chủ nghĩa chống Trung Quốc hiện tại, mình có nên đưa chuyện Hồ Dzếnh và tấn bi
kịch người Hoa những năm 79-80 ra không?" Và khi nhận được trả lời :
"Cái làn sóng dân tộc chủ nghĩa ấy, nếu những người trí thức không biết
chống lại thì hiểm hoạ sẽ ngày càng lớn anh ạ. Chúng ta cần phải thoát Trung,
là thoát cái ý thức hệ Khổng - Mao của nó, thoát cái âm mưu
thôn tính đất nước này của những kẻ cầm quyền ở Trung Nam Hải vốn vẫn tự coi
mình là Thiên tử, Thiên triều, chứ chống gì những người dân Trung Hoa khốn khổ.
Lại còn chống một nhà văn Việt Nam đích thực nữa thì nghĩa lý gì?",
thì anh tỏ ra rất vui, nhưng cũng đã nói thêm : "Tôi rất không
thích một cuộc bài Hoa man rợ tái diễn. Chuyện Hồ Dzếnh bị đưa vào Hoả Lò anh ấy
chỉ kể cho mình tôi, thảm lắm, tôi đã dùng chữ nhẹ đi đấy".
Kháng
cự lại cái làn sóng dân tộc chủ nghĩa quá đà ấy, ngăn ngừa không cho những
cuộc bài ngoại man rợ kia trở lại, chính là bảo vệ những giá trị chung mà nhân
loại đã phải trả giá rất đắt trong quá khứ để nhận ra được, và như thế, theo
thiển ý cũng là góp phần bảo vệ nền độc lập đích thực của dân tộc.
Có
lý nào mà chúng ta không thể, hay chỉ là ngại viết ra những bài tưởng niệm một
nhà thơ lớn đã để lại nhiều tuyệt tác trong lòng người dân Việt, chỉ vì cái
« gốc Minh hương » của ông ?
Diễn
Đàn hân hạnh giới thiệu với bạn đọc bài viết này của nhà văn Vũ Thư Hiên về Hồ
Dzếnh. Không chỉ vì nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh, 25 năm ngày mất của nhà
thơ. Và cũng không chỉ vì đây là những kỷ niệm sâu sắc của một nhà văn với một
nhà thơ tiền bối, được kể lại với một ngọn bút điêu luyện hiếm có...
Mà
còn vì những lý do nêu trên.
Hoà
Vân
---------------------------
Nhà
văn Thanh Châu có một giang sơn riêng – một gác xép bằng gỗ ghép giống hệt gác
xép của hoạ sĩ Bùi Xuân Phái”, mà chúng tôi gọi đùa là “ông Giê Su ở phố Hàng
Thuốc Bắc”..
Một
thời nhiều nhà có thứ gác xép như thế. Nó tăng diện tích ở không nhiều, nhưng tạo
ra một mảng riêng tư. Gác xép của Thanh Châu được dành riêng cho ông làm việc
và tiếp bạn, người nhà không hề lai vãng. Để lên cái gác xép ấy tôi phải leo một
cái thang dựng ngược, bám cứng vào hai thành lung lay của nó mà từng bước nhích
lên rồi chui mới qua một lỗ vuông hẹp.
Từ
khi nhà nước cách mạng về tiếp quản Hà Nội, Thanh Châu biến khỏi văn đàn. Đề
tài, bút pháp thuộc dòng lãng mạn đã không hợp thời, lại còn nguy hiểm. Nó bị
coi là nọc độc. Tác giả Tà Áo Lụa, Bóng Người Ngày Xưa… giờ đây ngồi lặng lẽ
nơi mảnh đất tự tạo bên cái bàn trà nhỏ đã lên màu cánh gián và bộ ấm chén gan
gà tí tẹo.
Người
thường xuyên có mặt trên gác xép của Thanh Châu là Kim Lân, cây bút số một về
chuyện nhà quê. Người thứ hai là Bùi Xuân Phái. Gày còm, xanh xao, với gương mặt
rất giống Chúa Cứu Thế, tự xưng “nhát gan bậc nhất Hà Thành”, hễ gặp quá ba
khách đến trước là anh lịch sự bắt tay mỗi người một cái rồi ù té.
Từ
cái lỗ vuông ấy, vào một ngày không còn nhớ, nhô lên một mái đầu chải ngược, đường
ngôi rõ ràng, một khuôn mặt xạm đen với nụ cười phô những cái răng dài.
-
Hồ Dzếnh đấy! - Thanh Châu nói khẽ với tôi.
Tôi
không quên được hình ảnh ấy – nó gắn chết vào trí nhớ.
Con
người lộc ngộc, xương to, thịt ít, ngồi xuống bên tôi:
-
Vũ Thư Hiên?
Thanh
Châu gật.
Chắc
hẳn Thanh Châu, hoặc Kim Lân đã nhắc đến tên tôi nhân đụng tới thế sự văn chương.
Và còn một lẽ nữa - trong các khách của Thanh Châu tôi ít tuổi nhất.
Chả
là hồi ấy dư luận đang ồn lên với bài “Giương cao ngọn cờ tính Đảng, chống chủ
nghĩa xét lại hiện đại trong văn nghệ” của Tố Hữu. Nó hứa hẹn một trận đánh, rất
có thể sẽ là một vụ "Nhân Văn - Giai Phẩm" thứ hai, Tôi được nêu tên
cùng với truyện ngắn Đêm Mất Ngủ. Cùng với tôi còn có Nguyên Ngọc và Ngô Ngọc Bội.
Là may. Chứ một mình thì nguy to.
Lời
phê phán của nhà thơ lãnh tụ lần này không gây ra đám cháy lớn. Tuy nhiên, sau
bài báo đó các ông tổng biên tập, các thư ký toà soạn liền cầm kính lúp soi từng
chữ trong mỗi vần thơ, mỗi câu văn. Mấy truyện ngắn hiền lành của tôi gửi đến đều
bị trả lại. Hỏi vì sao thì các vị cầm trịch nhe răng cười.
Trong
hoạ có phúc. Tôi không được in thì lại được được tiếp chuyện các bậc đàn anh
nhiều hơn.
Kim
Lân phát mạnh vào vai tôi: “Mặc mẹ nó! Được Tố Hữu đập, coi như “lúy” công nhận
ông có chiếu trong làng văn. Hay chứ không dở”. Nói thế, Kim Lân phải tin tôi lắm.
Câu ấy mà đến tai Tố Hữu thì lôi thôi to. Được Kim Lân tin, tôi sướng âm ỉ. Hiền
lành một cục, thận trọng cũng một cục, thế mà rồi có lúc anh cũng bị nện cho một
trận với truyện ngắn “Con chó xấu xí”. Người ta nói tác giả ví văn nghệ sĩ
trung thành với đảng như con chó ghẻ xấu xí nọ, nó gắng sức giữ nhà cho chủ, thế
mà vừa trơn lông đỏ da là chủ vật ra làm thịt. Một truyện ngắn hay, giọng văn mộc
mạc, khó có thể tìm được một câu được hiểu là móc máy. Kim Lân cười buồn: “Cái
bọn phê bình có cần chó gì nghệ thuật. Nghề của bọn ấy là bới. Cứ thằng nào viết
văn không nổi là y như rằng nó quay ra làm phê bình”. Nguyễn Tuân trăn trối trước:
“Này, đừng có chôn tôi bên cạnh một thằng phê bình đấy nhá!”. Nói cho công bằng,
những nhà phê bình đôi khi cũng có ích ra phết. Không có họ độc giả không hiểu
hết ý của tác giả, họ vạch ra mới thấy. Không kể những trường hợp các phê bình
gia bịa ra những cái tác giả không chủ tâm. Như Văn Ngan Tướng Công của Vũ Tú
Nam chẳng hạn.
Hồ
Dzếnh nắm chặt tay tôi, bóp bóp vài cái. Ấy là anh khen đấy, Thanh Châu giải
thích. Anh ý nhị nhìn tôi, cười tủm tỉm. Sau mới biết Hồ Dzếnh ít khi tỏ thái độ
khen chê. Anh là người kín kẽ. Thanh Châu nói về Hồ Dzếnh: “Của hiếm trong văn
học. Bút pháp của ông ấy tôi muốn học cũng không được – là văn đấy, mà cũng là
thơ đấy”.
Không
nổi tiếng như Nguyễn Tuân, nhưng Thanh Châu vẫn cứ là một bô lão trong nghề, được
nhiều cây bút trẻ trọng vọng. Họ đến với anh, thành kính như vụng trộm hành
hương về một quá khứ đã bị chôn.
Thanh
Châu bỏ bút đã đành, nhưng Kim Lân, trẻ hơn Thanh Châu cả chục tuổi, hoạ hoằn mới
cho ra một truyện ngắn. Vì “ngứa nghề” (chữ của Kim Lân), chứ không phải vì nhuận
bút. Nhuận bút bấy giờ còm cõi lắm. Đã thế lại chỉ có vài tờ báo nhận đăng thơ,
hoặc truyện ngắn. Người muốn trở thành nhà thơ, nhà văn lại quá nhiều. Thiên hạ
muốn cái tiếng cái danh, chứ nhuận bút họ không màng. Ấy là chưa kể họ còn phải
nghiến răng móc túi cho những bữa chiêu đãi các vị chức sắc ở các thứ toà soạn
Trong
số khách văn của Thanh Châu, Hồ Dzếnh là một nhân vật đặc biệt. Đặc biệt ở chỗ
anh lặng lẽ đến, lặng lẽ leo lên, rồi trầm ngâm nhấm nháp trà quạu, không nói
không rằng. Lối viết của anh, chẳng khác gì của Thanh Châu, đã không còn đắc dụng.
Viết văn giờ là công tác phục vụ cách mạng, phục vụ công nông binh, là trách
nhiệm và sự nghiệp của nhà văn. Viết cái gì, viết thế nào, đã có đảng cầm tay
chỉ việc. Mặc dầu không dính dáng gì với đám phản động "Nhân Văn - Giai Phẩm",
nhưng anh vẫn bị người ta nhìn bằng cặp mắt nghi ngờ - bọn văn nghệ sĩ cũ không
thể tin – lũ ấy kém mười lăm phút đầy phản động. Để yên thân, thỉnh thoảng anh
cũng có một bài thơ nhạt nhẽo trên tờ Lao Động. Anh không bao giờ nhắc đến
chúng.
Tôi
đọc Hồ Dzếnh rất sớm, lúc mới lên mười. Cha tôi thường mang về cho tôi những cuốn
Sách Hồng cho trẻ con, mỗi cuốn là một chuyện cổ tích. Chúng được kể với giọng
dí dỏm, dễ hiểu, lôi cuốn. Lại có cả một cuốn sách thơ cho trẻ con, không nhớ
là của ai, trong đó có hai câu còn đọng lại lâu trong trí nhớ:
Hôm
qua trời đổ mưa rào,
Mặt trời sợ ướt lẩn vào đám mây.
Mặt trời sợ ướt lẩn vào đám mây.
Cuốn
sách đầu tiên, đích thực sách, mà tôi được đọc, là Chân Trời Cũ.
Một
ngày, mẹ tôi mua Chân Trời Cũ về. Bà đọc chăm chú, có lúc thừ người ra, lấy tay
dụi mắt – bà khóc thầm.
Chờ
cho mẹ đọc xong, quên nó rồi, đi vắng rồi, tôi mới dám lấy nó ra từ trong giỏ
kim chỉ của bà. Lệ trong nhà là thế, trẻ con không được đọc sách người lớn.
Tôi
không biết nói về cảm giác của tôi là thế nào khi đọc Chân Trời Cũ. Một nỗi xúc
động bất ngờ trong tâm hồn trẻ thơ chăng? Có thể không phải thế, hoặc không rõ
ràng là thế. Những câu chuyện bình dị về những kiếp người, được viết bằng thứ
tiếng Việt chân chất, không uốn éo, không màu mè, gợi nhớ những gì tôi đã biết,
đã thấy trong cuộc sống bé bỏng của mình. Chúng để lại trong tôi ấn tượng mạnh
chưa từng có.
-
Anh là người thày đầu tiên dạy tôi yêu văn – tôi nói với Hồ Dzếnh - Còn hơn thế,
anh làm cho tôi hiểu tiếng Việt của ta đẹp đến là nhường nào.
Nghe
tôi, Hồ Dzếnh cười bẽn lẽn. Tôi dùng đúng chữ phải dùng – anh bẽn lẽn thật sự.
Mặt anh đỏ lên, mắt anh chớp chớp, anh lúng túng trước lời khen. Những con người
lớn thật sự bao giờ cũng mang trong mình một đứa trẻ.
-
Anh hiểu tôi rồi đấy – anh khẽ nói với tôi, như nói một mình – Tình yêu đối với
văn chương không bắt đầu bằng cái gì khác ngoài tình yêu ngôn ngữ. Chuyện để kể
thì ai mà chẳng có. Nhưng để viết nó ra, cho nó có hình hài, cho nó sống dậy,
cho nó đi lại, trò chuyện được với mọi người thì ngôn ngữ là cái quan trọng
hàng đầu. Và duy nhất. Nó quyến rũ mình, nó hút hồn mình, nó rủ rê mình, và sau
hết, xúi giục mình cầm lấy cây bút.
Tôi
được nghe lời tâm sự này vào một đêm khuya ở ngôi nhà nhỏ của anh, số 80 Hòa
Mã, khi Hà Nội đã ngủ yên.
-
Tiếng Việt là âm nhạc, anh ạ. Thoạt kỳ thuỷ, những câu văn xuất hiện như một
dòng nhạc. Nó ngân nga mãi trong đầu trước khi mình cả gan đặt bút lên trang giấy
trắng những chữ đầu tiên. Nó là một cái gì đó mơ hồ, ta chưa thể hình dung, một
cái gì rất mơ hồ, như mây như gió, ta không nắm bắt được nó, không làm chủ được
nó, không sai khiến được nó, cái ấy cứ cục cựa không thôi ở trong đầu, đòi được
thoát ra. Ta như bị bức bách phải cho nó đi xuống trang giấy, thành một vần
thơ, hoặc một câu văn. Sau đó thì vần thơ ấy, câu văn ấy, sẽ tự kéo theo nó những
chữ khác, những câu khác. Và cứ thế, một bài thơ, hay một truyện ngắn ra đời.
Tôi
trích ở đây một đoạn trong Chân Trời Cũ tả người khách tha hương ngồi bên bến
đò vắng tanh vắng ngắt trong chiều tà. Giở nắm cơm ra nhai trệu trạo, đoạn đứng
lên bắc loa miệng gọi đò: “Tồ ui!” Trời đã ngả màu tím. Khách không tin còn đò.
Nhưng rồi con đò ở bờ bên kia cũng rời bến sang với khách. Đêm ấy khách được ngủ
đỗ trong nhà cô lái đò tốt bụng.
Mấy
tiếng tù và khuya rúc lên, bay vào gian nhà vắng. Lắng biết mọi người đã ngủ
yên cả, vị thần tử của giang sơn Trung Hoa vắt chân chữ ngũ, khe khẽ ngâm một
bài thơ cổ, qua nỗi xúc động đột nhiên tụ lại trong người:
Uỵt
loọc, vú thày sướng mủn thín,
Coóng phống, dì phố, tui sàu mìn,
Cú chấu sèng ngồi Hồn Sán sì.
Dề pun, chống séng tâu hác sin.
Coóng phống, dì phố, tui sàu mìn,
Cú chấu sèng ngồi Hồn Sán sì.
Dề pun, chống séng tâu hác sin.
(Nguyệt
lạc, ô đề, sương mãn thiên
Giang phong, ngư hỏa, đối sầu miên,
Cô Tô thành ngoại Hàn San tự,
Dạ bán, chung thanh đáo khách thuyền)1
Giang phong, ngư hỏa, đối sầu miên,
Cô Tô thành ngoại Hàn San tự,
Dạ bán, chung thanh đáo khách thuyền)1
Ngay
lúc ấy, từ gian buồng bên, nổi lên mấy tiếng gì như chuột rúc. Lữ khách, thấy đứt
mạch cảm hứng, càu nhàu trong bóng tối:
-
Ấy dà! Cẩm tố xỉ a! (Chà! Lắm chuột thế!)
Nhưng
đó không phải tiếng chuột rúc. Đó là tiếng người con gái chở đò ban tối cười
qua hai làn môi khép kín.
Cuốn Chân
Trời Cũ văn gồm nhiều truyện ngắn, theo ghi chú của tác giả thì nó được
viết vào tháng Giêng năm 1940, xuất bản lần đầu năm 1942. Nó được tái bản nhiều
lần về sau này. Tôi rất nhớ hai câu kết của truyện ngắn Ngày Gặp Gỡ:
“Người
khách sang sông chiều muộn ấy về sau này là cha tôi. Và cô lái đò, là mẹ tôi“.
Không
hiểu sao mà câu sau cùng này lại biến mất trong lần tái bản sau cùng. Mà tôi
cho rằng đó là câu khép chuyện hay nhất. Nó mới giản dị làm sao! Mới đẹp làm
sao!
Tôi
có lần viết ở đâu đó: “Tôi có hai người thầy: Hồ Dzếnh chỉ cho tôi thấy cái đẹp
trong ngôn ngữ giản dị; Nguyễn Tuân, ngược lại, dạy tôi cách sử dụng những từ cầu
kỳ đúng chỗ để tăng sức mạnh của câu văn. Cả hai cho tôi hiểu tiếng Việt là âm
nhạc, đích thực là âm nhạc, với những tiết tấu riêng, với sự xen kẽ của những
toàn hài và cung chướng để đưa người đọc đi xa hơn, cùng với liên tưởng bất
giác để bay xa, vượt lên trên những con chữ”.
Hồi
ấy, còn nhỏ, tôi chưa gặp thơ Hồ Dzếnh. Lớn lên, đọc anh tôi mới hiểu ra tiếng
Việt, tiếng mẹ đẻ theo nghĩa đen, đã ảnh hưởng tới anh mạnh đến thế nào.
Trời
đẹp như trời mới tráng gương
Chim ca ánh sáng rộn ven tường
Có ai bên cửa ngồi hong tóc
Cho chảy lan thành một suối hương.2
Chim ca ánh sáng rộn ven tường
Có ai bên cửa ngồi hong tóc
Cho chảy lan thành một suối hương.2
Một
khúc khác:
Em
cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé!
Ðể lòng buồn tôi dạo khắp trong sân,
Ngó trên tay thuốc lá cháy lụi dần...
Tôi nói khẽ, gớm, làm sao nhớ thế!
...
Em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé!
Tôi sẽ trách - cố nhiên! - nhưng rất nhẹ;
Nếu trót đi, em hãy gắng quay về,
Tình mất vui khi đã vẹn câu thề,
Ðời chỉ đẹp những khi còn dang dở.
Thư viết đừng xong, thuyền trôi chớ đỗ,
Cho nghìn sau ... lơ lửng ... với nghìn xưa....3
Ðể lòng buồn tôi dạo khắp trong sân,
Ngó trên tay thuốc lá cháy lụi dần...
Tôi nói khẽ, gớm, làm sao nhớ thế!
...
Em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé!
Tôi sẽ trách - cố nhiên! - nhưng rất nhẹ;
Nếu trót đi, em hãy gắng quay về,
Tình mất vui khi đã vẹn câu thề,
Ðời chỉ đẹp những khi còn dang dở.
Thư viết đừng xong, thuyền trôi chớ đỗ,
Cho nghìn sau ... lơ lửng ... với nghìn xưa....3
Và
:
Trời
không nắng cũng không mưa,
Chỉ hiu hiu rét cho vừa nhớ nhung.
Chiều buồn như mối sầu chung
Lòng im nghe thoảng tơ trùng chốn xa
Ðâu hình tầu chậm quên ga
Bâng khuâng gió nhớ về qua lá dày 4
Chỉ hiu hiu rét cho vừa nhớ nhung.
Chiều buồn như mối sầu chung
Lòng im nghe thoảng tơ trùng chốn xa
Ðâu hình tầu chậm quên ga
Bâng khuâng gió nhớ về qua lá dày 4
Hay
bài thơ Chiều đã được Dương Thiệu Tước phổ nhạc mà nhiều người thuộc nhưng
không biết, hay quên, là những vần thơ của Hồ Dzếnh:
Trên
đường về nhớ đầy
Chiều chậm đưa chân ngày
Tiếng buồn vang trong mây
Chim rừng quên cất cánh
Gió say tình ngây ngây
Có phải sầu vạn cổ
Chất trong hồn chiều nay?
Tôi là người lữ khách
Màu chiều khó làm khuây
Ngỡ lòng mình là rừng
Ngỡ hồn mình là mây
Nhớ nhà châm điếu thuốc
Khói huyền bay lên cây ...
Chiều chậm đưa chân ngày
Tiếng buồn vang trong mây
Chim rừng quên cất cánh
Gió say tình ngây ngây
Có phải sầu vạn cổ
Chất trong hồn chiều nay?
Tôi là người lữ khách
Màu chiều khó làm khuây
Ngỡ lòng mình là rừng
Ngỡ hồn mình là mây
Nhớ nhà châm điếu thuốc
Khói huyền bay lên cây ...
Tôi
không rành lý luận văn học. Tôi cũng không có ý định nghiên cứu về văn Hồ Dzếnh.
Cái đó không phải việc của tôi – tôi không có cả tài năng lẫn hứng thú. Tôi có
đọc một số bài nghiên cứu về Hồ Dzếnh. Trong những bài này có khá đủ dữ kiện để
người đọc biết về Hồ Dzếnh với tư cách một văn tài. Nhưng tôi còn muốn nhiều
hơn – một chân dung Hồ Dzếnh, con người và cuộc đời.
Sau
khi được làm quen với Hồ Dzếnh, tôi tìm đọc lại vài tác phẩm của anh. Ngôn ngữ
trong những tác phẩm ấy tất nhiên khác với ngôn ngữ hiện đại. Nhưng nó không lỗi
thời. Cái đẹp vẫn còn đó nhờ sức mạnh của ngôn từ giản dị.
Năm
1986 Hồ Dzếnh vào Sài Gòn. Lần gặp gỡ này tôi được gần anh nhiều hơn những buổi
tối ngắn ngủi ở ngôi nhà phố Hòa Mã. Ngắn ngủi là vì muốn nghe chuyện anh lắm
tôi cũng không thể ngồi quá khuya, khi chị bắt đầu đi ra đi vào, có ý nhắc đã đến
giờ anh đi ngủ.
Ở
Sài Gòn hôm nào anh cũng đến rủ tôi đi ăn sáng. Bắt đầu bằng một bát phở ở một
quán theo anh là rất tuyệt ở chân cầu chữ Y, đoạn đi tiếp, uống cà phê ở một
quán khác, gần nhà hàng Bát Đạt trên đường Trần Hưng Đạo, nó cũng tuyệt không
kém. Một người bạn sành ăn sành uống đã cho anh lời khuyên, nó được anh nắn nót
ghi vào mảnh giấy nhét trong túi ngực.
Tôi
chở anh đi bằng xe Honda 67. Chúng tôi phóng vèo vèo trên phố xá. Ngồi sau, anh
ôm cứng tôi, luôn cục cựa, hết quay phải lại quay trái. Không biết trong những
chuyến cưỡi ngựa xem hoa ngày ấy có làm anh nhớ đến Cô Gái Bình Xuyên năm 1945
hay không. Nó là tác phẩm lần đầu và cũng là lần duy nhất Hồ Dzếnh rời miền ký ức
thân quen để bay lên những tầng trời tưởng tượng. Một thư sinh Bắc Kỳ lạc bước
vào Hòn Ngọc Viễn Đông gặp một nữ tướng cướp. Chàng yêu nàng. Nàng yêu chàng. Một
hôm nàng đi cướp, bị bắn. Xót nàng, băng bó cho nàng xong chàng mới ôm nàng
trong lòng, mới thủ thỉ bảo nàng hãy ở nhà, chàng sẽ đi làm công việc nguy hiểm
ấy thay nàng. Nữ tướng cướp nghe chàng, cười rũ. Nàng ép đầu chàng vào ngực mà
bảo: công việc ấy không phải của anh mà, anh hãy cầm số tiền này rồi về Bắc đi.
Nơi này, việc này không phải dành cho anh.
-
Tôi không giàu tưởng tượng – nhắc đến Cô Gái Bình Xuyên, anh cười mình – Cái gì
dính với tôi, với những kỷ niệm trong đầu thì tôi viết được, hễ bịa là y như rằng
hỏng, anh ạ.
-
Ờ, Cô Gái Bình Xuyên không quá tồi, nhưng với anh, tôi nghĩ nó là một thất bại.
Tôi
nói toạc, không sợ anh giận. Chúng tôi quen nói với nhau thật thà, không kiêng
nể.
-
Nghề của ta thế đấy. Cái mình viết đã thả ra là không cách nào đuổi theo để bắt
nó về. Vì vậy mà viết xong tôi thường để đấy rất lâu rồi mới cho in.
-
Nghĩa là anh còn nhiều bản thảo đắp chiếu?
Hồ
Dzếnh cười, tránh câu trả lời.
Hồ
Dzếnh viết thận trọng. Nhưng chỉ chừng ấy tác phẩm đã được anh thả ra cũng đủ
làm phong phú thêm nền văn học mà ta quen gọi là tiền chiến. Những gì anh viết
còn cho ta thấy được một hiện tượng khác - ấy là một người nước ngoài hoàn toàn
có thể sáng tác bằng tiếng Việt không khác gì người Việt.
Nghe
nói người Hoa khuyến khích con trai Hoa lấy vợ Việt nhưng ngăn cấm con gái Hoa
lấy chồng Việt. Chuyện này có thật - người ta làm thế là để bảo vệ nòi giống,
và cả mở rộng nòi giống nữa. Chẳng thế mà những người Tàu tha hương giữ gìn tiếng
Hoa lắm lắm, cho dù có lưu lạc đến tận đẩu tận đâu trên địa cầu. Hơn bất cứ cộng
đồng di dân nào, người Hoa coi mất ngôn ngữ là mất gốc. Tiếng bản địa đối với họ
vĩnh viễn là ngôn ngữ thứ hai, chỉ đủ dùng trong giao tiếp là được, không cần
hơn. Thời tôi, nhiều người Hoa thuộc thế hệ thứ ba thứ tư vẫn không nói sõi tiếng
nơi mình sinh sống. Trường hợp Hồ Dzếnh là hãn hữu. Mặc dầu theo phong tục của
người Hoa, anh ắt phải học và rành tiếng Hoa hơn tiếng Việt. Anh sáng tác được
bằng tiếng Việt ắt hẳn do anh có mẹ người Việt, và tiếng mẹ đẻ của anh đã chiếm
lĩnh toàn bộ tâm hồn anh.
Hồ
Dzếnh và tác giả, 1986
Cuộc
gặp gỡ nhiều ngày với Hồ Dzếnh ở Sài Gòn cho tôi hiểu anh thêm. Chúng tôi có đủ
thời gian cho những chuyện tâm tình.
Cũng
trong cuộc gặp gỡ này tôi mới biết trong sâu thẳm tâm hồn, Hồ Dzếnh có một vết
thương khó lành và không đáng có. Dù anh đã có một chỗ đứng trong văn đàn Việt
Nam, anh vẫn luôn cảm thấy có sự phân biệt: anh là nhà văn, nhưng là nhà văn
người Tàu, hoặc tử tế hơn: nhà văn gốc Hoa.
Mặc
dầu người Hoa đến Việt Nam đã ăn đời ở kiếp trên đất này, đã chôn nhiều thế hệ
cha ông ở đây, đã được người bản địa hiền hoà mở rộng vòng tay đón nhận, coi
như người trong gia đình lớn các tộc người cùng sống chung với nhau trên một mảnh
đất, nhưng đã xảy ra không ít cảnh đau lòng.
Sử
sách còn ghi trận quân Tây Sơn tàn sát một vạn sinh linh người Hoa ở cù lao Phố
vào thế kỷ 18. Trong cơn thịnh nộ: “Đánh cho để dài tóc/ Đánh cho để
đen răng/ Đánh cho nó ngựa xe tan tác/ Đánh cho nó mảnh giáp không còn/ Đánh
cho nó biết nước Nam anh hùng có chủ”, đến đàn bà trẻ con người Hoa
cũng không thoát khỏi ngọn giáo lưỡi gươm thù hận.
Theo
thống kê không mấy chính xác, năm 1978 và đầu năm 1979 đã có hai vạn rưởi người
Hoa vượt biên giới phía bắc để trở về Trung Quốc. Nhà nước Trung Hoa đỏ đặt tên
cho nó là “nạn kiều”. Tất cả bắt đầu bằng một tờ truyền đơn giả mạo tựa hồ của
chính quyền Trung Quốc kêu gọi người Hoa mau mau trở về tổ quốc để tránh một cuộc
“tắm máu” sắp xảy tới. Tờ truyền đơn do một tên vô danh tiểu tốt ở Quảng Ninh học
tiếng Trung ở Nam Ninh (Trung Quốc) thảo ra, dưới sự khuyến khích của tên quan
thầy nắm công tác tổ chức ở trung ương. Tác giả tờ truyền đơn về sau leo lên một
trong những chức vị cao nhất trong hệ thống nhà nước. Công lao được ghi nhận của
y là đã xua đuổi được hàng vạn người Hoa ra khỏi Việt Nam mà không tốn một viên
đạn. Tôi không viết tên chúng ra đây – chúng không đáng được nhắc đến.
Thế
là những con người, chứ không phải những con vật, đã ăn đời ở kiếp trên đất nước
ta bồng bế nhau, dắt díu nhau, bỏ ruộng, bỏ vườn, bỏ nhà cửa, bỏ mồ mả cha ông
chạy về cái đất nước mà tổ tiên họ đã bỏ đi để tới đất này. Ở mảnh đất bỏ đi ấy,
những địa danh chỉ được mơ hồ biết đến, được nhớ tới, trong những truyền thuyết
và những chuyện kể về đêm của những ông già bà cả. Giờ đây họ mếu máo chạy về một
chân trời xám xịt đầy một màu máu của đủ thứ cách mạng long trời lở đất, hết
cái này đến cái khác, mà họ được nghe từ những đồng bào sống sót trốn qua biên
giới.
Tổng
số người Hoa rời khỏi Việt Nam từ Bắc chí Nam trong thời kỳ này lên tới gần một
triệu trong số gần hai triệu người Hoa sinh sống ở Việt Nam, theo một con số thống
kê.
Kim
Lân, theo tôi quan sát, là bạn thân nhất của Hồ Dzếnh, Nhưng hình như có những
tâm sự chua xót Hồ Dzếnh chưa hề nói với bạn. Không phải anh có điều gì phải giấu
giếm. Chỉ là anh không muốn nói, không muốn kể, những chuyện đau lòng.
Tôi
may mắn hơn. Tôi được nghe anh kể những gì đã xảy ra với anh trong năm 1978:
“Tờ
truyền đơn ấy có tác động kinh khủng. Người ta tin nó là thật. Họ chép lại,
trao tay nhau, rồi lời đồn loang xa. Thế là người Hoa ùn ùn kéo đi. Có gì trong
nhà mang ra bán cho bằng hết, bán rẻ như cho, lùng sục mua vàng. Nhẫn một chỉ,
nửa chỉ, vài đồng cân, mua hết, không cân kẹo, không phân biệt thật giả, dắt tất
tật vào lưng quần. Lưng đeo ba lô, vai khoác tay nải, họ dắt díu nhau lên đường.
Nước mắt lưng tròng, họ hối hả đi, thất thểu đi. Thảm lắm, Tội nghiệp nhất là
những gia đình Hoa Việt - chồng đi, vợ ở lại, vợ đi, chồng ở lại. Những đứa con
mếu máo chia tay nhau, đứa đi đứa ở, xảy đàn tan nghé. Tôi có anh bạn bác sĩ
đông y người Hoa, vợ Việt, hai đứa con, một trai một gái. Anh chồng mang theo
con trai, vợ ở lại với con gái. Bao nhiêu là nước mắt. Chia tay họ, tôi khóc
ròng”.
-
Còn anh thì sao? – tôi hỏi.
-
Tôi không đi.
-
Tất nhiên, anh còn đang ngồi đây với tôi mà.
Hồ
Dzếnh thở dài:
-
Tôi không thể đi. Nơi này là quê hương tôi, là đất nước tôi, là tình yêu của
tôi. Tôi không thể bỏ.
-
Những người ra đi không lôi kéo anh?
-
Có chứ. Người ta đến nhà rủ tôi đi cùng. Hằng ngày. Người ta thương tôi, lo sợ
cho tôi.
-
Còn chính quyền?
-
Chính quyền?
-
Người ta có làm khó anh nhiều không?
-
Có đấy. Họ đến nhà, giục gia đình tôi đi. Không phải một lần. Tôi lánh mặt. Họ
hỏi vợ tôi: “Bao giờ ông bà mới chịu đi?”
-
Chị trả lời thế nào?
-
Nhà tôi bảo: “Tôi không biết. Thuyền theo lái, gái theo chồng, câu ấy chẳng lẽ
các ông không biết. Trong nhà ông nhà tôi là người quyết định, không phải tôi.
Các ông đi mà hỏi ông ấy!”
-
Ông ấy không chịu giáp mặt chúng tôi. Chúng tôi biết – ông ấy đang ở trong nhà.
-
Ông ấy đi từ sớm, lúc tôi còn ngủ. Thức dậy đã không thấy ông ấy đâu. Chắc ông ấy
không ngủ được, dậy xong là đi. Các ông thử tìm ở mấy quán cà phê xem có ông ấy
có đấy không?
“
Rồi họ cũng tóm được tôi – anh tiếp – Bảo tôi đi theo. Đi thì đi. Ngồi lên
command-car, hai người của chính quyền ngồi hai bên. Như sợ tôi chạy. Công an,
tôi nghĩ. Họ đưa mình đi đâu đây? Xe rẽ vào Hỏa Lò, anh ạ. Cái Maison Centrale
này người Hà Nội có ai không biết. Tôi tự hỏi: “Mình làm gì mà họ bắt cơ chứ”?
Xe đỗ lại trong một cái sân rộng.
Tôi
hình dung cái sân Hỏa Lò sạch bong với mấy dàn nho queo quắt. Tôi đã đứng đây
vào thời thuộc Pháp khi đi thăm cha tôi. Tôi cũng đã đứng đây chờ được đưa vào
xà lim, thời cách mạng.
“Theo
chân họ, tôi bước vào một căn phòng trống huếch trống hoác, ở tường hậu có một
cái bàn giấy. Lấy thêm ghế, phân ngôi chủ khách. Chủ ngồi trong. Tôi ngồi
ngoài. Mời uống trà. Thuốc lá sang, Thăng Long bao bạc hẳn hoi. Chuyện trên trời
dưới đất. Sau hết, mới vào đề:
-
Anh nhất định không chịu ?
-
Tại sao tôi lại phải đi?
-
Người Hoa đi cả, anh ở lại làm gì?
-
Nhà tôi ở đây, vợ con tôi ở đây, đi đâu? Việc gì tôi phải đi? tôi nói.
Họ
nhìn nhau, cười. Cứ như họ nghe một câu trả lời ngớ ngẩn của người điên. Tôi bặm
môi lại, không nói thêm câu nào nữa. Nói làm gì? Có nói họ cũng chẳng hiểu. Với
họ, tâm hồn con người là thứ vớ vẩn, họ không thể hiểu, không thèm hiểu. Rồi họ
đứng lên, ra hiệu cho tôi đi theo”.
Anh
im lặng, nhớ lại.
-
Họ đưa anh đi đâu?
“Qua
một cửa lớn làm bằng nhiều song sắt. Rồi một cửa nhỏ, cũng bằng song sắt. Nó dẫn
vào một hành lang mờ mờ tối, hai bên là những cánh cửa sơn xám có then cài với
những cái khóa bằng đồng”.
Tôi
thảng thốt:
-
Đó là khu xà lim 1. Tôi từng ở đấy. Họ giam anh?
Hồ
Dzếnh trầm ngâm. Rồi cười buồn:
“Lúc
ấy tôi cũng nghĩ thế - mình sẽ bị giam ở đây. Nhưng không, họ không giam tôi.
Một
anh có vẻ là cấp trên trong hai người mở nắp cái ô nhỏ bên trên cánh cửa, kiễng
chân nhòm vào, rồi ra hiệu cho tôi nhòm theo. Cái lỗ quan sát ấy tôi biết qua
sách. Người Pháp gọi nó là le judas. Tôi không phải kiễng chân, tôi cao hơn anh
ta, Nhòm vào, tôi giật bắn mình - bên trong là một cái xác trần truồng, gày
đét. Nghe động, cái xác hé mắt. Hoá ra là một người sống. Tất nhiên, anh ta
không nhìn thấy tôi, cái lỗ ấy chỉ cho anh ta thấy hai con mắt. May, không phải
một người quen. Tiếp theo, họ mở thêm vài cái ô như thế nữa, vẫy tôi lại, nhưng
tôi lắc”
–
Rồi sao?
“Họ
đưa tôi về nhà, cũng trên chiếc command-car ấy. Trên xe, chúng tôi không ai nói
với ai câu nào. Chỉ khi mở cửa xe cho tôi xuống, người công an cấp trên mới đặt
tay lên vai tôi: “Anh thấy rồi đấy – anh muốn về Tàu hay muốn ở lại trong cái
chỗ anh vừa thấy?”
Câu
chuyện Hồ Dzếnh kể làm tôi bàng hoàng.
Lại
thêm một cái không thể ngờ có thể xảy ra trong cuộc cách mạng mà tôi đi theo từ
thuở thiếu thời. Những người mà tôi từng gọi là đồng chí bên trong cái vỏ bọc
cách mạng đã hành xử tàn nhẫn đến thế đấy, với một nhà văn không hề chống lại họ.
Đoạn
hồi ức này không có tham vọng nào hơn là thêm vài chuyện vặt vào những gì nhiều
người đã viết về Hồ Dzếnh.
Lần
gặp anh ở Sài Gòn là lần cuối. Sau đó chúng tôi cũng không có thư từ, điện thoại
cho nhau. Tin nhắn cuối cùng anh gửi cho tôi là bài viết thay cáo phó trên tờ
Văn Nghệ,
*
Tháng
8 năm 1991, tôi ở Warszawa.
Một
buổi chiều, sau khi uống cà phê ở quán U Szwejka trên quảng trường Konstytucji,
tôi thả bộ tới đường Marszałkowska thì một chiếc taxi trờ tới. Ắt hẳn anh lái
nghĩ tôi là một du khách đang lớ ngớ tìm đường.
Ngạc
nhiên làm sao, vừa ngồi vào xe, lên tôi thấy bên mình một tờ báo tiếng Việt.
Một
hàng tít lớn đập vào mắt :”Nhà văn Hồ Dzếnh không còn nữa”.
Xem
ngày tháng thì thấy tờ báo mới ra hôm qua. Chắc hẳn người khách trước tôi là
người Việt vừa đi từ phi trường Okiecie vào thành phố đã bỏ lại.
Tôi
bàng hoàng. Tôi ít khi nghĩ tới cái chết, cho chính mình, cũng như cho những
người tôi biết. Sự sống vốn chẳng là vô hạn với bất cứ ai – biết là thế, nhưng
bất ngờ vẫn cứ là bất ngờ. Thậm chí trong hành trang của tôi vẫn còn đấy cái đồng
hồ quả quít cổ mặt sứ tôi mua ở chợ đen Donbass để gửi cho Hồ Dzếnh. Có lần nào
đó anh nói với tôi anh thích đồng hồ quả quít hơn đồng hồ đeo tay. Nó gợi nhớ
cái đồng hồ của cha anh - vật còn lại lâu hơn mọi thứ khác sau khi cha anh qua
đời và mẹ anh phải bán đi tất cả.
Tôi
nhoài lên ghế trên, hấp tấp nói lại địa chỉ. Thay vì về nhà, tôi bảo anh tài xế
đưa tôi đến chỗ khác. Ở thương vụ Việt Nam tôi có thể nhờ gửi tin nhắn bằng
telex nhanh nhất về cho con rể.
Các
con tôi đã có mặt trong tang lễ, thay tôi tiễn đưa nhà văn mà tôi yêu mến đến
nơi an nghỉ cuối cùng.
Thêm
một lần, tôi tin ở tâm linh. Nó có thật hay không có thật tôi không biết. Bằng
sự tình cờ hi hữu, Hồ Dzếnh gửi cho tôi lời nhắn cuối cùng:
“Tôi
đi đây. Chào nhé!”.
9.2016
Vũ
Thư Hiên
------------------------------------------------------
Những
tác phẩm đã xuất bản của Hồ Dzếnh:
-
Quê Ngoại (thơ, gồm những bài góp nhặt từ năm 1935 đến 1942, xuất bản năm
1943);
- Hoa Xuân Đất Việt (thơ);
- Chân Trời Cũ (tập truyện ngắn, xuất bản năm 1942 (nhà xuất bản Hoa Tiên);
- Một Truyện Tình 15 Năm Về Trước (tiểu thuyết, ký bút hiệu Lưu thị Hạnh (nhà xuất bản Hoa Tiên)
- Hai Mối Tình hay Tiếng Kêu Trong Máu (truyện dài, ký bút hiệu Lưu thị Hạnh (nhà xuất bản Hợp Lực, 1968);
- Dĩ Vãng (tiểu thuyết)
- Những Vành Khăn Trắng (tiểu thuyết, ký bút hiệu Lưu thị Hạnh);
- Đường Kẽ Mãnh (truyện ngắn, Trung Bắc chủ nhật ,số 187, 12-12-1943);
- Nhà Nhiều Con (truyện ngắn, Trung Bắc chủ nhật, số 206, 11-6-1944).
- và nhiều truyện ngắn khác đăng rải rác trong các giai phẩm xuất bản thời tiền-chiến.
- Hoa Xuân Đất Việt (thơ);
- Chân Trời Cũ (tập truyện ngắn, xuất bản năm 1942 (nhà xuất bản Hoa Tiên);
- Một Truyện Tình 15 Năm Về Trước (tiểu thuyết, ký bút hiệu Lưu thị Hạnh (nhà xuất bản Hoa Tiên)
- Hai Mối Tình hay Tiếng Kêu Trong Máu (truyện dài, ký bút hiệu Lưu thị Hạnh (nhà xuất bản Hợp Lực, 1968);
- Dĩ Vãng (tiểu thuyết)
- Những Vành Khăn Trắng (tiểu thuyết, ký bút hiệu Lưu thị Hạnh);
- Đường Kẽ Mãnh (truyện ngắn, Trung Bắc chủ nhật ,số 187, 12-12-1943);
- Nhà Nhiều Con (truyện ngắn, Trung Bắc chủ nhật, số 206, 11-6-1944).
- và nhiều truyện ngắn khác đăng rải rác trong các giai phẩm xuất bản thời tiền-chiến.
Chú
thích :
1 Bài
thơ Phong kiều dạ bạc của Trương Kế, đời Đường.
2. Xuân ý.
3. Ngập ngừng
4. Mùa thu năm ngoái
2. Xuân ý.
3. Ngập ngừng
4. Mùa thu năm ngoái
No comments:
Post a Comment